Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Thuế quan và các công cụ của chính sách thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.68 KB, 26 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Thuế quan và các
công cụ của chính
sách thương mại quốc
tế
1
2
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, việc buôn bán giao lưu xuyên biên
giới ngày càng phát triển và phổ biến ở khắp nơi. Thị trường thế giới ngày nay
đang dần trở thành một thực thể thống nhất, trong đó các bộ phận thị trường gắn
kết và phụ thuộc chặt chẽ với nhau.
Mỗi quốc gia khi gia nhập vào thị trường thương mại quốc tế chung ấy đều
có những chính sách thương mại quốc tế (hay còn gọi là chính sách ngoại thương)
phù hợp với mục tiêu và điều kiện phát triển của mình.
Chính sách thương mại quốc tế được hiểu là một hệ thống các nguyên tắc,
biện pháp kinh tế hành chính và pháp luật thích hợp mà mỗi chính phủ áp dụng để
thực hiện các mục tiêu xác định trong lĩnh vực ngoại thương của một đất nước
trong một thời kỳ nhất định phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của
quốc gia.
Trong phần này chúng tôi sẽ trình bày:
• Khái quát về thuế quan và các công cụ chủ yếu của chính sách
thương mại quốc tế mà các chính phủ thường sử dụng để quản lý các hoạt
dộng thương mại quốc tế của quốc gia mình trong quan hệ thương mại với
các quốc gia khác
• Phân tích thuế quan nhập khẩu và tác động của nó đối với quốc gia
nhập khẩu trên các khía cạnh: lơi ich của người sản xuất, người tiêu dùng,
thu nhập của Nhà nước, lượng hàng hóa nhập khẩu, giá hàng nhập khẩu
trong nước v.v…
• Phân tích cân bằng tổng quát về thuế quan được gắn với nước nhỏ


và một số phân tích khác về thuế quan.
3
I. Thuế quan:
1. Khái quát chung:
1.1. Khái niệm:
Thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay
nhập khẩu của mỗi quốc gia.
1.2. Phân loại : có 2 loại :
• Thuế quan nhập khẩu : là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập
khẩu
• Thuế quan xuất khẩu : là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu
 So sánh 2 loại thuế quan:
a. Giống nhau:
• Đều tác động tới giá cả hàng hóa có liên quan
• Đều sẽ giảm “lượng cầu quá mức” trong nước đối với hàng hóa có thể
xuất/ nhập khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đến các điều kiện thương mại khác
cũng như phân phối các loại lợi ích. Điều này đòi hỏi phải phân tích kỹ hơn qua
các mô hình.
b. Khác nhau:
Thuế quan nhập khẩu Thuế quan xuất khẩu
- Áp dụng cho hướng nhập khẩu
- Giá cả trong nước của hàng hóa bị
đánh thuế vượt quá giá cả quốc tế của
hàng hóa đó => làm hạ thấp tương đối
mức giá cả quốc tế của hàng hóa có
thể nhập khẩu xuống so với mức giá
cả trong nước
- Áp dụng cho hướng xuất khẩu
- Giá cả quốc tế của hàng hóa bị đánh
thuế vượt quá giá cả quốc tế của hàng

hóa đó => làm hạ thấp tương đối mức
giá cả trong nước của hàng hóa có thể
xuất khẩu xuống so với mức giá cả
quốc tế
1.3. Công thức tính:
Thuế quan có thể được tính với nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn thuế
quan nhập khẩu có thể tính như sau:
4
• Thuế quan tính theo một đơn vị vật chất của hàng hóa nhập khẩu. Đây là
hình thức thuế đơn giản nhất, dễ tính toán vì nó không phụ thuộc vào giá cả
hàng hóa thường có biến động:
P
1
= P
0
+ T
a
Với
0
P


giá nhập khẩu, T
a
là thuế tính theo đơn vị hàng hóa, P
1
là giá cả
hàng hóa sau khi nhập khẩu.
• Thuế quan tính theo giá trị hàng hóa là mức thuế tính theo tỉ lệ phần trăm
(%) của mức giá hoàng hóa trả cho nhà xuất khẩu ngoại quốc:

P
1
=
0
P
x

(1+t)
Với P
0
, P
1
như trên, t là tỉ lệ % thuế đánh vào giá hàng.
• Thuế quan hỗn hợp là thuế quan vừa tính theo một tỉ lệ % so với giá trị
hàng hóa vừa cộng với mức thuế tính theo một đơn vị vật chất của hàng
hóa. Có trường hợp thuế quan tính theo tỉ lệ phần trăm của mức giá hàng
hóa được bán ở thị trường trong nước P
1
chứ không tính theo P
0
. Có thể
dùng phép tính số học để chuyển hóa giữa 2 hình thức thuế quan nói trên.
1.4. Tác động của thuế quan xuất khẩu:
Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho ngân sách, nhưng nó
làm cho giá cả quốc tế của hàng hóa bị đánh thuế cao hơn mức giá trong nước.
Tuy nhiên tác động của thuế quan xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa đến bất lợi
cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nước, thường là nhỏ hơn
so với dung lượng của thị trường thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp
tương đối mức giá cả trong nước của hàng hóa có thể xuất khẩu so với mức giá cả
quốc tế. Điều đó sẽ làm cho sản lượng trong nước của mặt hàng xuất khẩu giảm đi

và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho những mặt hàng này. Trong một số
trường hợp, việc đánh thuế xuất khẩu không làm cho khối lượng xuất khẩu giảm
đi nhiều và vẫn có lợi nhiều cho nước xuất khẩu, nếu như họ có thể tác động đáng
kể đến mức giá quốc tế (thí dụ có sự độc quyền, như việc xuất khẩu sâm của triều
tiên). Một mức thuế xuất khẩu cao và duy trì quá lâu có thể làm lợi cho các địch
thủ cạnh tranh (trường hợp xuất khẩu cacao của Ghana).
Chính vì vậy mà các nước công nhiệp phát triển hiện nay hầu như không áp
dụng thuế xuất khẩu. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển, người ta vẫn sử dụng
5
khá phổ biến thuế xuất khẩu, đặc biệt là để đánh vào các sản phẩm truyền thống
nhằm tăng thêm lợi ích quốc gia. Thí dụ Zambia đã đánh thuế xuất khẩu đồng của
mình theo nhiều mức thuế khác nhau, hoặc Brazin đánh thuế xuất khẩu mặt hàng
cà phê. Các nước tổ chức OPEC tăng mạnh giá dầu mỏ xuất khẩu vào những năm
1974 và 1979 mà thực chất là đánh thuế xuất khẩu dầu mỏ (mặc dầu nó không
được gọi như vậy) và đây chính là công cụ chủ yếu trong chính sách thương mại
của OPEC. Nhìn chung nhiều nước kém phát triển đánh thuế các mặt hàng khoán
sản và nông sản, các mặt hàng truyền thống của họ đưa vào xuất khẩu.
2. Phân tích cân bằng cục bộ thuế quan nhập khẩu:
Trong công cụ thuế quan thì thuế quan nhập khẩu có vai trò rất quan trọng
và đến nay nó vẫn được sử dụng rất rộng rãi. Bởi vậy sự phân tích các tác động
của thuế quan nhập khẩu đến hoạt động thương mại quốc tế và hoạt động kinh tế
quốc tế nói chung, là cơ sở quan trọng để hiểu rõ các công cụ bảo hộ mậu dịch và
toàn bộ chính sách thương mại của một quốc gia.
Để rút ra tác động của thuế quan nhập khẩu, ta sẽ xem xét đồ thị sau:
o Dc: cầu về hàng hóa X trong nội địa Việt Nam
o Sc: cung về hàng hóa X trong nội địa Việt Nam
o Ngành này của Việt Nam là nhỏ so với thế giới
P
Q
Sc

Dc
1
P
N
B
A
G
M H
R
Sf
Sf + T
2
Q
4
Q
3
Q
1
Q
0
6
Với điều kiện thương mại tự do, giả sử giá của X là
1
P
, có:
• Cầu về X là
1
P
B đơn vị, trong đó:
1

P
G đơn vị được sản xuất trong
nước, GB đơn vị là nhập khẩu
• Sf là đường cung hàng hóa X của nước ngoài ở thị trường Việt Nam
Việt Nam đánh thuế nhập khẩu đối với hàng hóa X nhập khẩu => giá trong
nước lúc này là
2
P
, có:
• Cầu về X là
2
P
H đơn vị, trong đó:
2
P
M đơn vị được sản xuất trong
nước, MH đơn vị là nhập khẩu
• Sf + T là đường cung hàng hóa X của nước ngoài tại thị trường Việt
Nam
=> Việc đánh thuế đã gây ảnh hưởng:
• Đối với tiêu dùng trong nước thì giảm BR đơn vị
• Đối với sản xuất trong nước thì tăng GN đơn vị
• Đối với hàng nhập khẩu thì giảm ( BR + GN) đơn vị
Xét thặng dư của người tiêu dùng (được đo bằng diện tích nằm dưới đường
cầu và trên mức giá hiện hành:
• Trước khi đánh thuế, là:
1
ABP
S
• Sau khi đánh thuế, là:

2
AHP
S
Như vậy, thặng dư của người tiêu dùng đã giảm đi
12
HBPP
S
, do chuyển hóa
thành các khoản khác, bao gồm:
• Chính phủ thu được tiền thuế là
MHRN
S
• Người sản xuất trong nước thu được thêm
12
MGPP
S
• Chi phí bảo hộ của nền kinh tế, tức là phần mất không của xã hội là
HRBGMN
SS +
, trong đó:
-
GMN
S
là phần nguồn lực mà xã hội bị lãng phí do sản xuất thêm
lượng hàng hóa X mà lẽ ra nó được nhập khẩu với chi phí thấp hơn.
-
HRB
S
là lợi ích ròng mà xã hội mất đi do giảm số lượng lượng hàng
hóa X mà những người tiêu dùng định mua.

Nhận xét: Sự phân tích cân bằng cục bộ thuế quan chỉ ra rằng:
7
1) Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa của hàng nhập khẩu
cao lên, làm cho mức tiêu dùng nội địa giảm đi, sản lượng trong nước có
điều kiện tăng lên do khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt.
2) Chính phủ là người nhận được khoản thu về thuế.
3) Có sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải
mua hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận
được mức giá cao hơn).
4) Thuế quan nhập khẩu dẫn đến sự kém hiệu quả vì gây ra những tổn thất hay
còn gọi là chi phí bảo hộ.
3. Mối tương quan giữa thuế quan danh nghĩa và mức độ bảo hộ thực tế:
3.1. Khái niệm về thuế quan danh nghĩa:
Trong Thương Mại Quốc Tế, việc bảo hộ nền sản xuất trong nước của mỗi
quốc gia là rất cần thiết. Nó giúp cho các ngành sản xuất trong nước có thể phát
triển một cách bền vững và an toàn trước sự cạnh tranh của các quốc gia khác.
Một những công cụ rất hiệu quả trong chính sách bảo hộ sản xuất trong nước của
các quốc gia đó là việc áp dụng “thuế quan danh nghĩa”. Thuế quan danh nghĩa là
thuế quan được áp dụng đối với sản phẩm cuối cùng. Và người tiêu dùng là người
chịu ảnh hưởng của thuế này.
Nhưng có nhiều loại hàng hóa trung gian cũng được đưa vào mua bán quốc
tế, nếu áp dụng thuế quan đối với hàng hóa trung gian thì lợi nhuận của ngành sử
dụng các nguyên liệu này sẽ giảm xuống và toàn ngành sẽ không được bảo hộ. Bởi
vậy, nhiều trường hợp người ta không đánh thuế hoặc đánh thuế rất ít so với đánh
thuế vào sản phẩm cuối cùng để khuyến khích sản xuất trong nước, thí dụ nhập
bông sợi tự do nhưng đánh thuế khá cao đối với quần áo.
3.2. Mức độ bảo hộ thực tế và mối tương quan giữa mức độ bảo hiểm thực tế và
thuế quan danh nghĩa:
Nếu thuế quan danh nghĩa là quan trọng đối với người tiêu dùng thì mức
bảo hộ thực tế lại có ý nghĩa đối với nhà sản xuất vì nó cho biết việc bảo hộ ở mức

độ nào để họ có thế cạnh tranh đối với hàng hóa nhập khẩu.
Mức độ bảo hộ thực tế là tỷ lệ phần trăm giữa thuế quan danh nghĩa với
phần gia trị gia tăng nội địa. Chính tỷ lệ này sẽ nâng cao thêm giá trị của đơn vị
8
sản phẩm cuối cùng. Tỷ lệ này nói lên mức độ bảo hộ thực tế cao hay thấp cho các
ngành sản xuất trong nước.
× 100
Mức bảo hộ thực tế (f) thường được tính theo công thức sau:
hoặc
• fi là mức độ bảo hộ thực tế trong trường hợp thứ i
• V
i
là giá trị gia tăng trong ngành i khi áp dụng thuế nhập khẩu
• V’
i
là là giá trị gia tăng trong ngành i trong chế độ buôn bán tự do
(không có thuế quan)
• t là tỷ lệ thuế quan danh nghĩa đối với sản phẩm cuối cùng.
• t
i
là tỷ lệ thuế quan danh nghĩa đối với sản phẩm trung gian trong trường
hợp thứ i
• a
i
là tỷ lệ giữa giá trị sản phẩm trung gian với sản phẩm cuối cùng khi
không có thuế quan.
Ví dụ: giả sử nguyên liệu đầu vào nhập khẩu để sản xuất một đôi giày là
100USD. Thuế nhập khẩu nguyên liệu là 5%. Giá đôi giày khi thương mại tự do là
200USD. Thuế nhập khẩu giày là 10%. Tính mức bảo hộ thực tế đối với việc nhập
khẩu nguyên liệu để sản xuất giày nói trên.

C1: áp dụng công thức:
Ta có: V = 200–100 = 100
V’ = (200+200 10%) – (100+100 5%) = 115
f = = =15%
9
C2: áp dụng công thức: fi =
Ta có: a = =0,5.
f = =15%.
Những nhà kinh tế sử dụng thuế quan danh nghĩa quan tâm đến mức độ mà
tại đó giá cả của hàng hóa đối với người tiêu dùng trong nước tăng lên do sự tồn
tại của thuế quan. Tuy nhiên, khi sử dụng mức bảo hộ thực tế những nhà kinh tế
quan tâm tới mức độ mà tại đó “giá trị gia tăng” trong ngành cạnh tranh nhập khẩu
trong nước thay đổi bởi sự tồn tại của cấu trúc thuế quan toàn bộ.
Trong ví dụ trên khi thương mại tự do (không có thuế quan) thì giá trị gia
tăng là 100USD còn khi có thuế quan thì giá trị gia tăng là 115USD. Ngành này đã
trải qua một sự gia tăng trong giá trị gia tăng của nó bởi thuế quan, và do vậy
những nhân tố sản xuất (lao động và vốn) được sử dụng trong ngành giày da có
khả năng nhận được thu nhập cao hơn so với trong tình trạng thương mại tự do.
Do vậy, sẽ có một động lực kinh tế đối với những nhân tố sản xuất trong những
ngành khác chuyển qua ngành giày da. Bởi mức độ bảo hộ thực tế là phần trăm
thay đổi của giá trị gia tăng khi chuyển từ thương mại tự do đến bảo hộ mậu dịch.
Vì vậy mức bảo hộ thực tế có tác dụng kích thích sản xuất trong nước.
Cũng trong ví dụ trên giả sử bây giờ mức thuế chính phủ áp dụng đối với
nguyên liệu sản xuất giày 0% sau đó chính phủ tăng thuế lên thành 5%; 10%;
20%; 30% và giữa nguyên thuế nhập khẩu giầy 10%. Ta có bảng số liệu sau:
CP tăng dần thuế đánh trên nguyên vật liệu:
t
i
t a
i

f
0% 10% 0,5 20%
5% 10% 0,5 15%
10% 10% 0,5 10%
20% 10% 0,5 0%
30% 10% 0,5 -10%
10
Qua đây ta thấy:
• Khi t
i
= 0, nhà sản xuất được bảo hộ cao nhất.
• t
i
càng tăng thì mức bảo hộ càng giảm.
• t
i
= t thì mức bảo hộ thực sự bằng thuế quan danh nghĩa.
• Khi a
i
t
i.
> t mức bảo hộ âm không kích thích sản xuất trong nước vì chi
phí lớn hơn doanh thu.
Để kích thích sản xuất trong nước chính phủ thường giữ cho mức giá thành
phẩm luôn cao hơn mức thuế nguyên vật liệu. Đối với nguyên vậy liệu trong nước
không sản xuất được hoặc sản xuất kém hiệu quả thì chính phủ thường giữa cho
mức thuế quan bằng 0%.
Câu hỏi: Trong ngành sản xuất ô tô, chính phủ có nên giảm thuế nhập khẩu
phụ tùng ô tô hay không?
Do ngành công nghiệp ô tô trong nước còn chưa phất triên, vì vậy để phát

triển ngành công nghiệp sản xuất ô tô trong nước, chinh phủ cần duy trì thuế quan
nhập khẩu ở mức cao và có chính sách thích hợp để ngành công nghiệp phụ trợ
phải phát triển đủ quy mô. Qua đó tăng tỷ lệ nội địa hóa. Và việc thực hiện chính
sách giảm thuế nhập khẩu phụ tùng ô tô sẽ giúp cho ngành sản xuất phụ tùng
được bảo hộ cao hơn, giúp ngành này phát triển. Tuy nhiên việc giảm thuế nhập
khẩu phụ tùng lại gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất
phụ tùng trong nước. Và việc trả lời câu hỏi trên vẫn đang là một vấn đề làm đâu
đầu các nhà hoạch định chính sách tại Việt Nam.
4. Phân tích cân bằng tổng quát về thuế quan đối với một nước nhỏ:
4.1. Phân tích cân bằng tổng quát
a. Đối với nước nhỏ, việc đánh thuế nhập khẩu làm hàng hóa tiêu dùng sản
phẩm đó tăng nhưng không làm ảnh hưởng gì đến giá cả thế giới.
11
Đồ thị trên đã chỉ ra tác động của thuế nhập khẩu. Điều này đã phân tích rõ
ở phần I.2. Tóm lại, thuế nhập khẩu dẫn đến thu nhập chuyển giao từ người tiêu
dùng sang chính phủ và nhà sản xuất trong nước, đồng thời gây tổn thất xã hội. Do
những tác động ấy, nó khuyến khích sản xuất trong nước, làm cho người tiêu dùng
giảm sút độ thoả dụng do phải tiêu dùng ít đi nhưng nó tạo ra nguồn thu cho chính
phủ.
Thuế quan không đem lại lợi ích cho thế giới nói chung, nó làm cho nước
đánh thuế phải chịu chi phí sản xuất và chi phí tiêu dùng cao hơn mặc dù nước này
vẫn có thể có lợi trên cơ sở mức thiệt hại của phần còn lại của thế giới.
b. Xét tiếp trong một nước nhỏ, khi quốc gia X đánh thuế khá cao một hàng
hóa A trong nước, điều này sẽ tác động như thế nào tới việc sản xuất hàng hóa
khác trong nước đó?
Khi đánh thuế cao, giá hàng hóa A tăng lên ở thị trường nội địa -> mức sản
xuất trong nước của A tăng. Theo giả định nguồn lực của quốc gia là có giới hạn
nên sẽ ảnh hưởng tới việc sản xuất hàng hóa B, C… Điều này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến chuyên môn hóa (theo lợi thế so sánh) đồng thời giảm lợi ích từ thương
mại quốc tế.

c. Trong điều kiện mậu dịch tự do, theo thuyết H-O, giá cả yếu tố dư thừa
sẽ gia tăng và giá cả yếu tố khan hiếm sẽ giảm bớt. Sau này Samuelson đã phát
triển tiếp và đưa ra định lý: Sự gia tăng giá cả so sánh của một hàng hóa sử dụng
yếu tố sản xuất mà quốc gia đó khan hiếm tương đối sẽ làm cho thu nhập thực tế
12
của các yếu tố đó tăng lên. Vì vậy thuế quan làm tăng giá cả trong nước của một
mặt hàng sử dụng nhiều yếu tố sản xuất tương đối khan hiếm => bảo vệ các ngành
sử dụng nhiều yếu tố khan hiếm.
VD: ở Thụy Sĩ dư thừa tư bản nhưng lại thiếu lao động nên nước này đã
đánh thuế lên những ngành thâm dụng lao động, vì thế đã đẩy lương của công
nhân lên rất cao.
4.2. Một số phân tích khác về thuế quan.
a. Theo lợi thế so sánh:
Khi đánh thuế nhập khẩu sẽ làm giá cả tăng lên gây thiệt hại cho xã hội nói
chung. Vì tỷ lệ chuyển đổi cận biên giữa hai loại hàng hóa bị méo mó. Tuy nhiên
nếu thuế nhập khẩu có thể làm giá cả quốc tế giảm xuống thì điều kiện thương mại
được cải thiện và sẽ bù đắp được thiệt hại về sản xuất và tiêu dùng. Điều này sẽ
được giải thích bằng đồ thị sau:
Việc đưa ra thuế quan của nước lớn A làm giảm sức mua hàng hóa nhập
khẩu, dẫn đến sụt giảm trong lượng cầu của thế giới cũng như giá cả xuất khẩu
trong đất nước B. Giá cả thế giới sẽ giảm xuống cho đến khi lượng xuất khẩu được
cung tại giá cả mới bằng lượng cầu hàng hóa nhập khẩu của nước A là Pm1. Việc
sụt giảm trong giá cả thế giới có nghĩa là giá cả ở nước A không gia tăng bởi một
lượng thuế quan hoàn toàn. Kết quả là, lượng mất mát do số lượng sụt giảm ở
nước A, vùng a và b, thấp hơn so với cái mất mát ở đất nước nhỏ, nơi mà giá cả
thế giới không thay đổi khi thuế quan được đưa vào. Thêm vào đó, sự sụt giảm
13
trong giá cả quốc tế do việc đưa thuế quan vào có nghĩa là nước xuất khẩu sẽ phải
chịu một phần thuế quan.
b. Dựa vào phân phối thu nhập:

Việc đưa ra thuế quan sẽ dẫn đến một sự dịch chuyển trong nhu cầu bởi
những người tiêu dùng trong nước từ việc tiêu dùng hàng hóa nước ngoài đến tiêu
dùng hàng hóa trong nước. Với sự gia tăng này trong nhu cầu, những ngành sản
xuất trong nước sẽ mở rộng qui mô, do đó sẽ thuê thêm nhiều lao động, làm giảm
lượng thất nghiệp trong nước xuống. Ðến lượt nó, những lao động mới được thuê
mướn này gia tăng thêm thu nhập và tạo ra nhu cầu nhiều hơn với nhiều hàng hóa
khác nhau khiến cho nhiều ngành sản xuất khác trong nước cũng sẽ đồng thời gia
tăng. Chính vì vậy, thuế quan kích thích làm tăng thu nhập trong nước bằng cách
chuyển mức cầu từ hàng hóa nước ngoài sang hàng hóa trong nước.Khi đó tăng
thuế sẽ kích thích nền sản xuất trong nước đồng thời thuế quan cũng là công cụ để
điều chình các loại sản phẩm mà chính phủ muốn phát triển
c. Dựa vào cán cân thương mại:
Câu hỏi đặt ra liệu thuế quan có thật sự cải thiện cán cân thương mại hay
không? Tranh luận này là một tranh luận chung và nó đã trở nên nổi bật trong vài
năm qua bởi sự thâm thủng mậu dịch của Mỹ. Tranh luận này cho rằng, việc đưa
ra thuế quan sẽ làm giảm nhập khẩu. Giả định những hàng hóa xuất khẩu không bị
ảnh hưởng, thì kết quả hiển nhiên là cán cân thương mại sẽ được cải thiện bởi vì
cán cân thương mại trở nên ít âm hơn (có nghĩa là sự thâm thủng mậu dịch sẽ
giảm xuống) hoặc trở nên thặng dư. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến bất đồng
với quan điểm trên và cho rằng thuế quan là hoạt động vụ lợi làm cán cân thương
mại không được cải thiện và sụt giảm phúc lợi xã hội.Tất nhiên luôn có hai mặt
của một sự vật và thuế quan cũng có những tác hại nhất định của nó nếu ta không
biết sử dụng công cụ này một cách hợp lý.
d. Dựa theo quan hệ giữa các quốc gia:
Khi một quốc gia đánh thuế sẽ làm các bạn hàng ở vào vị trí bất lợi do tỷ lệ
mậu dịch của họ bị giảm đi.Kết quả là các quốc gia bạn hàng cũng đánh thuế trừng
phạt quốc gia kia và quá trình này diễn ra kéo dài, cuối cùng các quốc gia đều mất
đi lợi ích thương mại .Ngay cả khi quốc gia bị đánh thuế theo mức tối ưu để tối đa
14
hoá lợi ích thì họ vẫn bị thiệt hại vì lợi ích từ thương mại là lớn hơn lợi ích từ thuế

quan.Thế giới là thể thống nhất và chỉ có thương mại tự do mới làm cho lợi ich thế
giới là cực đại.Tuy nhiên trong thực tế khó có thể làm cho lợi ích thế giới max vì
lợi ích các quốc gia là khác nhau và luôn có các mâu thuẫn xảy ra và đánh thuế là
một trong những biện pháp để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.
Một ví dụ điển hình của việc đánh thuế trả đũa giữa Mỹ và Trung Quốc
trong thời gian vừa qua.Trung Quốc than phiền khuynh hướng bảo hộ mậu dịch tái
xuất hiện tại Mỹ.Trung quốc đã tăng thếu đánh vào gà nhập khẩu từ Mỹ lên 3,8%-
31,4% vì do cáo buộc Chính phủ Mỹ đã đưa ra mức trợ giá từ 4-30,3% giá nhập
khẩu mặt hàng này, gây phương hại đáng kể cho ngành sản xuất thịt gà Trung
Quốc.Trước đó, Washington nâng thuế nhập khẩu đánh lên vỏ xe chế tạo tại Trung
Quốc và chuẩn bị tăng thuế nhập khẩu ống thép sử dụng trong ngành khai thác dầu
khí. Bắc Kinh phản công bằng biện pháp gây khó khăn cho việc nhập khẩu phụ
tùng xe hơi Mỹ. Theo một chuyên gia Trung Quốc, biện pháp trả đũa của Trung
Quốc chỉ là động thái biểu lộ bất bình trong khi thuế đánh vào vỏ xe có thể làm
cho 100 ngàn người Trung Quốc mất việc làm
4.3. Kết luận:
Xét trên góc độ quốc gia đánh thuế thì thuế quan sẽ mang lại thu nhập thuế
cho nước đánh thuế. Nhưng đứng trên giác độ toàn bộ nền kinh tế, thuế quan lại
làm giảm phúc lợi chung do nó làm giảm hiệu quả khai thác nguồn lực của nền
kinh tế thế giới.
Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc bảo hộ thị trường nội địa,
đặc biệt là bảo hộ các ngành công nghiệp non trẻ. Thuế quan nhập khẩu sẽ làm
tăng giá hàng hóa, do vậy sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước. Tuy
nhiên, điều đó cũng sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong
nước. Thuế nhập khẩu có thể giúp cải thiện thương mại của nước nhập khẩu, điều
tiết hoạt động xuất nhập khẩu của quốc gia đó. Có thể có nhiều sản phẩm mà giá
của chúng không tăng đáng kể khi bị đánh thuế. Đối với loại hàng hóa này thuế
quan có thể khuyến khích nhà sản xuất ở nước ngoài giảm giá. Khi đó lợi nhuận sẽ
được chuyển dịch một phần cho nước nhập khẩu. Tuy nhiên, để đạt được hiệu ứng
15

đó, nước nhập khẩu phải là nước có khả năng chi phối đáng kể đối với cầu thế giới
của hàng hóa nhập khẩu.
Thuế quan có thể có những ảnh hưởng tiêu cực. Thuế quan cao sẽ ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa và do đó làm giảm lượng hàng hóa
được tiêu thụ. Thuế quan cao cũng sẽ kích thích tệ nạn buôn lậu. Thuế quan càng
cao, buôn lậu càng phát triển. Thuế xuất khẩu làm tăng giá hàng hóa trên thị
trường quốc tế và giữ giá thấp hơn ở thị trường nội địa. Điều đó có thể làm giảm
lượng khách hàng ở nước ngoài do họ sẽ cố gắng tìm kiếm các sản phẩm thay thế.
Đồng thời nó cũng không khích lệ các nhà sản xuất trong nước áp dụng tiến bộ
khoa học, kỹ thuật và công nghệ để tăng năng xuất, chất lượng và giảm giá thành.
Tuy nhiên, nếu khả năng thay thế thấp, thuế quan xuất khẩu sẽ không làm giảm
nhiều khối lượng hàng hóa xuất khẩu và vẫn mang lại lợi ích đáng kể cho nước
xuất khẩu.
Câu hỏi: Khi VN gia nhập WTO thì cần có những chính sách về thuế gì cho
phù hợp?
Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động mạnh đến thị trường
trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng
lực dự báo và phân tích tình hình, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực trước những
biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện, nhất là pháp luật về thuế quan, một số vấn đề về
thuế quan cần nghiên cứu thực hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên
của WTO:
1) Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu, mặc dù đã được sửa đổi
nhiều lần, nhưng vẫn chưa đồng bộ, nội dung chưa bao quát hết các đối tượng và
nguồn thu. Thuế nhập khẩu ở nước ta vừa đánh theo tính chất hàng hóa, vừa đánh
theo mục đích sử dụng dễ tạo ra những sơ hở, bất hợp lý để cho các đối tượng làm
ăn bất chính triệt để lợi dụng. So với các nước khác, biểu thuế suất của Việt Nam
vẫn còn phức tạp, bao gồm hàng chục nghìn dòng thuế, nhiều nhóm hàng, mặt
hàng có nhiều mức thuế suất khác nhau: giữa các mức thuế lại có sự chênh lệch rất
lớn vừa không phù hợp với xu thế hội nhập, vừa tạo kẽ hở để đối tượng nộp thuế

lợi dụng trốn thuế. Chẳng hạn, cùng một loại hàng hóa nhưng lúc nhập khẩu chỉ
16
cần khai báo sai lệch đặc tính của chúng là có thể được hưởng mức thuế suất có lợi
hơn hoặc chỉ cần khai đặc tính của loại hàng hóa có thuế suất thấp, nhưng sau khi
nhập khẩu sẽ cải tạo, thay đổi kết cấu thành loại hàng hóa có trị giá thương mại
cao hơn. Do vậy, cần tiếp tục sửa đổi các biểu thuế suất.
2) Cần ban hành ngay các loại thuế như: thuế chống bán phá giá, thuế
hạn ngạch, thuế phản kháng, thuế chống trợ cấp để chống lại "cuộc chiến thương
mại" được núp bóng tinh vi trong cái "áo khoác" tự do thương mại và toàn cầu
hóa.
3) Vấn đề cho nợ thuế kéo dài, cơ chế quản lý hàng tạm nhập tái xuất,
hoàn thuế VAT cùng với thủ tục thành lập, giải thể công ty lỏng lẻo là những sơ
hở để các đối tượng xấu triệt để khai thác trốn thuế. Đặc biệt lợi dụng chính sách
ân hạn thời gian nộp thuế nhưng không có chế tài ràng buộc đã làm cho danh sách
chây ỳ, chiếm đoạt tiền thuế xuất nhập khẩu ngày một dài thêm. Theo ước tính
hiện nay có số tiền thuế xuất nhập khẩu trên cả nước (khoảng 3.000 tỉ đồng) còn
nợ đọng kéo dài, khả năng không thể thu hồi. Đề nghị bãi bỏ thời gian ân hạn thuế
quy định trong Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu. Chỉ nên dùng một trong hai
hình thức: nộp thuế ngay hoặc có bảo lãnh của tổ chức tín dụng trước khi thông
quan hàng hóa.
4) Trình độ nhận thức và thái độ chấp hành của người nộp thuế xuất
nhập khẩu. Người nộp thuế chính là đối tượng trực tiếp thực hiện chính sách, luật
lệ về thuế xuất nhập khẩu. Vì vậy, trình độ nhận thức và thái độ chấp hành nghĩa
vụ thuế của họ đóng vai trò quyết định trong việc thu thuế và chống thất thu thuế.
Cho dù hệ thống chính sách, pháp luật hoàn thiện, phương pháp, hình thức quản lý
đổi mới, cán bộ thuế đáp ứng năng lực trình độ song vẫn không thể ngăn chặn triệt
để việc trốn, lậu thuế nếu người nộp thuế thiếu ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp
thuế. Do đó để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra, một mặt cần hoàn thiện hệ thống chính
sách, pháp luật; mặt khác, phải tuyên truyền giáo dục, vận động người nộp thuế tự
giác chấp hành đúng nghĩa vụ và quyền lợi của họ.

5) Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ khi Việt Nam đã là thành viên chính
thức của WTO, phải nâng cao năng lực của cơ quan thuế nói chung, hải quan nói
riêng; sắp xếp lại tổ chức bộ máy cơ quan thuế, đào tạo và đào tạo lại công chức
17
ngành thuế quan theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp; xây dựng hệ thống
quản lý đạt chuẩn ISO 9001.

II. Các công cụ khác của chính sách thương mại quốc tế:
1. Hạn ngạch (Quota):
1.1. Khái niệm:
Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất của
một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất hoặc nhập khẩu từ một thị
trường trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (Quota
xuất nhập khẩu).
Hạn ngạch là một công cụ quan trọng để can thiệp điều tiết khối lượng hàng
xuất nhập khẩu của một quốc gia, thông qua hệ thống quota cho phép chính phủ
ước đoán tương đối chính xác khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu trong từng thời
kì. Mà trong thuế quan chính phủ không thể dự báo được khối lượng hàng hóa
xuất nhập khẩu, vì nó thay đổi phụ thuộc giá cả thị trường quốc tế.
Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn, còn quota xuất khẩu ít được sử
dụng và nó cũng tương đương với biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện.
1.2. Tác động của hạn ngạch nhập khẩu:
Một hạn ngạch nhập khẩu sẽ làm hạn chế lượng hàng hóa được nhập khẩu.
Hạn ngạch này sẽ làm giảm lượng hàng hóa sẵn có cho tiêu dùng, cuối cùng dẫn
đến giá cả hàng hóa trong nước gia tăng. Giá cả trong nước sẽ tiếp tục gia tăng cho
đến khi lượng cung trong nước tại mức giá cao hơn, cộng với lượng hàng hóa
được nhập khẩu qua hạn ngạch bằng với lượng cầu bị giảm xuống. Tác động của
hạn ngạch xuất khẩu đến thị trường hoàn toàn giống với thuế quan. Một mức hạn
ngạch tương đương với một mức thuế quan nhập khẩu sẽ có tác động đến giá cả và
lượng hàng hóa trong nước giống nhau. Và vì thế, cũng tác động đến thặng dư sản

xuất và thặng dư tiêu dùng cũng như sự mất mát hiệu quả là như nhau.
Chúng ta sẽ đi phân tích dựa vào đồ thị sau:
18
E2
E0
G
R Q
P
P1
P0
P2
E1
S
D
Q1 Q0
Sm
• Đường D biểu diễn cho lượng cầu hàng hóa nhập khẩu trước khi có hạn
ngạch.
• Cung hàng hóa nhập khẩu dưới điều kiện thương mại tự do là đường S
• Khi thương mại tự do, điểm cân bằng là E1, lượng hàng Q0 được nhập
khẩu với mức giá P0.
• Chính phủ ra hạn ngạch nhập khẩu là Q1. Lúc này đường cung hàng hóa
là đường gấp khúc RE2Sm.
• Vị trí cân bằng thị trường bây giờ là điểm E1 với Q1 và mức giá P1.
• Giá cả đối với những người tiêu dùng trong nước nhập khẩu sẽ tăng lên
từ P0 đến P1 bởi sự khan hiếm giả tạo, trong khi giá cả trên thị trường
thế giới giảm xuống mức P2.
Phần mất mát do áp dụng hạn ngạch
- Việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến tình trạng khan hiếm hàng nhập
khẩu tại thị trường trong nước, làm giá các mặt hàng này tăng từ P0 lên P1.

- Lượng hàng tiêu thụ cũng giảm từ Q0 xuống Q1
- Mục đích của việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu là nhằm bảo hộ cho nền
sản xuất trong nước và việc này dẫn đến việc sản xuất trong nước không
đạt được tính hiệu quả tối đa.
→ Tam giác GE0E1 thể hiện sự mất mát hiệu quả của nền kinh tế do việc áp dụng
hạn ngạch nhập khẩu
Phần thặng dư
- Nếu chính phủ bán giấy phép nhập khẩu thì sẽ thu được thu nhập hạn ngạch
là vùng P1P2E1E2.
19
- Nếu chính phủ không bán giấy phép nhập khẩu thì phần thu nhập trên sẽ
thuộc về doanh nghiệp nhập khẩu.
- Trong đó, vùng P0P2E2G sẽ là phần thu nhập được chuyển đổi cho nước
nhập khẩu từ những nhà xuất khẩu nước ngoài.
- Nếu vùng P0P2E2G lớn hơn GE0E1, nghĩa là phần thặng dư cao hơn phần
mất mát → việc áp dụng hạn ngạch nhập khẩu tại nước nhập khẩu đã hoàn
thành mục tiêu, nhiệm vụ bảo hộ nền sản xuất trong nước và đảm bảo lợi
ích xã hội. Và ngược lại, nước nhập khẩu đã bị thiệt do áp dụng sai chính
sách hạn ngạch nhập khẩu.
1.3. So sánh hạn ngạch nhập khẩu và thuế quan nhập khẩu:
a. Giống nhau:
• Có tác động tương đối giống với thuế qua: hạn ngạch nhập khẩu đưa
tới sự hạn chế số lượng nhập khẩu, đồng đồng thời gây ảnh hưởng tới giá nội địa của giá
hàng hóa. Do mức cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn giá trong trường hợp thương mại
tự do.
• Hạn ngạch nhập nên giá hàng nội địa sẽ tăng lên và nó cho phép các
nhà sản xuất trong nước thực hiện một quy mô sản xuất với hiệu quả thấp hơn với điều
kiện thương mại tự do. Như vậy hạn ngạch nhập khẩu cũng dẫn đến một sự lãng phí
nguồn lực của xã hội như thuế nhập khẩu.
b. Khác nhau:

Quota nhập khẩu Thuế quan nhập khẩu
Không đem lại thu nhập cho chính phủ,
không có tác dụng hỗ trợ cho các loại
thuế khác.
Đem lại thu nhập cho chính phủ
Đưa lại lợi nhuận có thể rất lớn cho
những người xin được giấy phép nhập
khẩu theo hạn ngạch. Điều này có thể
dẫn tới hiện tượng tiêu cực khi “xin”
hạn ngạch nhập khẩu
Không mang lại lợi nhuận cho cá nhân.
Không gây ra hiện tượng tiêu cực như
hạn ngạch
Hạn ngạch nhập khẩu có thể biến một
doanh nghiệp trong nước thành một nhà
độc quyền
Quota là một loại công cụ quan trọng Chính phủ không thể dự báo được khối
20
để can thiệp điều tiết khối lượng hàng
xuất nhập khẩu của một quốc gia, thông
qua hệ thống quota cho phép Chính phủ
ước đoán tương đối chính xác khối
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu trong
từng thời kì .
lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, vì nó
thay đổi phụ thuộc giá cả thị trường
quốc tế
 Nhận xét:
• Hạn ngạch nhập khẩu mang tính chắc chắn hơn là thuế nhập khẩu nên được
một số nhà sản xuất nội địa ưa thích nó hơn, nhưng người tiêu dùng lại bị thiệt thòi nhiều

hơn còn người được hưởng lợi nhiều nhất là nhập khẩu chứ không phải nhà nước.
• Trong thực tiễn, thường quy định hạn ngạch nhập khẩu cho một số loại sản
phẩm đặc biệt hay cho sản phẩm với thị trường đặc biệt. Hạn ngạch xuất khẩu được quy
định theo mặt hàng, theo nước và theo khoảng thời gian nhất định.
2. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện:
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biện pháp hạn chế xuất khẩu, mà theo đó,
một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất
khẩu sang nước mình một cách “tự nguyện”, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa
kiên quyết.
=> hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong
nước nhưng mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện nhất định.
Hình thức này được thực hiện thông qua ba hình thức thỏa thuận:
• Thỏa thuận giữa chính phủ với chính phủ.
• Ngành xuất khẩu tư nhân với ngành tương tự ở nước nhập khẩu.
• Chính phủ ở nước nhập khẩu với ngành xuất khẩu ở nước có hàng xuất.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện được áp dụng cho các quốc gia có khối lượng xuất
khẩu quá lớn ở một số mặt hàng nào đó.
3. Những quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật:
Chúng ta thường thấy trên báo chí có đăng các tin như: Nga sẽ không tiếp
tục nhập khẩu cá Ba sa của Việt Nam, Nhật sẽ áp dụng mức dư lượng kháng sinh
tối thiểu mới đối với các lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam… Đó là những
21
thách thức về thị trường do các rào cản kỹ thuật từ các nước nhập khẩu gây ra.Vậy
những rào cản kỹ thuật (hay nói một cách khác là các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật) là gì?
3.1. Khái niệm:
Hàng rào kĩ thuật là một loại hàng rào phi thuế quan liên quan tới các biện
pháp mang tính kỹ thuật nhằm bảo đảm cung cấp cho thị trường những sản phẩm,
hàng hoá có chất lượng đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng.
3.2. Mục đích áp dụng:

-Đối với người tiêu dùng: Dễ dàng lựa chọn và sử dụng những sản phẩm
thích hợp có chất lượng và thông số kĩ thuật phù hợp với yêu cầu của mình
-Đối với người sản xuất: Giúp cho việc sản xuất theo quy mô lớn theo một
thông số quy định về kích thước, tiêu hao nguyên liệu, bán thành phẩm được sản
xuất từ nhiều nguồn khác nhau.
-Đối với người bán: Có thể dễ dàng hiểu nhau khi đàm phán về một mặt
hàng.
-Đối với hầu hết các quốc gia: Ngoài mục đích mang tính chất tích cực
trên hầu hết các nước đều dùng biện pháp kĩ thuật như một biện pháp nhằm bảo hộ
thị trường nội địa và sản xuất trong nước.
3.3. Các hình thức rào cản:
a. Các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật:
Các quy định này liên quan tới: Các yêu cầu đặt ra về đặc điểm, tính
chất của một sản phẩm ví dụ về kích thước, hình dạng, kiểu dáng, chức năng…
Các quy định về tiêu chuẩn chất lượng đa dạng, khác nhau ở mỗi nước.
b. An toàn và vệ sinh thực phẩm:
Sức khoẻ, an toàn cho người tiêu dùng và động thực vật là yêu cầu
sống còn đối với nhà xuất khẩu . Để đảm bảo điều này, các nước đã đưa ra
các hàng rào về vệ sinh thực phẩm. Sử dụng biện pháp này thường là quy
định các yêu cầu và thủ tục liên quan tới các tiêu chuẩn đối với thành phẩm
như: các phương pháp sản xuất và chế biến, thủ tục xét nghiệm, giám định, xử
lí cách li…
22
c. Các yêu cầu về nhãn mác và bao bì:
Biện pháp này được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật,
theo đó các sản phẩm phải được ghi rõ tên sản phẩm, danh mục thành phần, trọng
lượng, ngày sản xuất, thời hạn sử dụng, thời hạn bảo quản, xuất xứ, nước sản
xuất, nơi bán, mã số mã vạch, hướng dẫn sử dụng.
Đây là một rào cản thương mại được sử dụng rất phổ biến trên thế giới, đặc
biệt tại các nước phát triển.

d. Các quy định về môi trường:
Theo tổ chức thương mại thế giới WTO và Ngân hàng thế giới WB, nhãn
sinh thái là một loại nhãn được cấp cho những sản phẩm thoả mãn một số tiêu chí
nhất định do một cơ quan chính phủ hoặc một tổ chức được chính phủ uỷ nhiệm
đề ra.
Các tiêu chí này tương đối toàn diện nhằm đánh giá tác động đối với môi
trường trong những giai đoạn khác nhau của chu kỳ sản phẩm hoặc một tiêu chí
nhất định đặc trưng cho sản phẩm (ví dụ mức độ khí thải phát sinh, khả năng tái
chế, v.v…).
3.4. Xu hướng áp dụng các hàng rào kĩ thuật trên thế giới:
Trong nhiều năm gần đây, ngày càng có nhiều quốc gia áp dụng các quy
định, tiêu chuẩn kỹ thuật trong các hoạt động thương mại quốc tế, các quốc gia đã
và đang tăng cường xây dựng và thực hiện một chính sách bao gồm các quy định
và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng trong hoạt động thương mại trong nước cũng như
thương mại quốc tế.
Tuy nhiên trên thực tế, các nước thường khéo léo sử dụng các quy định một
cách thiên lệch giữa các công ty trong nước và các công ty nước ngoài, qua đó
biến chúng thành công cụ cạnh tranh có lợi cho nước chủ nhà trong quan hệ
thương mại quốc tế. Về mặt kinh tế những quy định này có tác dụng bảo hộ đối
với thị trường trong nước, hạn chế và làm méo mó dòng vận động của hàng hóa
trên thị trường thế giới. Hiện có đến 1/3 khối lượng buôn bán quốc tế gặp trở ngại
do quá nhiều tiêu chuẩn mà các quốc gia tự đặt ra.
23
Để khắc phục tình trạng này, người ta tìm cách ban hành các tiêu chuẩn quốc
tế thống nhất (như ISO và hiệp định TBT- Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong
thương mại). Nói chung những nước phát triển có lợi hơn các nước chậm phát
triển trong việc áp dụng các quy định này.
3.5 Áp dụng rào cản kĩ thuật tại Việt Nam:
a. Khó khăn
Việt Nam đã gia nhập tổ chức WTO, và một trong những yếu tố quan trọng

là thực hiện Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại.
Khi thực hiện Hiệp định này, các doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn
thách thức:
• Số lượng các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật hiện hành của Việt
Nam chưa hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế còn khá lớn (chiếm trên 70%)
• Doanh nghiệp thiếu thông tin về tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm,
hàng hoá phục vụ sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho doanh nghiệp khó có
những bước đi thích hợp để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho hàng hoá của mình, đặc
biệt về chất lượng.
Các cơ quan Nhà nước cũng gặp phải những khó khăn như phải đảm bảo
tính minh bạch trong quá trình soạn thảo ban hành và áp dụng các văn bản pháp
quy kỹ thuật và các thủ tục.
Ngoài ra, năng lực thông tin còn hạn chế ảnh hưởng tới việc đảm bảo thông
tin phục vụ quản lý Nhà nước và hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Khó khăn cuối cùng là thiếu kinh nghiệm trong xử lý các tranh chấp thương
mại liên quan đến TBT (nếu có) giữa Việt Nam và các thành viên khác của WTO.
b. Thuận lợi :
Các doanh nghiệp được tiến hành sản xuất kinh doanh trong môi trường
minh bạch về quản lý kỹ thuật và tiêu chuẩn.
Không phân biệt đối xử giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu,
giúp ngăn chặn hàng nhập khẩu kém chất lượng và bảo vệ nền sản xuất trong
nước. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có thể cạnh tranh bình đẳng, tránh
24
những ảnh hưởng bất lợi do đối thủ cạnh tranh từ những ưu đãi mang tính phân
biệt đối xử.
Tóm lại là việc xây dựng các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đối với hàng
hóa nhập khẩu vào Việt Nam là cần thiết. Song hơn bất kỳ biện pháp kỹ thuật nào,
cách bảo vệ người tiêu dùng và sản xuất trong nước tốt nhất là trước hết nâng cao
năng lực sản xuất trong nước, nhận thức của người tiêu dùng và trình độ năng lực

cơ quan quản lý bởi những biện pháp kỹ thuật đối phó với hàng nhập khẩu là
“con dao hai lưỡi”, nó có thể bảo vệ thì cũng có thể gây bất lợi cho ngành sản
xuất trong nước.
4. Trợ cấp xuất khẩu:
4.1. Khái niệm:
Trợ cấp xuất khẩu là một chính sách chính phủ để khuyến khích xuất khẩu
hàng hoá và không khuyến khích bán hàng hóa trên thị trường trong nước thông
qua chi phí thấp cho vay, giảm thuế cho xuất khẩu, hoặc chính phủ tài trợ quảng
cáo quốc tế…
Thực tế đây là một khoản thuế xuất khẩu âm hoặc là một sự chi trả của nhà
nước cho doanh nghiệp khi một đơn vị hàng hóa được xuất khẩu.
4.2. Ảnh hưởng của trợ cấp xuất khẩu:
a. Lợi ích:
Trợ cấp xuất khẩu hướng tới việc gia tăng luồng thương mại của quốc gia,
nhằm tăng thu nhập của nhà xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy
việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài.Trợ cấp xuất khẩu sẽ tạo động lực cho nhà
sản xuất có động lực để bán hàng hóa cho thị trường nước ngoài.
b. Hạn chế:
Tuy nhiên giống như thuế, nó sẽ can thiệp vào luồng hàng hóa và dịch vụ
được thương mại tự do, cũng như nó sẽ làm giảm phúc lợi của thế giới.
Trợ cấp xuất khẩu sẽ dẫn đến một sự gia tăng giá cả trong nước.Do vậy,
người tiêu dùng trong nước bị tổn hại khi nhà sản xuất trong nước nhận được
khoảng trợ cấp này.
Một thiệt thòi khác cho người tiêu dùng trong nước là việc trợ cấp xuất
khẩu sẽ không mang lại thu nhập cho chính phủ, mà ngược lại chính phủ là người
25

×