Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Sổ tay Các AH Chi đội mang tên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 19 trang )




SƠ LƯỢC
TIỂU SỬ ANH HÙNG
CHI ĐỘI EM MANG TÊN
(Biên tập và sưu tầm từ các tư liêu của Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh)


Các bạn đồng nghiệp thân mến!
Nhằm giúp các em Đội viên có tư liệu về các anh hùng chi đội mang tên, tôi
đã sưu tầm tiểu sử anh hùng từ nhiều nguồn tư liệu của Đội thiếu niên tiền phong
HCM; Đồng thời để các em Đội viên dễ nhớ, dễ khắc sâu tôi đã tóm lược các ý
chính hết sức ngắn gọn, chủ yếu giới thiệu về quê quán,năm sinh, các nét tiêu
biểu cũng như các mốc thời gian liên quan đến cuộc đời hoạt động của các anh
hùng .
Đây là tư liệu nội bộ để đội viên dễ nhớ về ý chính của anh hùng chi đội
mình mang tên ,nếu các bạn đồng nghiệp muồn tìm hiểu sâu hơn , đầy đủ hơn về
tiểu sử của các anh hùng nên tìm thêm ở các tư liệu ,sách báo hoặc tư liệu từ
trang website: lichsuvietnam.com.vn………






.


KIM ĐỒNG
********************


Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng
,quê ở thôn Nà Mạ ,xã Trường Hà, Huyện Hà Quảng ,Tỉnh
Cao Bằng

.Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên và là tổ trưởng của tổ
chức Đội ta khi mới thành lập(1941)

Kim Đồng là con trai út của một gia đình nông dân nghèo;
Bố mất sớm , anh trai tham gia cách mạng . Kim Đồng sớm
giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của
tổ chức Đảng.
Năm 1943 trong một lần đi liên lạc về. giữa đường gặp lính địch phục kích gần
nơi có cán bộ của ta.Kim Đồng nhanh trí nhử bọn địch nổ súng về phía mình.Nhờ tiếng
súng nổ ấy các cán bộ đã tránh thoát lên rừng.Song ,Kim Đồng đã bị trúng đạn và anh
dũng hy sinh tại chỗ,bên bờ suối Lê-Nin
-Hôm ấy vào ngày 15-2-1943



Võ Thị Sáu (1935–1952)
=================

V Võ Thị Sáu tên thật: Nguyễn Thị Sáu, ở xã Phước Long Thọ,
huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Mới 12 tuổi đã tham
gia cách mạng.Năm 14 tuổi chị dùng lựu đạn giết chết tên
quan ba Pháp và 20 tên lính.
Năm 1950 chị mang lựu đạn phục kích giết tên cai tổng

, tòng ác ôn tại xã nhà, lần đó chị bị bắt, sau gần 3 năm giam


, cầm và tra tấn ở Khám Chí Hoà, giặc Pháp đưa chị ra

. Côn Đảo. Chúng lén lút đem chị đi thủ tiêu , lúc giết chị tên
giặc bảo chị quỳ xuống ,chị đã quát vào chúng “ Tao chỉ biết đứng không biết quỳ”.Võ
Thị Sáu hi sinh anh dũng hồi 7 giờ ngày 23.1.1952.
Chị VÕ THỊ SÁU đã được nhà nước truy tặng Huân chương Chiến công hạng
nhất. Anh hùng Lực lượng vũ trang ( 1993)





VỪ-A-DÍNH
**************

Vừ -A -Dính ngườdân tộc H Mông,tỉnh Lai
Châu.mới 13 tuổi anh tham gia liên lạc cho dân quân,bộ
đội.
Năm 1948 trong một trận càn,giặc Pháp đã băt được
anh trong lúc đang đi công tác,chúng khảo tra , đánh đập
anh trong 3 ngày nhưng khai thác được gì; biết mình
không thoát được nên anh lừa bọn giặc phải khiêng anh đi
quanh suốt ngày trong rừng dụ rằng để chỉ nơi cơ quan
kháng chiến. khi biết bị lừa bọn giặc đã dã man bắn chết
anh.

Vừ- A- Dính đã trở thành liệt sĩ thiếu niên của Đội ta






LÊ VĂN TÁM

============
Lê văn Tám con nhà nghèo ở gần
chợ Đa Kao,Sài Gòn.Hàng ngày phải đi
bán lạc rang, đánh giày để kiếm sống.
Với những cảnh chết chóc của đồng
bào ta dưới sự dã man của giặc Pháp,Tám
nảy ra ý định phá kho xăng đạn của giặc
tại Thị Nghè.
Sau nhiều lần bán lạc rang để dò la Tám
đã quen mặt với bọn lính gác; Lợi dụng lúc bọn lính lơ là ,Tám giấu xăng trong
người chạy như bay vào chổ để xăng quẹt diêm bốc cháy , cả kho xăng và đạn
cháy nổ rầm trời thành phố.
Lê Văn Tám đã anh dũng hy sinh để lại hình ảnh thành đồng của tổ quốc
:
“Em bé đuốc sống”




NGUYỄN BÁ NGỌC
%%%%%%%%%%%%%%%%%%%

Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B trưòng
cấp I xã Quảng Trung ,huyện Quảng Xương
,tỉnh Thanh Hoá(năm học 1964-1965).
Vào những năm 1964 giặc Mỹ đổ bộ vào

miền Nam và cho máy bay đánh phá miền
Bắc.
Một hôm(1965) tại xã Quảng Trungbị
giặc ném bom dữ dội, lúc ấy người lớn đã ra
đồng ruộng chỉ còn trẻ con ở nhà .
Đang ở dưới hầm nhưng nghe tiếng khóc to ở nhà bên ,Ngọc nhào lên dìu 2
em nhỏ xuống hầm,thì bị bom bi bắn vào lưng,cứu được 2em nhỏ rồi Ngọc lả đi,vết
thưong nặng Ngọc đã hy sinh vào ngày 5-4-1965 tại bệnh viện.Noi gương ấy nhiều
bạn trong cả nước dũng cảm hy sinh cứu em nhỏ trong bom đạn của địch

LÊ HỒNG PHONG(1902-1942)


Lê Hồng Phong sinh năm1902 tại xã Hưng Thông
,Hưng Nguyên,Nghệ Tĩnh.
Năm 22tuổi anh được cử sang Xiêm rồi sang Trung
Quốc để liên lạc cách mạng,anh gia nhập cộng sản Đoàn
và tham gia nhiều lớp đào tạo quan trọng ở Trung Quốc
,Nga…và trở thành cán bộ quân sự quan trọng của cách
mạng.
Cuối năm 1934 anh được bầu làm uỷ viên dự
khuyết củaQuốc tế cộng sản .Năm1936anh tới Trung
Quốc triệu tập hội nghị TW mở đầu thời kỳ cách mạng
mặt trận dân chủ ở Việt Nam.
- Năm 1937về Sài Gòn cùng TW lãnh đạo cách mạng.
- Năm 1938 anh bị địch bắt và bị tra tấn dã man nhưng không khai thác đựoc gì chúng
đưa anh về làng quản thúc .Năm 1939 anh bị bắt lần hai . Năm1940 Thực dân Pháp đày
anh ra Côn Đảo với án 5năm tù,Chúng tìm mọi cách giết hại anh, dùng đủ cách tra
tấn.cuối cùng chúng giam anh trong hầm tối chật hẹp và cùm kẹp suốt ngày.
Ở đó ít lâu anh mắc bệnh kiết lỵ đến cạn kiệt sức lực,và anh đã trút hơi thở

cuối cùng vào ngày 6-9-1942


Nguyễn Viết Xuân
Nguyễn Viết Xuân - (sinh ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh
Tườnsssssg, tỉnh Vĩnh Phúc). 18 tuổi, anh xung phong
vào bộ đội ở trung đoàn pháo cao xạ. Trong chiến dịch
Điện Biên Phủ, đơn vị chiến đấu của anh đã bắn rơi
nhiều máy bay địch.
Năm 1964, đơn vị anh đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ
bầu trời phía Tây Quảng Bình. Buổi sáng ngày 18- 11-
1964, đơn vị anh đã đánh trả nhiều đợi tiến công điên
cuồng của lũ máy bay Mỹ với tiếng hô vang "Nhằm
thẳng quân thù, bắn!".
Lúc bị thương nát đùi bên phải, anh yêu cầu cắt bỏ chân và tiếp tục đưa vào bờ công sự,
chỉ huy chiến đấu .Khi bầu trời không còn bóng giặc mọi người hùa đến nhưng anh đã
hy sinh –
Lời hô "Nhằm thẳng quân thù, bắn!" trở thành bất tử, đã làm bạt vía quân thù và là biểu
tượng của khí phách tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng
không quân Mỹ đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Nguyễn Văn Trỗi (1940 - 1964)


Quê ở xã Thanh Quýt, Huyện Điện Bàn, Quảng Nam.
Năm 15 tuổi anh theo gia đình vào Sài Gòn, làm nghề thợ
điện ở nhà máy đèn Chợ Quán, tham gia biệt động vũ trang
thuộc Đại đội Quyết tử 65, cánh Tây Nam Sài Gòn
.Anh bị bắt lúc 22 giờ đêm ngày 9-5-1964, giữa lúc
đang gài mìn tại cầu Công Lý nhằm tiêu diệt phái đoàn quân
sự cấp cao của Mỹ do Bộ trưởng Quốc phòng Mắc-na-ma-ra

dẫn đầu, sang Sài Gòn vạch kế hoạch tăng cường và mở
rộng chiến tranh xâm lược ở Việt Nam. Anh bị xử bắn tại vườn rau nhà lao Chí Hòa -
Sài Gòn lúc 9 giờ 45 phút ngày 15-10-1964. Lúc xử bắn, anh không cho chúng bịt mắt
,anh nói “Phải để cho tôi nhìn mảnh đất nầy,mảnh đất thân yêu của tôi!” và anh hô to:

… Hãy nhớ lấy lời tôi

Đả đảo đế quốc Mỹ
Đả đảo Nguyễn Khánh
Hồ Chí Minh muôn năm
Hồ Chí Minh muôn năm
Hồ Chí Minh muôn năm
Anh được nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân
HOÀNG VĂN THỤ (1909-1944)

Hoàng Văn Thụ sinh ngày 04/11/1909,dân tộc Tày, quê xã
Nhân Lý (nay là xã Hoàng Văn Thụ), huyện Văn Uyên, tỉnh
Lạng Sơn .
Năm 1929 kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.
Năm 1934 được bổ sung vào Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Năm 1939 được bầu làm Bí thư Xứ uỷ Bắc Kỳ.
Năm 1940 được bầu vào Ban Chấp hành T W.
Năm 1941 được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương, phụ
trách công tác công - binh vận, sáng lập báo Cờ giải phóng. ĐếnTháng 8/1943, Hoàng
Văn Thụ bị thực dân Pháp bắt.
Sáng 24- 5-1944, thực dân Pháp mang anh ra xử bắn. Anh ung dung ra pháp trường
. Khi giám thị hỏi anhcó cần bịt mắt hay không, anh trả lời không cần. Quan toà hỏi
anh có cần nói lời cuối cùng, anh nói: "Trong cuộc đấu tranh sinh tử, giữa chúng tôi,
những người mất nước và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những
người như tôi là một sự dĩ nhiên. Chỉ biết rằng cuối cùng chúng tôi sẽ thắng". Cha cố

hỏi anh có cần rửa tội hay không, ông đáp: "Cảm ơn ông, tôi không có tội gì. Nếu yêu
nước, cứu nước là có tội thì những người Pháp hiện giờ đang đấu tranh chống phát
xít Đức bên nước ông đều là có tội cả. Ông hãy về hỏi xem họ có tội không?".

TRẦN VĂN ƠN

Trần Văn Ơn sinh năm 1931, dân tộc Kinh, quê ở xã
Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.Sinh ra
trong một gia đình nông dân nghèo, năm 1940, sau khi học
xong tiểu học ở thị xã Mỹ Tho, Trần Văn Ơn được lên Sài
Gòn theo học tại trường Pétrus Trương Vĩnh Ký.
Năm học 1947 – 1948, anh tham gia phong trào học sinh
yêu nước tại trường và gia nhập Hội học sinh sinh viên
Việt Nam - Nam bộ. Trần Văn Ơn đã vận động nhiều học
sinh tham gia bãi khoá phản đối vua bù nhìn Bảo Đại đến
trường, tổ chức mítting kỷ niệm ngày quốc tế lao động1-5
Anh đã tuyên truyền sách báo, tài liệu nói về chủ nghĩa Mác,và Liên Xô .Anh được
phâncông phát triển thêm mạng lưới cơ sở Hội học sinh Việt Nam.

. . Sáng ngày 9-1-1950, Trần Văn Ơn đã dẫn đầu đoàn biểu tình với khẩu hiệu
đòi quyền lợi cho học sinh, phản đối độc lập giả hiệu. Vào lúc 13 giờ, chính quyền
Sài Gòn huy động một lực lượng lớn cảnh sát kết hợp với lính lê dương bao vây
khu vực học sinh biểu tình. Một cuộc đàn áp đẫm máu diễn ra. Trần Văn Ơn đã dũng
cảm đương đầu với dùi cui, che chở cho học sinh nhỏ tuổi và các nữ sinh thoát ra
ngoài. Bọn địch nổ súng, Trần Văn Ơn đã anh dũng hy sinh. Anh vừa tròn19 tuổi.
Ngày 23-3-2000 Trần Văn Ơn được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân.
LÝ TỰ TRỌNG(1925-1931)
Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng quê xã Thạch
Minh,huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, Gia đình bị giặc khủng

bố phải chạy sang Thái Lan và anh sinh ra ở đó. Năm 1926,
anh được sang Quảng Châu học , rồi làm việc tại cơ quan
Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. -
Năm1929 anh được phái về Sài Gòn công tác ở cơ quan
Trung ương An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 9-2-1931, trong
cuộc mít tinh kỷ niệm khởi nghĩaYên Bái, anh bắn chết viên thanh tra cảnh sát Pháp
Lơ-Grăng để bảo vệ người diễn thuyết . Anh bị bắt, bị tra tấn dã man rồi lại dụ dỗ,
nhưng anh luôn luôn giữ khí tiết cách mạng. ữa đêm một ngày cuối năm 1931 kẻ thù
đưa anh lên máy chém Trước lúc hy sinh anh còn hát vang bài Quốc tế ca.Lúc ấy anh
mới 17 tuổi



Nguyễn Thi Minh Khai(1910-1941)
Nguyễn Thị Minh Khai (tên thật: Nguyễn Thị Vịnh)sinh
năm 1910 ở xã Vĩnh Yên,thị xã Vinh, tỉnh Nghệ An.
Năm 16 tuổi chị đã tham gia cách mạng. Năm1930 chị được
kết nạp Đảng,và được cử sang hoạt động ở Hương Cảng. Năm
1931-1933 bị đặc vụ Quốc dân Đảng Trung Quốc bắt giam .
Năm 1935 học Trường Đại học Phương Đông ở Liên Xô. Đại biểu chính thức của
Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ở Mat-cơ-va.
Năm1936 về nước làm bí thư Thành uỷ Sài Gòn và uỷ viên Xứ uỷ Nam Kỳ.(Nguyễn
Thị Minh Khai là người đồng chí, người bạn đời của Lê Hồng Phong).
Năm 1940, bị bắt tại Sài Gòn;bị thực dân Pháp kết án tử hình,bị bắn tại Hóc
Môn 28.8.1941. Nguyễn Thị Minh Khai là nữ chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất
khuất, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.


BẾ VĂN ĐÀN


Bế Văn Đàn ngưòi dân tộc Tày ở xã Quang
Vinh,huyện Phục Hoà, tỉnh Cao Bằng. Anh vào bộ đội
rất hăng hái và dũng cảm chiến đấu góp phần làm cho
giặc Pháp điên đảo trong chiến dịch Đông Xuân.
Đầu năm 1954 trong trận đối đầu ác liệt với địch
nhiều đồng chí đã hy sinh ;Quyết trả thù cho đồng đội
nhưng lúc đó tầm súng của xạ thủ Pù thấp quá ,không
chút ngập ngừng anh quỳ xuống lôi khẩu súng của Pù
đặt lên lưng 2tay ghì chặt súng và thét”Bắn,bắn…trả thù
cho các đồng chí”. Khẩu trung liên của Pù nhả đạn làm
kẻ địch kinh hoàng.

Bế Văn Đàn đã oanh liệt hy sinh vớii hình ảnh “Lấy thân mình làm giá súng”.
Anh được nhà nước tặng thưởng huân chương quân công hạng nhì


Ngô Gia Tự ( 1908 - 1935)
Ngô Gia Tự sinh ngày 3-12-1908 ở làng Tam Sơn, phủ Từ Sơn,
tỉnh Bắc Ninh (nay là huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Anh say
mê đọc sách, học rộng tài cao, lại thêm biết nuôi chí lớn lo nước
thương dân. Người anh ruột là Tri huyện muốn anh cố học để ra
làm quan, nhưng ông kiên quyết đi theo con đường cách mạng,
cứu dân, cứu nước.Từ năm 1926 anh gia nhập Việt Nam Thanh
niên Cách mạng đồng chí hội, rồi được sang Trung Quốc dự lớp
huấn luyện. Giữa năm 1927 anh trở về nước, công tác ở tỉnh bộ
Bắc Ninh, anh gây dựng được nhiều cơ sở, tích cực hoạt động
trong nông dân binh lính và bám sát phong trào công nhân
.Cuối năm 1928, anh vào Sài Gòn hoạt động dưới lốt công nhân khuân vác, tuyên
truyền giáo dục cách mạng, tổ chức và lãnh đạo công nhân đấu tranh.Khỏang năm
1929, anh ra Hà Nội dự phiên họp thành lập chi bộ đảng Cộng sản đầu tiên ở số nhà 5D

phố Hàm Long (Hà Nội).Sau đó được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời đảng bộ Đảng
Cộng sản Đông Dương ở Nam Kỳ.Cuối năm 1930, anh bị địch bắt tại Sài Gòn đến 5-
1933 thì bị đầy ra Côn Đảo. Vào một đêm cuối tháng 1-1935, chi bộ nhà tù tổ chức cho
ông và một nhóm anh em vượt Côn Đảo, nhưng anh và các bạn đã mất tích giữa biển,
Lúc ấy anh tròn 27 tuổi.

HÀ HUY TẬP(1902-1941)
Hà Huy Tập sinh 1902. quê làng Kim Nặc, huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Vốn là giáo viên của trường tiểu học
Vinh, từ năm 1926 ông tham gia nhóm Phục Việt (sau đổi tên
là Tân Việt). Năm 1927, ông vào Nam, cùng nhiều đồng chí
khác hoạt động phát triển tổ chức đảng Tân Việt. Tháng 12-
1928, ông sang Quảng Châu, liên lạc với Tổng bộ Việt Minh
Thanh niên cách mạng đồng chí hội, được giới thiệu sang
học ởLiên Xô ở trường Đại học Phương Đông
tại Mátxcơva với bí danh Suixkine.Đến năm 1932, ông lên đường về nước, nhưng
đến Pháp thì bị bắt và bị trục xuất sang Bỉ. Ông tìm cách sang Trung Quốc. Từ 1934,
ông tham gia Ban chỉ huy hải ngoại Đảng. Năm 1935, ông có chân trong Ban chấp
hành trung ương tại Thượng Hải. Sau đó ông về nước tích cực hoạt động.Tháng 5-
1938, ông bị bắt tại Sài Gòn rồi bị trục xuất về quê để quản thúc. Hai năm sau chúng
lại đưa ông vào Sài Gòn để xử lại, tuyên án 5 năm tù . Đến ngày 25-3-1941 chúng lại
tuyên án tử hình, và xử bắn tại Hóc Môn. Hà Huy Tập là một chiến sĩ Cộng sản kiên
cường, lập công đầu trong công cuộc chống đế quốc

MẠC THỊ BƯỞI (1927-1951)
Mạc Thị Bưởi sinh năm 1927 tại xã Nam Tân, huyện Nam
Sách, tỉnh Hải Dương. Trong Cách mạng tháng Tám, cô
tham gia Phụ nữ Cứu quốc tại địa phương. Sau khi Pháp tái
chiến Đông Dương, cô bắt đầu tham gia lực lượng du kích và
là một cán bộ chính trị cơ sở, hoạt động ở địa phương, vốn

nằm trong vùng kiểm soát của quân đội Pháp.
Năm 1949, quân đội Pháp xây dựng bốt (đồn)…, liên tục tổ chức càn quét ở xã Nam Tân. Vì
vậy cán bộ ở xã phải sang các vùng lân cận, Mạc Thị Bưởi vẫn tiếp tục ở lại xây dựng tổ chức
cho Việt Minh . Hơn thế, cô còn tổ chức các tổ nữ du kích, xây dựng cơ sở ở xã; vận động
quần chúng chống nộp thuế, đi phu cho quân Pháp. Năm
1950, quân Việt Minh tấn công đồn Thanh Dung, Mạc Thị Bưởi đã thực hiện việc trinh sát
tiền trạm, tạo cơ sở để trận đánh thành công. Quân đội Pháp nhiều lần treo giải thưởng để
bắt Mạc Thị Bưởi, nhưng đều không thành công. Năm 1951, cô làm nhiệm vụ vận động nhân
dân vùng tạm chiếm chuẩn bị g ạo s ữa chuyển ra vùng tự do phục vụ chiến dịch Trần Hưng
Đạo, đánh đường 18. Trong một chuyến vận chuyển đó, bà bị quân Pháp phục kích bắt được
và tra tấn tàn bạo. Cô kiên quyết không khai một lời và bị giết vào ngày 23 tháng 4 năm 1951,
khi đó cô mới 24 tuổi
.
Ngày 31- 8 -1955, Mạc Thị Bưởi được nhà nươc truy tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Huân chương quân công hạng2



ĐẶNG THUỲ TRÂM
Đặng Thuỳ Trâm sinh trưởng trong một gia đình trí thức Hà
Nội. Bố là bác sĩ ngoại khoa, mẹ là dược sĩ, giảng viên
trường Đại học Dược Hà Nội. Tốt nghiệp trường Đại học Y
khoa Hà Nội năm 1966, Thùy Trâm tham gia Quân đội
Nhân dân Việt Nam với tư cách là một bác sĩ quân y và
được điều vào công tác ở Đức Phổ, chiến trường Quảng
Ngãi .Thùy Trâm vào Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày 27 -
9- 1968.
Ngày 22 tháng 6 năm 1970, bệnh xá Đức Phổ bị tập kích,
Đặng Thùy Trâm hy sinh


. Hài cốt cô được mai táng tại nơi
hy sinh,
Sau thống nhất được đưa về nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường,huyện Đức Phổ.
Năm 1990, được gia đình đưa về nghĩa trang Xuân Phương, Từ Liêm, Hà Nội.Cô
là tác giả hai tập nhật ký được viết từ ngày 8 -4- 1968 cho đến ngày 20- 6- 1970( 2
ngày trước khi hy sinh). Hai tập nhật ký này được Frederic Whitehurst, cựu sĩ quan
quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ cho đến vào cuối tháng 4- 2005 trả lại cho gia đình .
Đặng Thuỳ Trâm được Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam truy
tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 2006


Nguyễn Văn Cừ (1912 - 1941)
Nguyễn Văn Cừ quê làng Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1926, tham gia lễ truy điệu Phan Châu Trinh nên bị đuổi học. -
Năm 1929 Gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và trở
thành đảng viên Đông Dương Cộng sản Đảng.
-Những năm 1929 – 1930 hoạt động tại vùng mỏ, phụ trách các chi
bộ Đảng ở Mạo Khê, Cửa Ông, Cẩm Phả .Tháng1.1931 bị bắt
giam ở Hoả Lò,kết án tù chung thân ; Đến 1932 bị đày đi Côn Đảo. Anh tham gia các lớp học lí
luận cách mạng bí mật tổ chức trong nhà tù; phụ trách tờ báo “Người tù đỏ”; viết bài cho tạp
chí “Ý kiến chung”. Năm 1936 ra tù trở về Hà Nội, khôi phục và tham gia Xứ uỷ Bắc Kỳ, trực
tiếp lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ. Tháng 9-1937 là Uỷ viên thường vụ Ban Chấp hành
TW Đảng Cộng sản Đông Dương . Tháng 3.1938, được cử làm tổng bí thư của Đảng. Tháng11-
1939 Chủ trì Hội nghị VI của Ban Chấp hành TW Đảng ở Hóc Môn, Gia Định nêu cao nhiệm
vụ giải phóng dân tộc và thành lập Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế. Thang1-1940 bị thực

dân Pháp bắt kết án tử hình. Và anh bị bắn ngày 28-8-1941 ở Hóc Môn . Nguyễn Văn Cừ là một
chiến sĩ cộng sản kiên cường, , đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

CÙ CHÍNH LAN

**********************
Cù Chính Lan sinh năm 1930 ở xã Quỳnh Đôi,huyện Quỳnh
Lưu ,tỉnh Nghệ Tĩnh trong một gia đình nông dân nghèo.Năm
1945 anh tham gia cùng nhân dân cướp chính quyền .Năm
1951 anh tham gia chiến dịch Hoà Bình cùng đồng đội bắn
cháy 4 xe tăng ,một chiếc chạy theo hướng Xuân Mai nhả đạn
vào trận địa,anh đã bám theovà dùng lựu đạn đánh vào chiếc xe
ấy bốc cháy,anh được thưởng huân chương quân công với danh
hiệu anh hùng đánh xe tăng.

Năm 1952 trong trận đánh GôTô,anh đã anh dũng chiến đấu dù mất lần từng cánh
tay , cánh chân ,còn miệng anh vẫn cương quyết “ Tôi còn mồm,chỉ huy chiến đấu
được”.triệt hạ đồn xong anh tắt thở.Lúc đó anh mới 23 tuổi. Được nhà nước phong
danh hiệu “Anh hùng quân đội nhân dân” là liệt sĩ





LA VĂN CẦU
La văn Cầu người dân tộc Tày,sinh năm 1932 tại xã
Quang Thành, Trùng Khánh,tỉnh Cao Bằng.
Với lòng khao khát đựoc cầm súng giết giặc trả thù cho
cha và giải phóng đất nước mới 16 tuổi anh khai lên 18 tuổi
để được vào bộ đội .Năm 1950 lúc đánh trận Đông Khê lần
1 anh đau chân nhưng vẫn xin đi đánh,dù vậy anh vẫn vác
được khẩu súng 12ly7 thu của địch về tới đơn vị.Trận đánh
Đông Khê làn 2 anh được phân công chỉ huy tổ bộc phá
đánh vào lô cốt đàu, địch tập trung hoả lực đánh trả nhiều
đồng chí đã bị thương; khi đó cánh tay phải của anh bị gãy

nát nên anh yêu cầu đồng ddooij chặt đứt cánh tay để khỏi
vướng víu rồi ôm bộc phá đánh vào lô cốt đầu
mở đường cho đơn vị xung phong.
Năm1952 được chính phủ và Bác Hồ tặng huy chương kháng chiến hạng nhất.
Ngày 19-5-1952 anh được tặng anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

PHAN ĐÌNH GIÓT

Quê ở Cẩm Xuyên,tỉnh Hà Tỉnh,bố chết sớm hai mẹ con
lam lũ nghèo khó
Năm 1950 anh mang cát sỏi vào mình cho đủ cân để được
tòng quân đánh Pháp.
Cuối năm 1953 đơn vị anh được giao đánh đồn Him
Lam-Điện Biên Phủ,mở màn cho chiến dịch,Anh đã cùng
đồng đội đánh
quyết liệt vào các hoả điểm của địch,nhưng còn một hoả điểm vẫn xối đạn liên tục
làm cho đồng đội không tiến lên được.Anh liền nghĩ cách bịt nó lại.Anh lao lên ném
hết số lựu đạn rồi ngã người úp lưng che kín lỗ châu mai của địch; đồng đội xông lên
chiếm cứ điểm Him Lam mở đầu thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ






TRẦN PHÚ
Trần Phú sinh ngày 1-5-1904 quê xã Tùng Ảnh, huyện Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm1924 tham gia cách mạng đồng chí hội lấy tên là Lý
Quý.

Năm 1925 tham gia cách mạng Việt Nam cộng sản Đảng
Năm 1927 học tại Mac-cơ-va
Năm 1929 bị Pháp kết án tử hình vắng mặt
Năm1930 về nước hoạt động
Tháng 10-1930 thảo ra luận cương chính trị của Đảng và
được bầu làm tổng bí thư đầu tiên của Đảng.
Ngày 19-4-1931 bị bắt tại Sài Gòn ,chúng đánh đạp tra tấn hết sức dã man,sau đó
chúng đưa anh vào nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn) nhưng không chịu đựng nổi
anh đã mất vào ngày 3-9-1931







Tô Vĩnh Diện (1924-1953)
Tô Vĩnh Diện - sinh nǎm 1924, quê ở xã Nông Trường huyện Nông Cống, tỉnh
Thanh Hóa. Nhà nghèo, từ 8 đến 20 tuổi phải đi ở cho địa chủ, chịu đựng bao cảnh
áp bức bất công. Tháng 7-1949, xung phong vào bộ đội, hoàn thành x.uất sắc mọi
nhiệm vụ. Tháng 5-1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị
đánh lớn, Tô Vĩnh Diện được điều làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo.Trên đường
kéo pháo ở Điện Biên, pháo lao nhanh xuống dốc, Tô Vĩnh Diện xông lên trước, lấy
thân chèn bánh pháo, cứu pháo an toàn, hy sinh một cách anh dũng. Anh đã được
Quốc hội truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân

VŨ BẢO
Liệt sĩ Vũ Bảo tên thật là Võ Văn Bảo, sinh năm 1949 trong một gia đình
nghèo có truyền thống cách mạng tại xã Cát Khánh (Phù Cát) Bình Định. 14 tuổi,

Vũ Bảo đã giác ngộ cách mạng và tham gia làm giao liên du kích. Với lòng nhiệt
tình, xông xáo và mưu trí, Vũ Bảo luôn hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được
giao. Ngày 20/7/1963, giặc bất ngờ đổ quân bao vây thôn An Quang hòng tiêu diệt
các cán bộ cách mạng đang công tác tại đây. Trong lúc chèo thuyền đưa các cán bộ
vượt vòng vây, Vũ Bảo đã anh dũng hy sinh. Trước khi hy sinh, Vũ Bảo nói: "Một
mình cháu hy sinh cũng không ảnh hưởng nhiều đến cách mạng. Nếu các chú hy
sinh thì thiệt hại cho Tổ quốc, cho đồng bào nhiều lắm." Hành động hy sinh dũng
cảm của Vũ Bảo đã được Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tặng
thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng ba. Ngày 17/7/2002, Chủ tịch nước
đã truy tặng liệt sĩ Vũ Bảo danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân
DƯƠNG VĂN NỘI
Dương Văn Nội tham gia Đội thiếu niên cứu quốc Thủ Đô từ tháng 10 năm 1946. Lúc
đó Nội mới 14 tuổi, Nội cùng hơn 60 bạn khác ở các phố Đội Cấn, Ngọc Hà… vào đội
giao thông thuộc khu Thăng Long. Đầu tháng 12 năm 1946, trước ngày toàn quốc
kháng chiến ít hôm, Nội được cử sang làm liên lạc cho một đại đội tự vệ chiến đấu ở
khu Thăng Long. . Đến tháng 3 năm 194, đơn vị của Nội về đóng ở chợ Giang Xá và
lấy tên là Đội du kích Thủ Đô. Đầu tháng 4 năm 1947, giặc Pháp mở cuộc hành quân
lớn gồm nhiều mũi càn quét vào nơi Đội du kích Thủ Đô đóng quân. Nội đã cùng các
anh tham gia chiến đấu. Với khẩu súng trường cao gần bằng người. Nội bình tĩnh và
nhanh nhẹn bắn giặc. Một mình Nội đã hạ được 3 tên giặc Pháp. Sau đó, súng hết đạn,
Nội bị trúng đạn giặc hy sinh ngay tại trận. Hôm ấy là ngày 2 - 4 - 1947, Nội vừa bước
sang tuổi 15. Dương Văn Nội đã được Đảng và Nhà nước truy tặng Huân chương
chiến thắng hạng nhì.
HỒ VĂN MÊN
Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh
Sông Bé trong một gia đình nghèo. Lên 6 tuổi, mồ côi mẹ. Năm 10 tuổi, cha bị bọn Mỹ
Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ Văn Mên liền vào đội thiếu nhi tham gia
giết giặc từ đấy. Đến năm 13 tuổi, đã tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên địch,cùng
nhiều xe cơ giới của địch. Sống với bà nội, Mên tỏ ra là đứa cháu ngoan, đỡ bà việc
nhà, cùng bà đi chợ bán trầu cau lấy tiền sinh sống.Nhiều nơi mang dấu tích và chiến

công của anh như: Cua Cát, Phú Văn, Chợ Mới… đã đi vào lịch sử đánh giặc của tỉnh
Sông Bé.Một lần bị giặc bắt, Mên đã tìm cách trốn thoát và lại tiếp tục đánh giặc.Trận
đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn 59 tên sĩ quan và binh lính ngụy ở sòng bạc Phú
Văn.Hồ Văn Mên đã được tặng ba danh hiệu vẻ vang: dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe
cơ giới, dũng sĩ diệt xe cơ giới cấp ưu tú.Năm 1967, Hồ Văn Mên được ra miền Bắc
thăm Bác Hồ và là đại biểu nhỏ tuổi nhất trong đoàn thiếu nhi dũng sĩ miền Nam ngày
đó.Anh mất ngày 5-3-1984 do vết thương ở sọ não trong trận đánh giặc trước đây tái
phát.


KƠ-PA-KƠ-LƠNG
Kơ-pa-kơ-lơng sinh ngày 19-8-1948 dân tộc Gia Rai,Tây nguyên.Căm thùMỹ-Diệm
giết cha trong cuộc nổi dậy của dân làng,anh quyết chí trả thù.
13 tuổi anh đã xin vào đội du kích ,nhưng không đựoc chấp nhận,anh liền tự làm
nỏ,phục kích bắn bị thương 1 tên giặc,nó không chết vì tên không tẩm thuốc độc.anh
bèn xin người già mũi tên có độc và bắn chết 3 tên liền.Thế là anh được nhận vào đội
du kích và dược phát súng với 3 viên đạn phải hạ đựoc 3 tên giặc.KơPa Kơ lơng đã
bắn phát thứ nhất xâu liền 5 tên,phát thứ hai xau liền ba tên còn viên thứ ba anh nộp
lại vì đã hai quá 3 tên. Đến một trận khác anh bắn 3viên hạ 7 tên ,một lần khác nữa
anh bắn 7 viên hạ 19 tên giặc.
Trong đơn xin gia nhập quân đội anh viết “ em đã giết 34 tên Mỹ nguỵ,phá được 8 xe
cơ giới , nay em đã lớn xin cấp trên cho em được vào quân giải phóng.
Năm 15 tuổi KơLơng đã đánh 30 trận,giật 12 quả mìn lật nhào 8 xe cơ giới,diệt 88 tên
địch,trong đó cố 4 tên Mỹ.
KơPa KơLơng được tặng danh hiệu anh hùng quân đội
NGÔ MÂY
Ngô Mây quê ở làng Cát Chánh ,huyện Phù Cát ,tỉnh Bình Định.mồ côi cha từ thưở nhỏ
Mù thu năm 1945 anh trơ thành đội viên đội “Tự vệ sắt” của làng.
- . Theo lời Bác gọi “thanh niên cảm tử ,cho tổ quốc quyết sinh” anh có mặt ngay
trong đội cảm tử của tỉnh nhà.Anh viết quyết tâm thư nguyện ôm bom giết giặc.

Anh được bố trí mai phục ở trong rừng suối Vôi, Hơn một đại đội Âu Phi và bốn xe cơ
giới ầm ầm lao trên đường An Khê,anh ôm bom ra nấp ở vệ đườngchờ giặc đến.Như kế
hoạch quân ta rút lui, giặc mắc mưu xông ra miệng hò hét:-Việt Minh đâu,Việt Minh
đâu? Như ánh chớp Ngô Mây vụt lên thét lớn :”Việt Minh đây”
Bọn giặc thấy anh một mình liền ùa tới toan bắt sống,anh liền nhấc bổng quả bom lao
lên phía giặc: “Ầm”,tiếng nổ xé trời ,bọn giặc tiêu tan.trái bom của anh đã chặn đứng
cuộc đụng độ đàu tiên mở đường cho các trận ác liệt sau nầy.
Ngô Mây đã hy sinh nhưng tấm gương ngưòi liệt sỹ trẻ tuổi “Quyết tử cho tổ quốc
quyết sinh” chẳng bao giờ phai

NƠ TRANG LƠNG
Từ khi thực dân pháp đặt chân lên vùng Tây nguyên,các cuuộc nổi dậy của đồng bào
miền núi xảy ra liên tục.Quan trọng nhất là cuộc nổi dậy của người anh hùng Tây
nguyên- Nơ Trang Lơng chống lại âm mưu bình định Tây nguyên.
Thành tích nổi bật nhất là trận hạ đồn Bù-mê-ra ,giết được tên sĩ quan khét tiếng
Hăng-ri met:
Lúc ấy năm 1911 Hăn-ri-met hành quân vào vùng Mnông đốt làng hãm hiếp
và giết cả nhà Nơ-trang-lơng.
Năm 1914 Nơ trang lơng cùng em lập mưu gạt Hăng ri met kéo quân ra khỏi
đồn,Ngiã quân chia làm 2 cánh .một cánh giết chết Hăng ri met,một cánh triệt hạ đồn
Bù mê ra.
Nơ Trang Lơng tiếp tục cầm đầu cuộc kháng chiến đến tháng 5 -1935 ông đã hy sinh
Từ đó trong lịch sử tên tuổi Nơ Trang Lơng đựoc nhắc đến như các anh hùng của dân
tộc
Lê Thị Hồng Gấm

Lê Thị Hồng Gấm, sinh nǎm 1951, trong một gia đình nông dân
lao động ở xã Long Hưng, huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay
thuộc Tiền Giang). Tham gia cách mạng từ nhỏ, việc gì được
giao cũng nhận và hǎng hái làm tròn. Đối với đồng đội thì ơn

nghĩa chí tình như đứa em gái.
Chị hi sinh trên đường giao liên vào xuân 1970, sau khi một mình tiêu diệt
nhiều tên địch, bắn rơi máy bay lên thẳng của địch. Bi thương nặng biết không qua
khỏi, chị đã bắn đến viên đạn cuối cùng, gắng sức đập gẫy nát khẩu súng không để lọt
vào tay địch. Lúc đó Hồng Gấm mới 19 tuổi.







Lê Thị Riêng (1925 - 1968)
Lê Thị Riêng Quê Bạc Liêu, nguyên ủy viên Ủy ban Trung ương
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Phó Hội trưởng Hội Liên
hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam. Bị địch bắt vào tháng 5-1967,
giam tại nhà lao Biên Hòa. Dù địch tra tấn vô cùng dã man, chị
vẫn không khuất phục.

Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, chị bị địch giết chết trên
đường Hồng Bàng - Sài Gòn (nay thuộc đường Hùng Vương).

Phan Đăng Lưu (1902 - 1941)

Phan Đăng Lưu (1902 - 1941), nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Quê: xã Tràng Thành (nay là Hoa Thành),
huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp Trường Canh nông
(Tuyên Quang). Tham gia Hội Phục Việt (sau đổi thành Tân Việt
Cách mạng Đảng), uỷ viên Tổng bộ. Năm 1928, tham gia xuất bản
“Quan hải tùng thư” tại Huế; uỷ viên thường vụ của Tổng bộ Đảng

Tân Việt. Đại diện Đảng Tân Việt sang Quảng Châu để bàn việc hợp nhất với Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên. Bị bắt tại Hải Phòng (9.1929), bị kết án tù khổ sai và đày đi
Buôn Ma Thuột. Ra tù năm 1936, tham gia lãnh đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế.
Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1938); uỷ viên thường
vụ (1940), được phân công chỉ đạo phong trào ở Nam Kỳ. Dự Hội nghị VI (11.1939, hội
nghị quyết định nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, thành lập Mặt trận Thống nhất Dân

tộc Phản đế) và Hội nghị VII (11.1940) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bị bắt
22.11.1940 khi vừa về đến Sài Gòn. Bị thực dân Pháp kết án tử hình và bị bắn ở Hóc Môn
(28.8.1941). Phan Đăng Lưu là một chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất, đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân Việt Nam


Tô Hiệu (1912-1944)

. Tô Hiệu người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Cha ông l
.
. làm nghề dạy học.Những năm 1925-1926 ông theo học trường Pháp - Việt
. tại thị xã Hải Dương, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để

. tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh trượt trong kỳ thi tiểu học. Năm 1927
Tô Hiệu lên Hà Nội, vừa học vừa kiếm tiền nuôi thân, vừa tham gia hoạt động yêu
nước trong phong trào học sinh. Sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông
Dương. Năm 1930 ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt, chúng kết án 4 năm tù
giam, đày đi Côn Đảo. Mùa thu năm 1938, ông được Trung ương Đảng phân công phụ
trách miền duyên hải Bắc kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Đảng Hải Phòng. Ngày
30/5/1939, Tô Hiệu lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước. Ngày

1/12/1939, ông bị bắt trên đườngđi in tài liệu ở HảiPhòng .Năm 1940 ông bị đày lên
Sơn La. Tại đây Tô Hiệu được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, ông đã lãnh đạo anh em

kiên trì đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù. Ngày 7/3/1944 Tô Hiệu qua đời tại Sơn
La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi. Hưởng dương 32 tuổi.

Hồ Văn Nhánh
sinh năm 1955 tại xã Long Hưng, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang trong một
gia đình nông dân.Năm 1968, ông giác ngộ cách mạng, tham gia Đội du kích mật của
xã nhà. Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân (1968) của ta, địch tiến
hành phản kích quyết liệt; cho nên chiến trường bị chia cắt và hầu như địa phương nào,
trong đó có xã Long Hưng, cũng gặp khó khăn về vũ khí và đạn dược.
Trước tình hình đó, ông quyết định đột nhập vào căn cứ Đồng Tâm của Sư
đoàn 9 Mỹ để gỡ mìn, lấy vũ khí địch đánh lại địch. Cứ thế, ngày qua ngày, sau khi đi
học về, Hồ Văn Nhánh lại bí mật luồn qua các vòng rào dây thép gai, vào căn cứ của
địch tiến hành việc gỡ mìn. Đây là một công việc cực kỳ nguy hiểm; nhưng do thông
minh, cẩn thận và dũng cảm, ông đã gỡ được hàng ngàn quả mìn các loại, cung cấp cho
bộ đội và du kích các xã chế tạo vũ khí đánh địch. Từ sáng kiến của ông, Đội du kích
của các xã xung quanh căn cứ Đồng Tâm và Ban Chỉ huy Mặt trận vành đai diệt Mỹ
Bình Đức đã thành lập các tổ chuyên trách gỡ mìn; và số mìn thu được ngày càng
nhiều.
Tháng 9 – 1969, trong một lần gỡ mìn ở vòng rào thứ 3 của căn cứ Đồng Tâm,
ông đã anh dũng hy sinh. Lúc ấy, ông mới vừa 14 tuổi. Chỉ trong một năm công tác, Hồ
Văn Nhánh đã 131 lần vào căn cứ Mỹ, trực tiếp gỡ hơn 4.500 quả mìn, hướng dẫn cho
bộ đội và du kích gỡ được hơn 1.100 quả, phục vụ cho bộ đội và du kích đánh trên 300
trận, tiêu diệt hàng trăm lính Mỹ và tay sai. Ông được truy tặng Huân chương Chiến
công hạng Nhất và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân

Phạm Hồng Thái (1895-1924) Phạm
Hồng Thái (tên thật: Phạm Thành Tích); liệt sĩ chống Pháp nổi tiếng
đầu thế kỉ 20. Quê: làng Do Nha, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.
Học Trường Kĩ nghệ Hải Phòng (1916). Năm 1919, công nhân Nhà
máy điện Hãng SIFA, tham gia đấu tranh, bị sa thải. Năm 1923, làm ở

Nhà máy Xi măng Hải Phòng. Tháng 1.1924, cùng Lê Hồng Phong
sang Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng
4.1924, gia nhập Tâm tâm

xã do Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn thành lập (1923). Tháng 4.1924, ám sát toàn
quyền Meclanh (Merlin). Ngày 19.4.1924, Phạm Hồng Thái giả làm phóng viên, lọt
vào khách sạn Vichtoria ở Sa Điện, tô giới của Pháp ở Quảng Châu, nơi Meclanh dự
tiệc, ném tạc đạn và Meclanh bị thương nhẹ. Phạm Hồng Thái bị truy đuổi phải nhảy
xuống Châu Giang hi sinh.
Di hài được chính quyền Trung Hoa mai táng ở núi Hoàng Hoa Cương, khu mộ
của 72 liệt sĩ Trung Quốc hi sinh trong cuộc Cách mạng Tân Hợi (1911), có bia đề
“Việt Nam liệt sĩ Phạm Hồng Thái chi mộ”.

×