Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG VỀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.58 MB, 29 trang )

VIỆN KHOA HỌC KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRUNG TÂM TƯ VẤN KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN VÀ MÔI TRƯỜNG

KẾ HOẠCH HÀNH ĐỘNG ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU CỦA
TỈNH HÀ TĨNH
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ
NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG
VỀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC
THÍCH ỨNG VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
(CHUYÊN ĐỀ SỐ 40)
HÀ NỘI, THÁNG 12/2010
MỤC LỤC
MỤC LỤC i
DANH SÁCH CÁC BẢNG ii
DANH SÁCH CÁC HÌNH iii
MỞ ĐẦU iv
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH 5
CHƯƠNG 1.ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 5
1.1.1.Vị trí địa lý 5
1.1.2.Địa hình, địa chất 6
1.1.3.Khi tượng, Khí hậu 6
1.1.4.Thủy văn, tài nguyên nước 7
CHƯƠNG 2.ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI 7
1.1.5.Dân số và lao động 7
1.1.6.Đặc điểm về kinh tế 8
CHƯƠNG 2.
NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG VỀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI
NGUYÊN NƯỚC THÍCH ỨNG VỚI BĐKH 12
CHƯƠNG 3.KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO
KHU VỰC HÀ TĨNH 12


1.1.7.Tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trên Thế giới và ở Việt Nam 12
1.1.1.Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực thuộc tỉnh Hà Tĩnh 15
1.1.2.Tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực tỉnh Hà Tĩnh 18
CHƯƠNG 4.ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA
CỘNG ĐỒNG VỀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC 19
1.1.3.Tầm quan trọng của Phát triển bền vững 19
1.1.1.Các biện pháp tuyên truyền, giáo dục môi trường cộng đồng 21
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 27
i
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Bảng thống kê gia súc tỉnh Hà Tĩnh 9
Bảng 2.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (0C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải thấp (B1) 16
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải trung bình (B2) 16
Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (oC) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải cao (A2) 16
Bảng 2.5. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải thấp (B1) 17
Bảng 2.6. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát
thải trung bình (B2) 17
Bảng 2.7. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2) 17
Bảng 2.8. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999 18
ii
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh 5
Hình 1.2. Diễn biến tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn 8
Hình 1.3. Biểu đồ thể hiện giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 10
Hình 2.4. Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình toàn cầu 12

Hình 2.5. Diễn biến lượng mưa năm ở các vùng khác nhau trên thế giới 13
Hình 2.6. Diễn biến của mực nước biển trung bình toàn cầu 13
Hình 2.7. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam trong 50 năm qua14
Hình 2.8. Quỹ đạo của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông 15
Hình 2.9. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu 15
iii
MỞ ĐẦU
Biến đổi khí hậu là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong
thế kỷ 21. Biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến sản xuất, đời sống và môi
trường trên phạm vi toàn thế giới. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng gây ngập lụt,
gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công
nghiệp và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai.
Việt Nam là quốc gia rất dễ bị tổn thương do tác động của Biến đổi khí hậu và
chúng ta cần có những giải pháp ứng phó với vấn đề này. Các nhà khoa học trên thế
giới đã cảnh báo, Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng.
Ở Việt Nam trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng
0,5 - 0,7
o
C, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu đã làm cho các
thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt. Hậu quả của biến đổi khí hậu
đối với Việt Nam là nghiêm trọng và là một nguy cơ hiện hữu cho mục tiêu xoá đói
giảm nghèo, cho việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững
của đất nước.
Hà Tĩnh trong những năm qua chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu.
Đặc biệt, trong năm 2010 xảy ra liên tiếp 2 trận lũ lớn, gây thiệt hại nặng nề tại Hương
Khê, Vũ Quang. Ngoài các biện pháp là cắt giảm khí nhà kính, khôi phục rừng đầu
nguồn chúng ta cần phải tuyên truyền, đưa các chương trình ứng phó với biến đổi
khí hậu lồng ghép vào các chương trình giáo dục nhà trường để cho mọi đối tượng có
thể nhận thức được biến đổi khí hậu là gi và các tác động của biến đổi khí hậu đến con

người, từ đó có thể tìm các biện pháp ứng phó.

iv
CHƯƠNG 1.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH HÀ TĨNH
CHƯƠNG 1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
1.1.1. Vị trí địa lý
Hà Tĩnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, diện tích tự nhiên 602649,96 ha, tọa độ địa
lý 17
0
54

– 18
0
38

vĩ độ Bắc, 105
0
11

– 106
0
36

kinh độ Đông. Ranh giới phía Bắc giáp
với tỉnh Nghệ An, phía Nam giáp với tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp với tỉnh
Boolikhamxay và KhămMuộn của Lào (với 170km biên giới Quốc gia) và phía Đông
giáp với biển Đông với chiều dài bờ biển hơn 137km.
Hà Tĩnh có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ với cả nước, mà còn với nước
bạn Lào và vùng Đông Bắc của Thái Lan. Trong tương lai, Hà Tĩnh có điều kiện trở

thành cầu nối của hai miền Nam, Bắc và là nút giao thông quan trọng trên trục hành
lang Đông, Tây của khu vực, với các tuyến giao thông huyết mạch đi qua: Quốc lộ 1A,
đường sắt, đường Hồ Chí Minh, đường biển (trục giao thông Bắc, Nam); Quốc lộ 8 với
cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo và Quốc lộ 12 với cửa khẩu Cha Lo Quảng Bình (trục
hành lang Đông - Tây), nối với hệ thống cảng biển nước sâu Vũng Áng đã và đang đầu
tư xây dựng.
Hình 1.1. Bản đồ hành chính tỉnh Hà Tĩnh
Hà Tĩnh có 12 đơn vị hành chính cấp huyện với 262 phường xã, thị trấn, gồm
10 đơn vị huyện, 2 thị xã. Thị xã Hà Tĩnh là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hoá
của tỉnh nằm cách Hà Nội 341 km và cách thành phố Vinh 50 km về phía Nam theo
Quốc lộ 1A.
Xét về vị trí địa lý cho thấy tỉnh Hà Tĩnh có điều kiện thuận lợi để phát triển
kinh tế, giao lưu vận chuyển hàng hoá, vì có lợi thế nằm tiếp giáp với các đô thị lớn và
5
cửa khẩu Quốc tế quan trọng, có nhiều thế mạnh cả về giao thông đường thuỷ và
đường bộ.
1.1.2. Địa hình, địa chất
Lãnh thổ Hà Tĩnh chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, địa hình dốc
nghiêng từ Tây sang Đông (độ dốc trung bình 1,2%, có nơi 1,8%) và bị chia cắt mạnh
bởi các sông suối nhỏ của dãy Trường Sơn, có nhiều dạng địa hình chuyển tiếp, xen kẻ
lẫn nhau. Phía Tây là sườn Đông của dãy trường Sơn có độ cao trung bình 1500m, kế
tiếp là đồi bát úp và một dãy đồng bằng hẹp, có độ cao trung bình 5m, thường bị núi
cắt ngang và sau cùng là dãy cát ven biển bị nhiều cửa lạch chia cắt. Về tổng thể, địa
hình Hà Tĩnh được chia thành 4 vùng sinh thái như sau:
- Vùng núi cao: Địa hình vùng núi cao thuộc phía Đông của dãy Trường Sơn
bao gồm các xã phía Tây của huyện Hương Sơn, Hương Khê, Kỳ Anh. Địa hình dốc bị
chia cắt mạnh, gồm các núi cao từ 1000m trở lên, trong đó có đỉnh Rào Cỏ cao 2.335
m, đồng thời hình thành các thung lũng nhỏ hẹp chạy dọc theo các triền sông lớn của
hệ thống sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ.
- Vùng trung du và bán sơn địa: Đây là vùng chuyển từ vùng núi cao xuống

vùng đồng bằng. Vùng này chạy dọc phía Tây Nam đường Hồ Chí Minh bao gồm các
xã vùng thấp của huyện Hương Sơn, các xã thượng Đức Thọ, thượng Can Lộc, ven
Trà Sơn của các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình có dạng xen lẫn giữa
các đồi trung bình và thấp với đất ruộng. Đất đai không bằng phẳng, hệ thực vật chủ
yếu là cây lùm bụi, cây công nghiệp, rừng trồng và thảm cỏ.
- Vùng đồng bằng: là vùng chạy dọc hai bên Quốc lộ 1A theo chân núi Trà Sơn
và dải ven biển, bao gồm các xã vùng giữa của huyện Đức Thọ, Can Lộc, thị xã Hồng
Lĩnh, Thạch Hà, thành phố Hà Tĩnh, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh. Địa hình vùng này tương
đối bằng phẳng do quá trình bồi tụ phù sa của các sông, phù sa biển trên các vỏ phong
hoá Feralit hay trầm tích biển.
- Vùng ven biển nằm ở phía Đông đường Quốc lộ 1A chạy dọc theo bờ biển
gồm các xã của huyện Nghi Xuân, Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh. Địa hình
được tạo bởi những đụn cát chạy dài ngăn cách bãi biển. Ngoài ra vùng này còn xuất
hiện các dãy đồi núi sót chạy dọc ven biển do kiến tạo của dãy Trường Sơn Bắc. Do
nhiều cửa sông, lạch tạo nên nhiều bãi triều ngập mặn.
1.1.3. Khi tượng, Khí hậu
Nhiệt độ trung bình năm đạt 23,8
0
C. Nhiệt độ trung bình tháng nhỏ nhất đạt
17
0
C. Các tháng chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng, nhiệt độ trung bình tháng đạt
28,7 ÷ 29,8
0
C vào tháng VII. Số giờ nắng đạt từ 1.400 ÷ 1.600 giờ.
Độ ẩm tương đối trung bình năm đạt 85%. Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các
tháng có gió Tây khô nóng - tháng VII và đạt 70%. Độ ẩm cao nhất xảy ra vào các
tháng cuối mùa đông, khi có mưa phùn hoặc các tháng mùa mưa và đạt 90 ÷ 92%.
Bốc hơi Piche trung bình năm đạt 800mm. Lượng bốc hơi lớn xảy ra vào tháng
VII với lượng bốc hơi trung bình tháng đạt từ 180 ÷ 200mm. Tháng II có lượng bốc

hơi nhỏ nhất đạt từ 27 ÷ 34mm.
6
Tốc độ gió trung bình năm 1,7 m/s- 2,3 m/s . Tốc độ gió lớn nhất khi có bão đạt
>40 m/s. Hướng gió mùa đông là hướng Đông Bắc, mùa khô thịnh hành gió Tây Nam
hoặc gió Đông Nam.
Hà Tĩnh có lượng mưa năm khá phong phú, trung bình năm đạt từ 2.300 ÷
3.000mm. Những vùng mưa lớn như Kỳ Lạc (Kỳ Anh) lượng mưa đạt 3.220mm.
Những tâm mưa lớn thượng nguồn sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Rào Trổ, Hoành Sơn có
năm lượng mưa năm đạt 4.586 mm năm 1978 ở Bàu Nước, 4.386mm tại Kỳ Anh năm
1990, 4.450 mm năm 1990 tại Kỳ Lạc.
Mùa mưa bắt đầu từ thỏng VIII tới tháng XI. Tuy nhiên tháng V, VI có mưa
Tiểu mãn gây ra lũ Tiểu mãn. Lượng mưa mùa mưa đạt 65 - 70% lượng mưa năm, còn
lại là mùa khô.
1.1.4. Thủy văn, tài nguyên nước
Hà Tĩnh có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, nhưng có đặc điểm chung là chiều
dài ngắn, lưu vực nhỏ, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn, nhất là về mùa mưa lũ.
Sự phân bố dòng chảy đối với các sông suối ở Hà Tĩnh theo mùa rõ rệt, hầu hết
các con sông chịu ảnh hưởng của mưa lũ ở thượng nguồn, những vùng thấp trũng ở hạ
lưu đất thường bị nhiễm mặn do chế độ thuỷ triều ảnh hưởng xấu đến sản xuất, tuy
nhiên có thể tận dụng đặc điểm này để quy hoạch phát triển vùng nuôi trồng thuỷ sản
nước lợ.
Hà Tĩnh có nguồn nước mặt phong phú nhờ hệ thống sông suối hồ đập khá dày
đặc. Theo số liệu của chi cục Quản lý nước và Công trình thuỷ lợi: Hà Tĩnh có 266 hồ
chứa có dung tích trữ trên 600.10
6
m
3
, 282 trạm bơm có tổng lưu lượng 338.000m
3
/s,

15 đập dâng tổng lưu lượng cơ bản 6,9m
3
/s với trữ lượng này hiện tại Hà Tĩnh đã phục
vụ tưới được 47.737 ha/vụ. Tuy nhiên việc sử dụng nước phục vụ cho sản xuất nông
nghiệp và sinh hoạt còn bị hạn chế do bị nhiễm mặn ở hạ lưu vào mùa khô và lũ lụt
mùa mưa.
Nước ngầm ở Hà Tĩnh tuy chưa có số liệu điều tra toàn diện nhưng qua các số
liệu đã thu thập được cho thấy mức độ nông sâu thay đổi phụ thuộc địa hình và lượng
mưa trong mùa. Thông thường vùng đồng bằng ven biển có mực nước ngầm nông,
miền trung du và miền núi nước ngầm thường sâu và dễ bị cạn kiệt vào mùa khô, ảnh
hưởng không nhỏ đến sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Về chất lượng nước ở Hà
Tĩnh nhìn chung khá tốt, thích hợp với sinh trưởng và phát triển của cây trồng cũng
như sinh hoạt. Riêng đối với vùng đồng bằng ven biển thường bị nhiễm mặn do thuỷ
triều, gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân, vì vậy cần kiểm tra độ mặn
nước sông trước khi bơm tưới cho cây trồng. Đặc biệt, Hà Tĩnh có mỏ nước khoáng ở
Sơn Kim huyện Hương Sơn, vị trí thuận lợi cạnh đường Quốc lộ 8 và gần cửa khẩu
Quốc tế Cầu Treo rất có điều kiện để phát triển thành một khu du lịch dưỡng bệnh.
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI
1.1.5. Dân số và lao động
7
Dân số tỉnh Hà Tĩnh tính đến 31/12/2007 có 1.280.549người, trong đó dân số
nông thôn chiếm 89,03%, (cả nước là 74%). Mật độ dân số trung bình là 214
người/km
2
, cao hơn trung bình toàn vùng Bắc Trung bộ (203 người/km
2
), nhưng thấp
hơn trung bình cả nước (246 người / km
2
).

Năm 2007, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của toàn tỉnh là 6,99%, trong đó thành thị
là 8,98%, nông thôn là 6,71%. Với tốc độ tăng dân số nêu trên kết hợp với tăng dân số
cơ học tại các đô thị của Hà Tĩnh, hiện nay mật độ dân số đang có sự chênh lệch đáng
kể giữa thành thị và nông thôn. Cụ thể: mật độ dân số cao nhất tại thành phố Hà Tĩnh
là 1.399 người/km2, mật độ dân số thấp nhất tại huyện Hương Khê là 84 người/km2.
Sự chênh lệch mật độ dân số quá cao đã gây nên các áp lực tại các đô thị, nhất là thành
phố Hà Tĩnh, đó là vấn đề nhà ở, đất sản xuất, lưu lượng phương tiện giao thông, chất
thải sinh hoạt, Sau đây là diễn biến dân số thành thị và nông thôn trong năm 2002
đến 2007.
Hình 1.2. Diễn biến tỷ lệ dân số thành thị và nông thôn
Theo dự kiến dân số toàn tỉnh đến năm 2020 là 1,6 triệu người (bao gồm tăng
dân số tự nhiên và cơ học), trong đó dân số đô thị là 650 nghìn người, chiếm 40% dân
số toàn tỉnh. Để có sự phát triển hài hoà trong tương lai, cần phải cải thiện đáng kể cơ
sở hạ tầng như: nhà ở, đường giao thông và các công trình phúc lợi khác nhằm giảm
thiểu các tác động do sự phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.6. Đặc điểm về kinh tế
Thực hiện kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, trong năm 2007 tình hình tăng trưởng
kinh tế của tỉnh có bước tăng trưởng khá so với năm 2006: Tốc độ tăng trưởng kinh tế
(GDP) đạt 8,7%, trong đó công nghiệp - xây dựng tăng 21,5%, nông - lâm - ngư
nghiệp giảm 1,3%, thương mại - dịch vụ tăng 11,1%. Thu nhập bình quân đầu người
đạt 5,25 triệu đồng/năm, tăng so với năm 2006 (4,99 triệu đồng/năm). Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế cũng thể hiện rõ nét thể hiện ở ba khu vực kinh tế sau:
- Ngành công nghiệp - xây dựng: 27,06%.
- Ngành nông nghiệp - lâm nghiệp - thuỷ sản: 38,65%.
- Các ngành khác: 34,09%.
Nông nghiệp
8
Trong năm 2007, giá trị sản xuất lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đạt 2.526 tỷ
đồng, bằng 94,2% kế hoạch và bằng 98,5% so với năm 2006; giá trị gia tăng lĩnh vực
nông, lâm, ngư nghiệp đạt 96,31% kế hoạch và bằng 98,7% so với năm 2006. Thời tiết

diễn biến bất thuận nên diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây trồng chủ yếu đều
đạt thấp, trong đó sản lượng lương thực đạt 40,1 vạn tấn, bằng 78,6% kế hoạch và
bằng 80,5% năm 2006. Diện tích lạc đạt 20.880 ha, sản lượng đạt 37.097 tấn, giảm
0,7% so năm 2006.
Chăn nuôi tiếp tục phát triển cả về số lượng và chất lượng: tổng số đàn trâu bò
tăng 0,5%, đàn lợn tăng 4,3%, đàn gia cầm tăng 5,3% so với năm 2006; tỷ trọng bò
Zêbu đạt 12% tổng đàn, tỷ lệ lợn nái ngoại 12%. Tỷ trọng chăn nuôi đạt 36,6% trong
giá trị sản xuất ngành nông nghiệp.
Bảng 1.1. Bảng thống kê gia súc tỉnh Hà Tĩnh
ĐVT: nghìn con

Tr©u -
Buffaloes
Bß -
Cattles
Lîn -
Pigs
Ngùa -
Horses
Dª -
Goats
H¬u -
Deer
Gia cÇm -
Poultry
2002 101.0 146.5 400.2 0.2 13.6 4.2 3571
2003 104.8 156.9 473.3 0.1 14.6 8.5 4631
2004 109.0 167.6 466.4 0.1 17.4 10.2 4829
2005 115.0 186.2 452.9 0.1 20.4 11.5 4976
2006 109.2 210.7 405.0 0.2 21.4 12.1 4158

2007 109.7 210.1 422.6 0.2 23.9 14.8 4379
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hà Tĩnh,2008
Công tác bảo vệ, khoanh nuôi, trồng và tái sinh rừng đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra;
diện tích rừng trồng mới đạt 6.300 ha, trong đó rừng phòng hộ 900 ha, rừng sản xuất
5.400 ha. Độ che phủ rừng đạt 44,5% (giảm 1,5% so với năm 2006 do thiệt hại bão số
5).
Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 34.300 tấn, bằng 95,2% kế hoạch và tăng 0,3% so
với năm 2006; Trong đó: nuôi trồng và đánh bắt nội địa đạt 12.000 tấn, bằng 85,7% kế
hoạch và tăng 5,2% so với năm 2006; Khai thác hải sản 22.300 tấn, bằng 101,3% kế
hoạch.
Trong 6 tháng đầu năm 2008, tổng diện tích gieo trồng đạt 106.500 ha, bằng
99,5% so với cùng kỳ năm 2007, trong đó: diện tích Lúa 53.343 ha, sản lượng đạt
26,67 vạn tấn, tăng 12,7% so với cùng kỳ; diện tích Lạc 20.013 ha, sản lượng đạt
42.408 tấn, tăng 14,5% so với cùng kỳ. Công tác quản lý, bảo vệ, trồng, khoanh nuôi
và tái sinh rừng được triển khai theo kế hoạch, đã trồng được 80 vạn cây phân tán, đạt
80% kế hoạch. Sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản đạt 18.500 tấn, bằng 51,1%
kế hoạch năm; diện tích nuôi trồng đạt 1.340 tấn, giá trị xuất khẩu đạt 10 triệu USD.
9
Với mục tiêu đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 6 - 6,5%/năm giai
đoạn 2008 - 2010, 6 - 7%/năm giai đoạn 2011 - 2020; lâm nghiệp 6 - 8%/năm giai
đoạn 2008 - 2010, 9 - 10%/năm giai đoạn 2011 - 2020. Để đạt được những mục tiêu
trên, Tỉnh uỷ Hà Tĩnh đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chính, trong đó tăng cường
chỉ đạo cuộc vận động chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp, tạo đà cho phát triển sản
xuất hàng hoá quy mô lớn theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh
tranh, chú trọng phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại.
Trong chiến lược phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh, nguồn lực lao động
cũng được chú trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Với trình độ khoa học,
kỹ thuật được nâng cao sẽ có tác động rất lớn đến ý thức sử dụng các hoá chất bảo vệ
thực vật và phân bón trong sản xuất, giảm thiểu đáng kể dư lượng hoá chất trong thực
phẩm cũng như trong nguồn nước.

Thực tế hiện nay, trong quá trình sản xuất nông nghiệp người dân đang sử dụng
tràn lan các hoá chất bảo vệ thực vật ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, đồng thời
làm suy giảm hệ sinh thái và chất lượng môi trường nước. Mặt khác, chất lượng môi
trường đang bị tác động lớn bởi dịch bệnh ở các động vật nuôi, như: dịch cúm gia
cầm; dịch bệnh tai xanh ở lợn; dịch bệnh lở mồm long móng ở trâu, bò.
Công nghiệp
Hoạt động công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển. Năm 2007, giá
trị sản xuất công nghiệp đạt 1.390 tỷ đồng, đạt 99% kế hoạch và tăng 22% so với năm
2006. Trong đó, khu vực kinh tế Nhà nước tăng 40%; khu vực kinh tế ngoài nhà nước
tăng 7% và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 70% so với năm 2006. Giá
trị tăng thêm đạt 746 tỷ đồng, tăng 16,5%. Các ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm, ngành luyện kim đang được chú ý phát triển như: chế biến thuỷ sản, sản xuất
bia và nước giải khát, khai thác mỏ sắt và luyện cán thép, Sau đây là biểu đồ thể hiện
giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh) trong các năm từ 2003 đến 2007.
Hình 1.3. Biểu đồ thể hiện giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh.
Hoạt động của ngành công nghiệp khai thác khoáng sản:
10
702112
885664
1054021
1203493
1415791
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1400000

1600000
N¨m 2003 N¨m 2004 N¨m 2005 N¨m 2006 N¨m 2007
Năm 2007, giá trị sản xuất của ngành công nghiệp khai thác đạt 588.540 triệu
đồng, tăng 178.072 triệu đồng so với năm 2006, đây là mức tăng rất lớn của ngành này
trong nhiều năm qua. Trong đó, ngành khai thác quặng kim loại có tăng trưởng khá,
đạt 446.792 triệu đồng tăng 124.774 triệu đồng so với năm 2006. Đáng chú ý trong
lĩnh vực khai thác đá và các mỏ khác, giá trị sản xuất đạt được 137.190 triệu đồng, gấp
1,55 lần giá trị sản xuất năm 2006.
Trong những năm tới, ngành khai thác khoáng sản của tỉnh sẽ phát triển mạnh
mẽ bằng những hoạt động cụ thể như: động thổ dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê vào
tháng 5/2007; đang xây dựng nhà máy phôi thép 500 nghìn tấn/năm do Công ty Cổ
phần Sắt thép Hà Tĩnh là chủ đầu tư; cấp phép đầu tư cho Tập đoàn Formosa xây dựng
khu luyện gang thép quy mô 15 triệu tấn/năm. Cùng với đó tạo nên những thách thức
rất lớn trong việc quản lý môi trường tại địa phương. Khi các dự án đi vào hoạt động
sẽ tác động rất lớn đến môi trường nước biển ven bờ, nước dưới đất, nước mặt và môi
trường không khí.
Hoạt động của ngành công nghiệp chế biến:
Nhìn chung, hoạt động của ngành công nghiệp chế biến trong năm 2007 có tốc
độ phát triển không cao. Tuy nhiên, có một số lĩnh vực sản xuất có mức tăng trưởng
khá như: lĩnh vực chế biến thuỷ sản đông lạnh, gạch nung, Emenite, Quần áo may sẵn.
Cùng với sự lớn mạnh của ngành khai thác mỏ, ngành chế biến cũng sẽ phát triển theo
với sự đa dạng về các sản phẩm, ngành nghề. Điều này góp phần tạo nên những áp lực
đến các thành phần môi trường trong tương lai.
11
CHƯƠNG 2.
NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG VỀ SỬ DỤNG BỀN
VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC THÍCH ỨNG VỚI BĐKH
CHƯƠNG 3. KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ NƯỚC BIỂN DÂNG CHO
KHU VỰC HÀ TĨNH
1.1.7. Tình hình biến đổi khí hậu và nước biển dâng trên Thế giới và ở Việt Nam

Biến đổi khí hậu, với các biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước
biển dâng, chủ yếu là do các hoạt động kinh tế - xã hội của con người gây phát thải
quá mức vào khí quyển các khí gây hiệu ứng nhà kính.
Theo báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC năm 2007, nhiệt độ trung bình toàn
cầu đã tăng khoảng 0,74
o
C trong thời kỳ 1906 - 2005 và tốc độ tăng của nhiệt độ trong
50 năm gần đây gần gấp đôi so với 50 năm trước đó (Hình 2.1). Nhiệt độ trên lục địa
tăng nhanh hơn so với trên đại dương (IPCC, 2007).
Hình 2.4. Diễn biến chuẩn sai nhiệt độ trung bình toàn cầu
Nguồn:[IPCC/2007]
Trong 100 năm qua, lượng mưa có xu hướng tăng ở khu vực vĩ độ cao hơn 30
o
.
Tuy nhiên, lượng mưa lại có xu hướng giảm ở khu vực nhiệt đới từ giữa những năm
1970 (Hình 2.2). Hiện tượng mưa lớn có dấu hiệu tăng ở nhiều khu vực trên thế giới
(IPCC, 2007).
12
Hình 2.5. Diễn biến lượng mưa năm ở các vùng khác nhau trên thế giới
Nguồn:[IPCC/2007]
Mực nước biển toàn cầu đã tăng trong thế kỷ 20 với tốc độ ngày càng cao (Hình
2.3). Hai nguyên nhân chính làm tăng mực nước biển là sự giãn nở nhiệt của đại
dương và sự tan băng.
Hình 2.6. Diễn biến của mực nước biển trung bình toàn cầu
Nguồn:[IPCC/2007]
Số liệu quan trắc mực nước biển trong thời kỳ 1961- 2003 cho thấy tốc độ tăng
của mực nước biển trung bình toàn cầu khoảng 1,8 ± 0,5mm/năm, trong đó đóng góp
do giãn nở nhiệt khoảng 0,42 ± 0,12mm/năm và tan băng khoảng 0,70 ± 0,50mm/năm
(IPCC, 2007).
13




Số liệu đo đạc từ vệ tinh TOPEX/POSEIDON trong giai đoạn 1993 - 2003 cho
thấy tốc độ tăng của mực nước biển trung bình toàn cầu là 3,1 ± 0,7mm/năm, nhanh
hơn đáng kể so với thời kỳ 1961 - 2003 (IPCC, 2007).
Ở Việt Nam, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến đổi của các
yếu tố khí hậu và mực nước biển có những điểm đáng lưu ý sau:
- Nhiệt độ: Trong 50 năm qua (1958 - 2007), nhiệt độ trung bình năm ở Việt
Nam tăng lên khoảng từ 0,5
o
C đến 0,7
o
C. Nhiệt độ mùa đông tăng nhanh hơn nhiệt độ
mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng nhanh hơn ở các vùng khí hậu
phía Nam (Hình 4a). Nhiệt độ trung bình năm của 4 thập kỷ gần đây (1961 - 2000) cao
hơn trung bình năm của 3 thập kỷ trước đó (1931- 1960). Nhiệt độ trung bình năm của
thập kỷ 1991 - 2000 ở Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh đều cao hơn trung
bình của thập kỷ 1931 - 1940 lần lượt là 0,8; 0,4 và 0,6
o
C. Năm 2007, nhiệt độ trung
bình năm ở cả 3 nơi trên đều cao hơn trung bình của thập kỷ 1931 - 1940 là 0,8 - 1,3
o
C
và cao hơn thập kỷ 1991 - 2000 là 0,4 - 0,5
o
C (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2008).
Hình 2.7. Diễn biến của nhiệt độ (a) và lượng mưa (b) ở Việt Nam trong 50 năm qua
Lượng mưa: Trên từng địa điểm, xu thế biến đổi của lượng mưa trung bình năm

trong 9 thập kỷ vừa qua (1911- 2000) không rõ rệt theo các thời kỳ và trên các vùng
khác nhau: có giai đoạn tăng lên và có giai đoạn giảm xuống. Lượng mưa năm giảm ở
các vùng khí hậu phía Bắc và tăng ở các vùng khí hậu phía Nam (Hình 2.4b). Tính
trung bình trong cả nước, lượng mưa năm trong 50 năm qua (1958-2007) đã giảm
khoảng 2% (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Bộ TNMT,
2008).
14
Không khí lạnh: Số đợt không khí lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam giảm đi rõ rệt
trong hai thập kỷ qua. Tuy nhiên, các biểu hiện dị thường lại thường xuất hiện mà gần
đây nhất là đợt không khí lạnh gây rét đậm, rét hại kéo dài 38 ngày trong tháng 1 và
tháng 2 năm 2008 ở Bắc Bộ (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu, Bộ TNMT, 2008).
Bão: Những năm gần đây, bão có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo
bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều
cơn bão có đường đi (Hình 2.5) dị thường hơn (Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Bộ TNMT, 2003).
Hình 2.8. Quỹ đạo của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông
Mưa phùn: Số ngày mưa phùn trung bình năm ở Hà Nội giảm dần từ thập kỷ
1981 - 1990 và chỉ còn gần một nửa (15 ngày/năm) trong 10 năm gần đây (Nguyễn
Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, 2003).
Mực nước biển: Số liệu quan trắc tại các trạm hải văn dọc ven biển Việt Nam
cho thấy tốc độ dâng lên của mực nước biển trung bình ở Việt Nam hiện nay là khoảng
3mm/năm (giai đoạn 1993-2008), tương đương với tốc độ tăng trung bình trên thế
giới. Trong khoảng 50 năm qua, mực nước biển (Hình 2.6) tại Trạm hải văn Hòn
Dáu dâng lên khoảng 20cm (Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu, Bộ TNMT, 2008).
Hình 2.9. Diễn biến của mực nước biển tại trạm hải văn Hòn Dấu
1.1.1. Kịch bản biến đổi khí hậu cho khu vực thuộc tỉnh Hà Tĩnh
15
1.1.1.1. Kịch bản biến đổi khí hậu

Các kịch bản phát thải khí nhà kính được chọn để tính toán xây dựng kịch bản
biến đổi khí hậu cho Việt Nam là kịch bản phát thải thấp (kịch bản B1), kịch bản phát
thải trung bình của nhóm các kịch bản phát thải trung bình (kịch bản B2) và kịch bản
phát thải trung bình của nhóm các kịch bản phát thải cao (kịch bản A2).
Các kịch bản biến đổi khí hậu đối với nhiệt độ và lượng mưa được xây dựng
cho Bắc Trung Bộ. Thời kỳ dùng làm cơ sở để so sánh là 1980-1999 (cũng là thời kỳ
được chọn trong Báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC).
a. Về nhiệt độ
Nhiệt độ mùa đông có thể tăng nhanh hơn so với nhiệt độ mùa hè ở tất cả các
vùng khí hậu của nước ta. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng nhanh hơn
so với các vùng khí hậu phía Nam.
- Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình
năm ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980-1999
khoảng từ 1,6 đến 1,9
o
C. Vào năm 2020 nhiệt độ tăng lên 0,6
0
C.
Bảng 2.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
0
C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải thấp (B1)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 0,6 0,8 1,1 1,4 1,6 1,7 1,8 1,9 1,9
- Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung
bình năm có thể tăng lên 2,8
o
C ở Bắc Trung Bộ (Bảng 2.2). Năm 2020 nhiệt độ trung

bình năm có thể tăng 0,5
0
C.
Bảng 2.3. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
o
C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch
bản phát thải trung bình (B2)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 0,5 0,8 1,1 1,5 1,8 2,1 2,4 2,6 2,8
- Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình năm
ở các vùng khí hậu phía Bắc có thể tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999 khoảng
3,6
o
C ở Bắc Trung Bộ (Bảng 2.3). Năm 2020 nhiệt độ trung bình năm tăng 0,6
0
C.
Bảng 2.4. Mức tăng nhiệt độ trung bình năm (
o
C) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 0,6 0,9 1,2 1,5 1,8 2,2 2,6 3,1 3,6
Qua 3 kịch bản phát thải thấp, trung bình, cao cho thấy vào năm 2020 nhiệt độ
trung bình năm tăng từ 0.5
0
C – 0.6

0
C. Điều đó cho thấy tác động của BĐKH trong giai
đoạn này chưa gây nhiều ảnh hưởng tới quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh. Tuy nhiên cũng theo kịch bản thì đến năm 2100 nhiệt độ trung bình
16
năm tăng lên khoảng 3,6
0
C (theo kịch bản phát thải cao), đây là một mối nguy hiểm
thường trực đe dọa tới rất nhiều các lĩnh vực và con người.
b. Về lượng mưa
Lượng mưa mùa khô có thể giảm ở hầu hết các vùng khí hậu của nước ta, đặc
biệt là các vùng khí hậu phía Nam. Lượng mưa mùa mưa và tổng lượng mưa năm có
thể tăng ở tất cả các vùng khí hậu.
- Theo kịch bản phát thải thấp (B1): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể
tăng khoảng 5% ở khu vực Bắc Trung Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 – 1999 (Bảng
2.4). Lượng mưa thời kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm từ 3-6% ở các vùng khí hậu
phía Bắc. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 6 đến 10%. Năm
2020 lượng mưa năm tăng 1,5%.
Bảng 2.5. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát
thải thấp (B1)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 1,5 2,2 3,1 3,8 4,3 4,7 4,9 5,0 5,0
- Theo kịch bản phát thải trung bình (B2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm
có thể tăng khoảng 7 - 8% Bắc Trung Bộ so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999 (Bảng
2.5). Lượng mưa thời kỳ từ tháng III đến tháng V sẽ giảm khoảng 10% ở Bắc Trung
Bộ. Lượng mưa các tháng cao điểm của mùa mưa sẽ tăng từ 10 đến 15%.Năm 2020
lượng mưa năm tăng 1,5%.
Bảng 2.6. Mức thay đổi lượng mưa (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản phát thải

trung bình (B2)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 1,5 2,2 3,1 4,0 4,9 5,7 6,4 7,1 7,7
- Theo kịch bản phát thải cao (A2): Vào cuối thế kỷ 21, lượng mưa năm có thể
tăng so với trung bình thời kỳ 1980 - 1999, Bắc Trung Bộ, 4 - 5%. Lượng mưa thời kỳ
từ tháng III đến tháng V sẽ giảm khoảng 13% ở Bắc Trung Bộ. Năm 2020 lượng mưa
trung bình năm tăng 1,8%.
Bảng 2.7. Mức thay đổi lượng mưa năm (%) so với thời kỳ 1980-1999 theo kịch bản
phát thải cao (A2)
Vùng
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Bắc Trung Bộ 1,8 2,3 3,0 3,7 4,8 5,9 7,1 8,4 9,7
Theo 3 kịch bản phát thải ta thấy lượng mưa trung bình năm vào năm 2020
tăng lên 1,5% đối với kịch bản B1, B2; tăng 1,8% đối với kịch bản A2. Giai đoạn này
ảnh hưởng của BĐKH đến sự thay đổi lượng mưa là không nhiều, cao nhất là 1,8%.
17
Tuy nhiên đến năm 2100 đã tăng lên 9,7%, con số này thể hiện với quy mô thời gian
dài ảnh hưởng của BĐKH là đáng kể.
1.1.1.2. Kịch bản nước biển dâng
Báo cáo lần thứ tư của IPCC ước tính mực nước biển dâng khoảng 26-
59cm vào năm 2100, tuy nhiên không loại trừ khả năng tốc độ cao hơn.
Nhiều nhà khoa học đã đánh giá rằng các tính toán của IPCC về thay đổi nhiệt
độ toàn cầu là tương đối phù hợp với số liệu nhiệt độ thực đo. Tuy nhiên, tính toán của
IPCC về nước biển dâng là thiên thấp so với số liệu thực đo tại các trạm và bằng vệ
tinh. Nguyên nhân chính dẫn đến sự thiên thấp này là do các mô hình tính toán mà
IPCC sử dụng để phân tích đã chưa đánh giá đầy đủ các quá trình tan băng.
Một số nghiên cứu gần đây cho rằng mực nước biển toàn cầu có thể tăng 50-

140cm vào năm 2100.
Các kịch bản nước biển dâng cho Việt Nam được tính toán theo kịch bản phát
thải thấp nhất (B1), kịch bản phát thải trung bình (B2) và kịch bản phát thải cao nhất
(A1FI).
Kết quả tính toán theo các kịch bản phát thải thấp, trung bình và cao cho thấy
vào giữa thế kỷ 21 mực nước biển có thể dâng thêm 28 đến 33cm và đến cuối thế kỷ
21 mực nước biển dâng thêm từ 65 đến 100cm so với thời kỳ 1980 – 1999, năm 2020
mực nước biển dâng thêm từ 11 – 12cm (Bảng 2.7).
Bảng 2.8. Mực nước biển dâng (cm) so với thời kỳ 1980-1999
Kịch bản
Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2020 2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Thấp (B1) 11 17 23 28 35 42 50 57 65
Trung bình (B2) 12 17 23 30 37 46 54 64 75
Cao (A1FI) 12 17 24 33 44 57 71 86 100
1.1.2. Tác động của biến đổi khí hậu đến khu vực tỉnh Hà Tĩnh
BĐKH chắc chắn kéo theo nhiều biến đổi về thời tiết cũng như chế độ khí hậu,
rõ rết nhất về các yếu tố sau đây:
XTNĐ hoạt động trên Biển Đông và cả XTNĐ ảnh hưởng hoặc đổ bộ vào đoạn
bờ biển Trung Bộ trong thập kỷ sắp tới có thể tăng lên về số lượng và mạnh lên cường
độ so với các thập kỷ vừa qua. Mùa bão hoạt động trên khu vực Trung Bộ có thể thay
đổi so với hiện nay.
Tần suất hoạt động của không khí lạnh tại khu vực Trung Bộ có thể ít đi, cường
độ yếu hơn nên sẽ ít ảnh hưởng đến Nam Trung Bộ. Mùa có không khí lạnh sẽ ngắn
hơn và số tháng gián đoạn không khí lạnh có thể nhiều lên.
Nhiệt độ trong các thập kỷ tới sẽ cao hơn các thập kỷ vừa qua. Mùa gió tây khô
nóng có thể đến sớm hơn và kết thúc muộn hơn. Kỷ lục của nhiệt độ cao và thời gian
nắng nóng kéo dài có thể được nâng lên, trong khi kỷ lục nhiệt độ thấp vẫn sẽ được
duy trì lâu dài. Mùa lạnh ở các tỉnh Bắc Trung Bộ sẽ ngắn đi và giới hạn phía nam của
khu vực hoạt động của không khí lạnh sẽ rút ngắn dần lên phía Bắc. Các hiện tượng

18
lạnh giá, sương muối vốn đã hiếm khi gặp ở khu vực này sẽ không thể xẩy ra được
nữa.
Lượng mưa trong các năm sắp tới có thể thay đổi: tăng ở nơi này nhưng lại
giảm ở nơi kia. Khả năng là lượng mưa trong mùa mưa sẽ tăng lên nhưng lại giảm
lượng mưa trong mùa ít mưa so với trước đây. Không loại trừ khả năng các trung tâm
mưa lớn như Kỳ Anh, Trà My, Ba Tơ và các trung tâm ít mưa như Tương Dương
Ninh Thuận lại trở nên rõ rệt hơn.
Mùa mưa vốn đã dồn vào các tháng thu đông có thể còn dồn dập hơn trong các
thập kỷ tới. Ở Nam Trung Bộ mùa khô vẫn tiếp tục tồn tại từ tháng XII, tháng I cho
đến tháng VIII, tháng IX và ở Bắc Trung Bộ, tháng V, tháng VI có thể trở thành các
tháng nóng thường xuyên như ở Nam Trung Bộ. Ở các tỉnh phía bắc Bắc Trung Bộ
mưa phùn có thể trở nên hiếm hoi hơn.
Trên dải đòng bằng duyên hải Trung Bộ, các kỷ lục về lượng mưa ngày, lượng
mưa tháng và lượng mưa năm chắc chắn được nâng cao. Ngược lại tình trạng hạn hán
sẽ trở nên thường xuyên và khốc liệt hơn.
Lượng bốc hơi trong các thập kỷ sắp tới có thể cao hơn nền chung của các thập
kỷ vừa qua, góp phần gia tăng chỉ số khô hạn và cường độ hạn hán.
Nước biển tiếp tục dâng lên với tốc độ 0,5-0,6 cm/năm trong các thập kỷ sắp
tới. Sự biến đổi nói trên về các yếu tố khí hậu tất yếu dẫn đến các tác động sau đây đối
với một số lĩnh vực kinh tế - xã hội:
Dòng chảy năm trên hầu hết các con sông đều giảm đi, trong đó dòng chảy lũ
có thể ít thay đổi hoặc lớn hơn chút ít song dòng chảy kiệt sẽ giảm đi đáng kể. Nguồn
nước, nhất là nước trong nhiều tháng mùa khô sẽ trở nên khan hiếm, nhất là ở các tỉnh
cực nam Trung Bộ.
Trong tương lai không xa, cơ cấu cây trồng và cả cơ cấu thời vụ cần phải được
điều chỉnh theo hướng phù hợp với nền nhiệt độ cao hơn. Chi phí sản xuất cho một
đơn vị sản phẩm nông nghiệp tăng lên do nhu cầu tưới cao hơn và thời gian chống hạn
dài hơn.
Nước biển dâng vừa thu hẹp diện tích khu dân cư sống ven biển vừa tăng khả

năng xói lở bờ biển, trực tiếp đe dọa các công trình giao thông, xây dựng, công nghiệp
và một số đô thị trên tuyến bờ biển kéo dài từ Bắc đến Nam.
Nhiệt độ tăng, nguồn nước suy giảm cũng là nguyên nhân tạo nên nhiều khó
khăn cho cuộc sống bình thường, thậm chí góp phần gia tăng dịch bệnh, nhất là dịch
bệnh mùa nóng.
CHƯƠNG 4. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA
CỘNG ĐỒNG VỀ SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1.3. Tầm quan trọng của Phát triển bền vững
Nước ta có khoảng 830 tỷ m3 nước mặt trong đó chỉ 310 tỷ m3 được tạo ra do
mưa rơi trong lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ
chảy vào. Tổng trữ lượng tiềm tàng khả năng khai thác nước dưới đất chưa kể phần hải
đảo ước tính khoảng 60 tỷ m3/năm. Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất sản phẩm ra
19
trên phạm vi lãnh thổ thì bình quân đầu người đạt 4400 m3/người, năm (Thế giới 7400
m3/người, năm). Nếu kể cả lượng nước từ các lảnh thổ nước ngoài chảy vào thì Việt
Nam trung bình đạt khoảng 10.600 m3/người, năm).
1.1.3.1. Việt Nam là một nước có nguồn Tài nguyên nước vào loại trung bình
trên thế giới có nhiều yếu tố không bền vững
Nước ta có khoảng 830 tỷ m3 nước mặt trong đó chỉ 310 tỷ m3 được tạo ra do
mưa rơi trong lãnh thổ Việt Nam chiếm 37% còn 63% do lượng mưa ngoài lãnh thổ
chảy vào. Tổng trữ lượng tiềm tàng khả năng khai thác nước dưới đất chưa kể phần hải
đảo ước tính khoảng 60 tỷ m3/năm. Nếu kể cả nước mặt và nước dưới đất sản phẩm ra
trên phạm vi lãnh thổ thì bình quân đầu người đạt 4400 m3/người, năm (Thế giới 7400
m3/người, năm). Nếu kể cả lượng nước từ các lảnh thổ nước ngoài chảy vào thì Việt
Nam trung bình đạt khoảng 10.600 m3/người, năm).
Các yếu tố không bền vững của Tài nguyên nước Việt Nam
Lượng nước sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm xấp xỉ 2/3 tổng lượng nước có
được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng được. Sự phân bố của cả nước có
được, rất khó chủ động, thậm chí không sử dụng được. Sự phân bố của cả nước mặt
lẫn nước dưới đất rất không đều. Trong số 13 lưu vực sông chính và nhánh có diện tích

lớn hơn 10.000 km2 thì có đến 10/13 là sông liên quốc gia, vì vậy không thuận lợi
trong sử dụng và khai thác.
1.1.3.2. Tài nguyên nước Việt Nam có xu thế suy thoái do tác động của biến
đổi khí hậu toàn cầu
Nhiệt độ không khí có xu thế ngày một tăng lên đã được khẳng định. Kịch bản
có thể chấp nhận là đến năm 2070, ở các vùng ven biển có khả năng tăm thêm +1,5
0
C,
vùng nội địa +2,5
0
C. Chúng kéo theo lượng tăng bốc thoát hơi lên khoảng 7,7 - 8,4%,
nhu cầu nước tưới tăng lên, lượng dòng chảy nước mặt sẽ giảm đi tương ứng khi lượng
mưa không đổi.
Bão, ElNino và LaNina làm tăng thêm tính cực đoan của thời tiết. Hậu quả là
làm tăng thêm tính cực đoan của lượng dòng chảy trong năm trên các dòng sông. Vào
các năm LaNina, số lượng bão và áp thấp nhiệt đới (ATNĐ) ảnh hưởng đến thời tiết
nước ta nhiều hơn so với các năm ElNino. Nếu kèm theo ảnh hưởng không khí lạnh thì
các năm này thường xảy ra những trận lụt lớn kéo dài, diện rộng. Vào các năm ElNino,
số lượng bão và ATNĐ ảnh hưởng đến nước ta ít song cũng có những cơn có cường
độ rất mạnh gây thiệt hại nghiêm trọng. Nói chung ở Việt Nam bão có xu thế ngày
càng tăng cả cường độ lẫn tần số. Tần suất bão đổ bộ vào vùng ven biển phía Bắc và
ven biển Trung bộ có xu hướng chuyển dịch lẫn nhau theo từng thời kỳ. Trong những
năm gần đây bão có xu thế đổ bộ vào vùng ven biển miền Trung nhiều hơn, đặc biệt là
vùng ven biển Cực Nam Trung bộ.
ElNino gắn liền với việc gây hạn hán rất nặng nề ở nước ta. Những năm có
ElNino, lượng mưa và lượng dòng chảy trong sông đặc biệt là trong mùa cạn thường
bị giảm mạnh, thậm chí không có dòng chảy như sông Lòng Sông (Bình Thuận), sông
KrongBuk (Đăk Lăk), sông Hà Thanh (Bình Định)…
20
Mực nước biển dâng lên trung bình 2 mm/năm, nước mặn xâm nhập sâu vào

trong sông, độ mặn nước mặt và nước ngầm đều tăng cao, ảnh hưởng lớn đến việc cấp
và thoát nước, suy thoái nước. Hơn nữa, theo dự báo, đến năm 2100 mực nước biển có
khả năng dâng lên 1,0 m, Việt Nam bị ngập vĩnh viễn khoảng 14520 km2 (hơn 12376
km2 thuộc 12 tỉnh ĐBSCL). 39 tỉnh trong 64 tỉnh, thành và 6 trong 8 vùng kinh tế của
Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Điều đó càng làm suy giảm nghiêm trọng tài nguyên nước.
Do hạn hán kéo dài, lượng nước trong sông cạn kiệt không đủ khả năng pha loãng làm
nước trong sông ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái.
1.1.3.3. Tài nguyên nước Việt Nam có xu thế suy thoái do phát triển và sử
dụng thiếu hợp lý, thiếu đồng bộ.
Phát triển KTXH có liên quan đến phát triển khí nhà kính. Sự phát triển dân số
kéo theo sự phát triển diện tích trồng lúa và sản lượng thóc. Năm 1943 độ che phủ của
rừng là 43%, đến nay độ che phủ rừng còn đạt khoảng 35% song chất lượng rừng thứ
sinh, rừng thoái hóa, rừng trồng…
Phát triển và sử dụng tài nguyên nước thiếu hợp lý, thiếu đồng bộ: Bịt cửa các
phân lưu để khai thác các bãi sông trong đê sử dụng cho mục đích nông nghiệp. Năm
1900, bịt cửa sông Cà Lồ là phân lưu tự nhiên của sông Hồng - sông Cà Lồ trở thành
một nhánh của sông Cầu - sông chứa nước mưa, nước thải ô nhiễm các chất hữu cơ,
dầu mỡ. Năm 1937 bịt sông Đáy bằng Đập Đáy, sông Đáy trở thành khúc sông chết
(từ Đập Đáy đến Ba Thá). Năm 1967, bịt cửa Đáy bằng cống Vân Cốc và Đê Cửa Hát
để khai thác bụng hồ Vân Cốc - Đập Đáy. Hiện nay sông Đáy - sông Nhuệ trở thành
con sông tiêu nước thải, nước bẩn từ các đô thị lớn Hà Nội, Hà Tây.
Các sông nhỏ trong nội đô của các thành phố bị ô nhiễm nặng do nước thải sinh
hoạt, công nghiệp. Suối Phượng Hoàng chảy trong thành phố Thái Nguyên, bị ô nhiễm
chất hữu cơ nghiêm trọng do nước thải của nhà máy sản xuất Giấy Đế. Các sông Tô
Lịch, sông Sét, Kim Ngưu… chảy trong nội thành Hà Nội bị ô nhiễm trực tiếp đổ vào
sông Nhuệ. Các kênh sông Nhiêu Lộc - Thị Nghè kênh Tàu Hũ, kênh Tân Hòa - Lò
Gốm, kênh Tham Lương, kênh Đôi - Tẻ và các kênh rạch khác chảy trong nội đô thành
phố Hồ Chí Minh đổ trực tiếp vào sông Sài Gòn gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Xây dựng đập dâng sử dụng hết lượng nước cơ bản tạo ra khúc sông “khô” dưới
đập. Các đập dâng thủy lợi như đập Thạch Nham trên sông Trà Khúc, đập Lại Giang

trên sông Đại Giang, đập Đồng Cam trên sông Đà Rằng, đập Nha Trịnh - Lâm Cấm
trên sông Cái Nha Trang… 30 năm trước đây về mùa khô vẫn có nước trà qua đập.
Vài chục năm gần đây, do tăng diện tích tưới, tăng lượng nước cấp cho sinh hoạt, công
nghiệp, mặt khác do rừng đầu nguồn bị phá nặng nề nên mùa khô là hạ lưu hết nước,
có năm kéo dài vài ba tháng nếu không có mưa. Vùng hạ lưu các đập dâng này có
nhiều cư dân sinh sống ven sông và trên sông, tác động này rất đáng kể.
1.1.1. Các biện pháp tuyên truyền, giáo dục môi trường cộng đồng
Xây dựng và thực hiện các chương trình truyền thông có nội dung và hình thức
tuyên truyền thích hợp cho từng nhóm đối tượng trong xã hội. Phát huy vai trò các
phương tiện thông tin đại chúng trong việc nâng cao nhận thức của mọi người về các
21
chủ trương, chính sách và pháp luật về tài nguyên nước. Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu,
các cuộc thi sáng tác nghệ thuật về nước và cuộc sống.
Phát động các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ tài nguyên nước, trước
hết ở các đô thị lớn, các khu dân cư tập trung và các khu vực nguồn nước bị ô nhiễm
nặng. Có cơ chế thích hợp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia hoặc hỗ trợ đắc lực cho
việc giám sát bảo vệ tài nguyên nước, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi gây suy thoái,
ô nhiễm nguồn nước. Xây dựng và nhân rộng các cá nhân, tập thể, cộng đồng dân cư
điển hình tốt về bảo vệ tài nguyên nước.
Tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội trong quá trình lập, kiểm tra,
giám sát việc thực hiện quy hoạch lưu vực sông và các dự án về tài nguyên nước.
Đưa nội dung giáo dục về tài nguyên nước vào giảng dạy trong hệ thống giáo
dục quốc dân.
Tuyên truyền, giáo dục là biện pháp quan trong luôn gắn kết và lồng ghép lẫn
nhau. Phải tuyên truyền, giáo dục cho tất cả cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân về BĐKH và các biện pháp ứng phó với BĐKH. Để thực hiện tốt cho công tác tuyên
truyền giáo dục cần phải lập kế hoạch hành động, các kế hoạch hành động đó phải bảo đảm
các vấn đề sau đây:
Về bảo vệ tài nguyên nước
Khôi phục các sông, các hồ chứa nước, tầng chứa nước, vùng đất ngập nước bị

ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nghiêm trọng, ưu tiên đối với các sông trên lưu vực sông
Nhuệ - sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai - Sài Gòn, sông Hương;
Bảo đảm dòng chảy tối thiểu duy trì hệ sinh thái thuỷ sinh theo quy hoạch được
cấp có thẩm quyền phê duyệt, trọng điểm là các sông có hồ chứa nước, đập dâng lớn,
quan trọng;
Bảo vệ tính toàn vẹn và sử dụng có hiệu quả các vùng đất ngập nước và cửa
sông cho các sông trọng điểm, các tầng chứa nước quan trọng;
Chấm dứt tình trạng thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước
thải vào nguồn nước mà không được phép của cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật;
Kiểm soát được tình hình ô nhiễm nguồn nước. Chấm dứt việc sử dụng các loại
hóa chất độc hại trong sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản gây ô
nhiễm nguồn nước và làm suy giảm đa dạng sinh học.
Về khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Khai thác, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên nước. Bảo đảm việc khai
thác nước không vượt quá ngưỡng giới hạn khai thác đối với các sông, không vượt quá
trữ lượng có thể khai thác đối với các tầng chứa nước, chú trọng đối với các dòng
chính trên các lưu vực sông lớn và các tầng chứa nước quan trọng của các vùng kinh tế
trọng điểm;
Phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước hài hòa, hợp lý giữa các ngành, các địa
phương, ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt, sử dụng nước mang lại giá trị kinh tế cao,
bảo đảm dòng chảy môi trường; trước mắt đến năm 2010 thực hiện phân bổ tài nguyên
22
nước bảo đảm khai thác có hiệu quả 10,5 triệu ha đất trồng cây hàng năm và cây lâu
năm với mục tiêu đạt sản lượng lương thực an toàn từ 39 đến 40 triệu tấn/năm; bảo
đảm tổng công suất các nhà máy thủy điện đạt khoảng 13.000 - 15.000 MW; nuôi
trồng thủy sản nước ngọt khoảng 0,64 triệu ha, nước lợ khoảng 0,8 triệu ha; tăng lượng
nước cấp cho công nghiệp 70 - 80% so với mức năm 2000;
Đạt hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội, môi trường trong cả mùa lũ lẫn mùa
kiệt của các hệ thống hồ chứa nước, đập dâng, chú trọng đối với các lưu vực sông

Hồng - Thái Bình, Đồng Nai - Sài Gòn, các lưu vực sông chính vùng Trung Bộ, Tây
Nguyên;
Bảo đảm sự thống nhất giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử
dụng đất, quy hoạch phát triển rừng, yêu cầu nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với quy
hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước và quy hoạch lưu vực sông ở cấp quốc gia
cũng như ở cấp vùng và địa phương;
Hình thành thị trường cung ứng dịch vụ về nước với sự tham gia của các thành
phần kinh tế và thị trường chuyển nhượng, trao đổi giấy phép về tài nguyên nước.
Về phát triển tài nguyên nước
Bảo đảm an toàn các hồ chứa nước, chú trọng đối với các hồ chứa nước lớn, các
hồ chứa có khu dân cư tập trung hoặc các cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, công trình
quốc phòng, an ninh quan trọng ở hạ du;
Hoàn thành cơ bản việc xây dựng các công trình chứa nước phục vụ đa mục
tiêu, các công trình bổ sung nhân tạo nước dưới đất, ưu tiên đối với các vùng khan
hiếm nước;
Bảo đảm gắn kết quy hoạch phát triển bền vững tài nguyên nước với các quy
hoạch bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống tác hại do nước gây
ra; quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển
kinh tế, xã hội và quy hoạch quốc phòng, an ninh;
Khắc phục có hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô, chú trọng
đối với các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và các hải
đảo, các vùng biên giới.
Về giảm thiểu tác hại do nước gây ra
Hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tài sản do lũ lụt, lũ quét, lũ
bùn đá, đặc biệt chú trọng các vùng thường xuyên bị lũ, bão;
Bảo đảm an toàn hệ thống đê sông Hồng - Thái Bình; nâng cao mức chống lũ
của hệ thống đê các vùng duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ; củng cố
hệ thống đê biển bảo vệ dân cư và góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an
ninh quốc phòng vùng ven biển; nâng cao khả năng cảnh báo lũ quét ở các tỉnh miền
núi, hạn chế thiệt hại do lũ quét gây ra;

Hình thành vùng an toàn lũ đối với vùng ngập nông, bảo đảm các điều kiện
thích nghi và an toàn cho dân sinh đối với vùng ngập sâu ở đồng bằng sông Cửu Long.
Đến năm 2010 kiểm soát được lũ lớn tương đương lũ năm 1961 đối với các dòng sông
23
chính và tương đương lũ năm 2000 đối với nội đồng; tiếp tục nâng mức kiểm soát lũ
cao hơn trong giai đoạn tiếp theo;
Bảo đảm các quy hoạch phát triển, tiêu chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội và khu dân cư vùng ngập lũ phù hợp với tiêu chuẩn chống lũ của vùng.
Về nâng cao năng lực quản lý tài nguyên nước
Đạt được sự thích ứng, đồng bộ của hệ thống chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn,
định mức trong lĩnh vực tài nguyên nước và phát triển các dịch vụ về nước nhằm quản
lý chặt chẽ tài nguyên nước, tạo động lực phát triển bền vững ngành kinh tế nước
nhiều thành phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
Hình thành đồng bộ và bảo đảm hiệu lực hệ thống quản lý nhà nước về tài
nguyên nước ở các cấp; phát triển rộng rãi các tổ chức dịch vụ về tư vấn, khoa học
công nghệ, cung ứng nước; phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan quản lý
nhà nước về tài nguyên nước với tổ chức quản lý vận hành công trình khai thác, sử
dụng tài nguyên nước, cung cấp dịch vụ về nước;
Trình độ khoa học và công nghệ trong lĩnh vực tài nguyên nước đạt mức trung
bình tiên tiến ở châu Á và một số mặt đạt mức trung bình tiên tiến trên thế giới.
* Đưa nội dung giáo dục về môi trường và tài nguyên nước vào hệ thống trường
học
Để thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục bảo vệ môi trường được hiệu quả
việc đưa, vệc đưa nội dung này vào hệ thống trường học là hết sức cần thiết. Đặc biệt
truyên truyền về ý nghĩa môi trường và tình hình ô nhiễm nguồn nước trên lưu vực
sông Nhuệ - Đáy. Đối với từng bậc học cụ thể các hình thức tuyên truyền bảo vệ môi
trường cụ thể như sau:
Đối với giáo dục mầm non: Hình thành cho trẻ những hiểu biết đơn giản về cơ
thể, về môi trường sống của bản thân nói riêng và con người nói chung, biết giữ gìn
sức khỏe bản thân, có hành vi ứng xử phù hợp để bảo vệ môi trường, sống thân thiện

với môi trường nhằm đảm bảo phát triển lành mạnh về cơ thể và trí tuệ.
Đối với giáo dục phổ thông: Trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng về môi
trường và bảo vệ môi trường bằng hình thức phù hợp trong các môn học và thông qua
các họat động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp.
Đối với giáo dục nghề nghiệp và đại học: Đảm bảo cho học sinh, sinh viên
được học các kiến thức và kỹ năng về môi trường và bảo vệ môi trường; đào tạo cán
bộ chuyên môn, cán bộ quản lý ở trình độ trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học
và sau đại học về các chuyên ngành môi trường để từng bước đáp ứng nhu cầu nguồn
nhân lực bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xây dựng chương trình khung, chương trình chi tiết, tài liệu và giáo trình về
môi trường, phù hợp với từng đối tượng học sinh, sinh viên; tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý các cấp.
24

×