Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

CÁC CHUYÊN ĐỀ VỀ TÁC PHẨM BẾP LỬA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.19 KB, 9 trang )

CÁC CHUYÊN ĐỀ VỀ TÁC PHẨM BẾP LỬA
(Bằng Việt)
I - GỢI Ý
1. Tác giả:
Nhà thơ Bằng Việt (tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng), sinh năm
1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu
những năm 60 của thế kỉ XX và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành
trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
"Bằng Việt là một nhà thơ được bạn đọc biết đến từ phần thơ in
chung với Lưu Quang Vũ trong tập Hương cây - Bếp lửa (1968). Nỗi
nhớ quê hương đầu tiên thành thơ là dành cho bếp lửa:"Một bếp lửa
chờn vờn sương sớm, một bếp lửa ấp iu nồng đượm" gắn với hình ảnh
người bà và bên người bà là người cháu. Bài thơ nói về tình bà cháu vừa
sâu sắc, vừa thấm thía trong những năm đầu đất nước đói kém, loạn lạc,
cuối đời gian khổ khó khăn. Cảm xúc tinh tế, đượm buồn của ông về
những kỷ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống nghĩa tình của
dân tộc Việt nam. Bài thơ biều hiện một triết luận thầm kín: những gì là
thân thiết nhất của mỗi tuổi thơ mỗi con người, đều có sức toả sáng,
nâng đỡ họ trong suốt cuộc đời. Mạch triết luận thầm kín được khởi đầu
từ Bếp lửa còn được tiếp nối trong nhiều bài thơ khác như Trở lại trái
tim mình khi ông coi thủ đô Hà Nội như một cội nguồn tình cảm, cội
nguồn sức mạnh. Cùng với Thư gửi người bạn xa đất nước, Tình yêu và
báo động, Trở lại trái tim, nhà thơ ghi lại được những trạng thái phong
phú của một tâm hồn thanh niên rất mực mến yêu đất nước, con người,
nêu bật được một thủ đô hào hoa, thanh lịch, trầm tĩnh và anh hùng.
Bằng Việt còn có những bài thơ khá tài hoa diễn đạt những suy tư về
những danh nhân văn hoá nhân loại như Béttôven, Pauxtôpxki,
Plixetxcaia. Người đọc còn biết đến ông về những lo toan chu đáo,
những bồi hồi thương nhớ của một người cha ở nơi xa chăm chú theo
dõi từng bước đi chập chững của đứa con, trong bài thơ Về Nghệ An
thăm con với lời thơ điềm đạm, kiệm lời mà có sức vang xa. Có thể nói


với 20 bài thơ trong tập Hương cây - Bếp lửa, Bằng Việt đã khắc hoạ
được một triết luận thầm kín của riêng mình. Ông là một trong số không
nhiều nhà thơ trẻ được bạn đọc tin yêu ngay từ ban đầu của thơ. Thơ
Bằng Việt thường nghiêng về một lời tâm sự, một sự trao đổi nghĩ suy,
gây được một cảm giác gần gũi, thân thiết đối với người đọc. Thơ ông
thường sâu lắng trầm tư thích hợp với người đọc thơ trong sự trầm tĩnh,
vắng lặng. Đó là một dấu ấn riêng của thơ Bằng Việt, còn lưu lại trong
ký ức người đọc" (Từ điển văn học, Sđd).
2. Tác phẩm:
- Các tác phẩm chính: Hương cây - Bếp lửa (thơ, in chung, 1968);
Những gương mặt những khoảng trời (thơ, 1973); Đất sau mưa (thơ,
1977); Khoảng cách giữa lời (thơ, 1983); Cát sáng (thơ, 1986); Bếp lửa
- khoảng trời (thơ tuyển, 1988), Phía nửa mặt trăng chìm (thơ, 1986);
Mozart (truyện danh nhân, 1978); Lọ lem (dịch thơ Eptusenkô); Hãy nói
bằng ngôn ngữ của tình yêu (dịch thơ Ritsos).
- Tác giả đã được nhận: Giải nhất văn học - nghệ thuật Hà Nội năm
1967 với bài thơ Trở lại trái tim mình; Giải thưởng chính thức về dịch
thuật văn học quốc tế và phát triển giao lưu văn hóa quốc tế do Quỹ Hòa
Bình (Liên Xô) trao tặng năm 1982.
- Bài thơ Bếp lửa được tác giả Bằng Việt sáng tác năm 1963, khi tác
giả là sinh viên đang học ở nước ngoài.
Bài thơ gợi lại những kỉ niệm sâu sắc của người cháu về người bà và
tuổi ấu thơ được ở cùng bà.
II - GIÁ TRỊ TÁC PHẨM
Chỉ là một tiếng gà mái nhảy ổ cục tác trong nắng trưa, chỉ là một
bếp lửa chờn vờn trong sương sớm, mà có biết bao nghĩa tình, mà
sao tha thiết, lắng sâu đến thế! Thì ra, có khi những điều nhỏ nhoi,
giản dị nhất lại ẩn chứa tâm tình, chắt đọng những điều thiêng liêng, là
hiện hình của những tình cảm thiết tha, chân thành, không thể nào
quên. Tiếng gà trưa đánh thức trong Xuân Quỳnh những kỉ niệm về

một thời ấu thơ sống trong tình thương yêu của bà. Còn với Bằng Việt,
trong bài thơ Bếp lửa (1963), như chính nhan đề của nó (cũng như
nhan đề của bài thơ của Xuân Quỳnh: Tiếng gà trưa), "Bếp lửa" đã trở
thành một hình ảnh biểu trưng cho sự ấm áp, nồng đượm của tình bà
cháu. "Bếp lửa" khơi gợi, làm nhen lên, lan toả, cháy mãi dòng hồi ức
tuổi ấu thơ, thao thức, đượm buồn.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Bài thơ đã bắt đầu như thế. Bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa "chập
chờn trong sương sớm, chập chờn trong kí ức. Hơi ấm của bếp lửa bắt
đầu truyền thấm, bắt đầu nhen nhóm, khơi nguồn cho mạch cảm xúc
thương yêu của cháu khi nhớ về bà. Hình ảnh "Một bếp lửa" điệp lại hai
lần như nhắc nhớ, như hơi thổi vào bếp lửa đang "ấp iu", để nhịp hồi
tởng bắt đầu Để trong những dòng thơ tiếp theo, bao kỉ niệm thân
thương ùa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
( )
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Cháu nhớ, từ lúc cháu mới lên bốn tuổi, sống bên bà "tám năm
ròng" Nhớ quê mình ngày ấy, những ngày "đói mòn đói mỏi", những
ngày "bố đánh xe khô rạc ngựa gầy", nhớ "khói hun nhèm mắt", "sống
mũi còn cay" đến tận bây giờ Nhớ bà kể chuyện Huế trong tha thiết
tiếng tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu từ cánh đồng xa, da diết, khắc khoải
vọng về, nghe chộn rộn, nao nao, lại như se sắt, xa xăm. Nhớ khi vắng
bố mẹ, "bà bảo cháu nghe", "dạy cháu làm", "chăm cháu học". Nhớ
"Năm giặc đốt làng", cháu giúp bà dựng lại nhà. Nhớ lời bà dặn khi viết
thư để bố yên tâm, Cứ thế, trong dòng hồi nhớ nôn nao, những sự
việc cụ thể hiện về nguyên vẹn từng chi tiết như thể vừa mới xảy ra
hôm qua đây thôi. Và thấm đẫm trong từng hình ảnh, từng sự việc ấy là

tình cảm sâu nặng của cháu với bà, hướng về bà. Hình ảnh người bà
được khắc hoạ gắn liền với bếp lửa, là khi "cháu cùng bà nhóm lửa",
"Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc", "Rồi sớm rồi chiều lại bếp
lửa bà nhen", "Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm - Nhóm bếp lửa ấp iu
nồng đượm",
Hình ảnh bếp lửa trở đi trở lại (12 lần) trong suốt bài thơ. Cuộc đời
bà lận đận, khó nhọc, giãi dầu mưa nắng nhưng bà luôn dành cho cháu
tình th]ương yêu, săn sóc, chở che ấm nồng như bếp lửa. Bà - bếp lửa là
hai mà như một, hoà quyện, hun thấm, thiêng liêng. Bếp lửa gợi nhắc
hình bóng thân thiết của bà, và nhớ đến bà là cháu lại không thể quên
bếp lửa ấm tình thủa ấy. Bếp lửa đã không còn chỉ là bếp lửa thông
thường nữa. Bà nhen lửa là bà nhen lên:
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Bà nhóm lửa là bà:
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Từ ngọn lửa được nhen lên từ bếp lửa của bà hoá thành ngọn lửa của
tình thương yêu ấp ủ, ngọn lửa của niềm tin yêu bền bỉ cháy mãi không
thôi. Bà nhóm lửa là bà nhóm lên, truyền cho cháu lẽ sống, lòng cảm
thông chia sẻ. Mỗi khi xúc cảm kết thành những suy ngẫm sâu xa, lời
thơ lại trào dâng lên như những điệp khúc bập bùng, chứa đựng niềm
xúc động rưng rưng, rần rật cháy trong mạch tự sự của nhân vật trữ tình.
Những hình ảnh thực, cụ thể, vốn rất đỗi gần gũi, thân quen đã được
tác giả nâng lên thành những hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa khái
quát sâu sắc. Điều bình dị đã trở nên quý giá, thiêng liêng, kì lạ. Kì lạ,
thiêng liêng vì nó nhỏ bé, giản đơn mà đã trở thành hành trang theo cháu
trong suốt cuộc đời. Kì lạ, thiêng liêng là vì "đã mấy chục năm rồi" mà
bếp lửa của bà vẫn nồng đượm trong cháu, ngọn lửa của bà vẫn thầm

cháy trong cháu "đến tận bây giờ".
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác khi Bằng Việt đang là sinh viên ngành
Luật của Trường Đại học Tổng hợp Ki-ép (Liên Xô cũ). Kì lạ và thiêng
liêng biết bao khi trong cuộc sống đã " Có ngọn khói trăm tàu, Có lửa trăm
nhà, niềm vui trăm ngả" mà lòng vẫn khôn nguôi hình ảnh người bà với
bếp lửa ở tận miền kí ức ấu thơ.
Cứ nhẹ nhàng, mộc mạc mà thấm thía, sâu xa, bếp lửa của bà, ngọn
lửa của bà, tình thương yêu của bà, cuộc đời bà đã soi rọi, toả ấm con
đường cháu đi. Có thể cuộc sống hiện đại sẽ không còn nhiều người biết
đến bếp lửa như ở nơi quê nghèo ấy nữa, nhưng nó đã thành biểu tượng,
sẽ còn mãi giá trị "khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm về cuộc sống
gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam"
(1)
. Điều nhỏ
nhoi, giản dị mà có ý nghĩa sâu sắc, lớn lao là như vậy.
(1)
(1)
Theo Nguyễn Đăng Mạnh - Bùi Duy Tân - Nguyễn Như ý (đồng chủ biên), Từ điển tác giả tác phẩm văn
học Việt Nam dùng cho nhà trờng, NXB Đại học Sư phạm, 2004, tr. 21.

×