Em hãy Phõn tớch bài thơ “Viếng lăng Bỏc” của Viễn Phương
Chủ tịch Hồ Chớ Minh - vị cha già kớnh yờu của dõn tộc Việt Nam
– đó cống hiến trọn đời mỡnh vỡ sự nghiệp giải phúng đất nước. Người
ra đi năm 1969, để lại biết bao nỗi thương nhớ và xút xa cho Tổ quốc.
Cú nhiều nhà thơ đó viết bài thơ tưởng nhớ về Bỏc, và “Viếng lăng Bỏc”
của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất. Chỳng ta hóy
cựng đến với bài thơ để cảm nhận được cảm xỳc ấy.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bỏc
Muốn làm cõy tre trung hiếu chốn này”
Năm 1976, sau ngày đất nước ta được hoàn toàn giải phúng, lăng
Bỏc được khỏnh thành. Nhà thơ Viễn Phương từ miền Nam đó ra thăm
lăng Bỏc. Cảm xỳc dõng trào, nhà thơ đó làm một bài thơ như một lời
bộc bạch chõn tỡnh của hàng triệu người con miền Nam với Bỏc. Đõy là
một bài thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa, làm cho người đọc xỳc động.
Hai khổ thơ đầu là những dũng cảm xỳc ban đầu của nhà thơ khi
được lần đầu đến thăm lăng Bỏc: một chỳt tự hào, xen lẫn vui sướng, lẫn
xỳc động khi sắp đc kề cận bờn Ng` cha thõn yờu của dõn tộc.Bằng
những hỡnh ảnh ẩn dụ giàu sức gợi, nhụn ngữ bỡnh dị mà hàm sỳc, tinh
tế, đoạn thơ đó để lại trong lũng người đọc những cảm xỳc vụ cựng sõu
sắc.
Hai khổ cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, rộo
rắt như tấm lũng tha thiết yờu mến của nhà thơ với Bỏc. Bằng những
ngụn từ ẩn dụ đặc sắc,từ ngữ bỡnh dị mà giàu sức gợi, cõu thơ đó khơi
gợi trong lũng người đọc những rung động sõu sắc và đỏng quý.
Bài thơ được phõn chia theo bố cục thời gian, và khổ thơ đầu tiờn
núi về cảm xỳc của tỏc giả khi nhỡn thấy lăng Bỏc từ xa.
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bỏc”
Cõu thơ đầu tiờn thật ngắn gọn nhưng nú lại là một lời tõm sự chõn
tỡnh của nhà thơ cũng như hàng triệu người con miền Nam. Một tiếng
“con” thật ấm ỏp, gần gũi, thể hiện lũng kớnh yờu to lớn đối với Bỏc.
Bỏc thật gần gũi với người dõn, như là một vị cha già của dõn tộc. “Con
ở miền Nam” - mấy tiếng ấy bao hàm một nỗi đau và một niềm tự hào.
Miền Nam gian khổ và anh hựng, miền Nam đi trước về sau, miền Nam
thành đồng Tổ quốc, miền Nam vừa chiến thắng kẻ thự hung bạo trở về
trong đại gia đỡnh Việt Nam đõy Bỏc ơi! Nhà thơ mong nhỡn thấy Bỏc
một lần sau khi đất nước đó giải phúng nhưng thật đau xút, Bỏc đó
khụng cũn. Vỡ vậy, từ “viếng” đó được nhà thơ thay bằng từ “thăm” để
giảm nhẹ nỗi đau cũng như bày tỏ niềm tin rằng Bỏc vẫn sống mói.
“Đó thấy trong sương hàng tre bỏt ngỏt
ễi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bóo tỏp mưa sa đứng thẳng hàng”
Đập vào mắt nhà thơ là hỡnh ảnh hàng tre xanh ngắt trước lăng Bỏc.
Cõy tre - biểu tượng cho sự bất khuất, kiờn cường nhưng giản dị, thanh
cao của người dõn Việt Nam – đó để lại một dấu ấn đậm nột trong lũng
tỏc giả trước khi bước vào lăng Bỏc. Hàng tre bỏt ngỏt – Hàng tre xanh
xanh – Hàng tre Việt Nam: hàng tre bao đời như một dấu hịờu đặc biệt
của dõn tộc. Hàng tre trựm búng mỏt rượi lờn bao thế hệ cuộc đời, hàng
tre mang bao phẩm chất của con người Tổ quốc ta: dẻo dai, đoàn kết, bất
khuất, kiờn cường. Ở Bỏc cú tất cả những gỡ mà những con người Việt
Nam từng cú, cũng cỏi dấu hiệu xanh tươi sự sống ấy, cũng cỏi kiờn
cường “đứng thẳng hàng” trong “bóo tỏp mưa sa” ấy. Dõn tộc ta thật sự
cú sức sống mónh liệt, cho dự những thử thỏch của thiờn nhiờn, của lịch
sử cú khắc nghiệt cỏch mấy thỡ vẫn kiờn cường chống chọi, và vẫn cố
gắng đứng thẳng chứ nhất quyết khụng chịu bị bẻ cong. Hàng tre đứng
đú, bờn lăng Bỏc như ru giấc ngủ ngàn thu của Bỏc, gắn bú mói mói với
Bỏc như dõn tộc Việt Nam vẫn kớnh trọng Bỏc mói mói.
Đến gần lăng Bỏc, xếp hàng vào viếng thỡ tỏc giả cú thờm nhiều
cảm xỳc mới.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trờn lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Hai cõu thơ sinh động với nhiều hỡnh ảnh gợi cảm được tạo nờn từ
những hỡnh ảnh thực và hỡnh ảnh ẩn dụ súng đụi với nhau. Một mặt trời
thực đi qua trờn lăng, là mặt trời của tự nhiờn, của muụn loài, soi sỏng
cho muụn loài, đem lại sức sống cho thế giới. Từ mặt trời thật ấy, một
mặt trời ẩn dụ khỏc hiện ra trong lăng, rất đỏ. Bỏc nằm trong lăng với
ỏnh sỏng đỏ xung quanh như một mặt trời. Bỏc tồn tại vĩnh cửu trong
lũng mỗi người dõn Việt Nam như sự tồn tại của một mặt trời thật. Bỏc
soi sỏng đường cho dõn tộc ta đi, cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp
giành độc lập của Tổ quốc. Bỏc giỳp nhõn dõn ta thoỏt khỏi kiếp sống
nụ lệ, trở thành một con người tự do để bõy giờ được hạnh phỳc. Cụng
lao của Bỏc đối với dõn tộc ta cũng như mặt trời, to lớn khụng kể xiết.
Bỏc là một mặt trời. Cỏi ẩn dụ mặt trời ở đõy khụng biết đó đủ núi về
Bỏc chưa ?. Khụng, nếu núi Bỏc là mặt trời thỡ phải nhấn mạnh thờm
cho rừ cỏi đặc tớnh của vầng mặt trời ấy: rất đỏ. Cỏi mặt trời đang tỏa
sỏng trờn cao kia, cỏi mặt trời của thiờn nhiờn, tượng trưng của nguồn
núng, nguồn sỏng, nguồn sự sống ấy, khụng phải bao giờ cũng nguyờn
vẹn thế đõu, khụng phải lỳc nào cũng ấm núng thế đõu! Vầng mặt trời
ấy cú thể bị búng đờm lấn ỏt. Nhưng vầng mặt trời Bỏc Hồ của ta thỡ
mói mói đỏ thắm, mói mói là nguồn sưởi ấm, nguồn sỏng soi đường cho
con người Việt Nam. Hụm nay cú hai mặt trời chiếu rọi trờn đường đời:
một mặt trời tỏa sỏng trước mặt, một mặt trời tỏa sỏng tõm hồn…Như
mặt trời kia, Bỏc thuộc về vĩnh cửu. Bỏc sẽ sống mói trong lũng mỗi con
người Việt Nam.
“Ngày ngày dũng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dõng bảy mươi chớn mựa xuõn…”
Cựng với mặt trời đi qua trờn lăng, ngày ngày dũng người vẫn đi
qua lăng trong thương nhớ. Điệp ngữ “ngày ngày” ý núi rằng nhõn dõn
ta mói luụn ghi nhớ cụng lao to lớn của Bỏc, mói mói là như vậy. Nhịp
thơ của đoạn chậm, diễn tả đỳng tõm trạng khi đứng xếp hàng trước lăng
chờ đến lượt vào, ngậm ngựi tưởng nhớ đến Bỏc đó khuất. Tuy vậy, nhịp
thơ chầm chậm như bước chõn người đi trong cuộc tưởng niệm mà sao
cõu thơ vẫn khụng buồn ? Phải rồi. Chỳng ta khụng làm cỏi việc tưởng
niệm bỡnh thường với Bỏc như một người đó khuất. Dũng người đang
đi đõy là đang đi trong cuộc hành trỡnh ngợi ca vinh quang của Bỏc. Và
tràng hoa vinh quang này khụng phải được kết bằng những bụng hoa
bỡnh thường như mọi tràng hoa vinh hiển khỏc trờn đời đõu. Tràng hoa
đõy là một hỡnh ảnh ẩn dụ của tỏc giả, đú chớnh là những đoỏ hoa thật
sự của đời, là đàn con mà Bỏc đó cố cụng tạo nờn suốt bảy mươi chớn
mựa xuõn Bỏc sống trờn đời. Những bụng hoa trong vườn Bỏc nay đó
lớn lờn, nở rộ ngỏt hương kớnh dõng lờn Bỏc.
Vào bờn trong lăng Bỏc, thấy Bỏc đang nằm đú, nhà thơ lại một lần
nữa cố giấu tiếng nấc nghẹn ngào:
“Bỏc nằm trong giấc ngủ bỡnh yờn
Giữa một vầng trăng sỏng dịu hiền”
Khung cảnh bờn trong lăng thật ờm dịu, thanh bỡnh. Lỳc này, trước
mặt mọi người chỉ cú hỡnh ảnh Bỏc. Bỏc nằm đú trong giấc ngủ vĩnh
hằng. Bỏc mất thật rồi sao? Khụng đõu. Bỏc chỉ nằm đú ngủ thụi, Bỏc
chỉ ngủ thụi mà! Suốt bảy mươi chớn năm cống hiến cho đất nước, bõy
giờ đất nước đó bỡnh yờn, Bỏc phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc
ngủ của Bỏc là một “vầng trăng sỏng dịu hiền”. Đú là hỡnh ảnh ẩn dụ
cho những năm thỏng làm việc của Bỏc, lỳc nào cũng cú vầng trăng bờn
cạnh bầu bạn. Từ giữa chốn tự đày, đến “cảnh khuya” nỳi rừng Việt Bắc,
rồi “nguyờn tiờu”…Tuy vậy, Bỏc chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng
đỳng nghĩa. Khi thỡ “trong tự khụng rựơu cũng khụng hoa”, khi thỡ
“việc quõn đang bận”. Chỉ cú bõy giờ, trong giấc ngủ yờn, vầng trăng ấy
mới thật sự là vầng trăng yờn bỡnh, để Bỏc nghỉ ngơi và ngắm. Trăng
dịu hiền, soi sỏng hỡnh ảnh Bỏc. Nhỡn Bỏc ngủ ở đấy thật bỡnh yờn,
nhưng cú một sự thật dự đau lũng cỏch mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bỏc
đó thật sự ra đi mói mói.
“Vẫn biết trời xanh là mói mói
Mà sao nghe nhúi ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kộo dài đến vụ tận, khụng bao giờ chấm dứt.
Dự lớ trớ vẫn luụn trấn an lũng mỡnh rằng Bỏc vẫn sống đấy, vẫn cũn
dừi theo Tổ quốc mói mói như màu xanh thanh bỡnh trờn nền trời Tổ
quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhúi đau vỡ một sự thật đau lũng.
Một từ “nhúi” của nhà thơ núi hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lờn mọi
lớ lẽ, mọi lập luận lớ trớ. Bỏc như trời xanh, Bỏc là mói mói, Bỏc vẫn
sống trong tõm tưởng mỗi chỳng ta, Bỏc mói hiện diện trờn mỗi phần
đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nờn đất nước này. Nhưng mà Bỏc
mất thật rồi, ta khụng cũn cú Bỏc trong cuộc đời thường này. Mất Bỏc,
cỏi thiếu vắng ấy liệu cú thể nào bự đắp được? Tổ quốc ta đó thật sự
khụng cũn Bỏc dừi theo từng bước chõn, khụng cũn được Bỏc nõng đỡ
mỗi khi vấp ngó. Bỏc ra đi, nỗi đau ấy liệu cú từ ngữ nào diễn tả hết? Cả
đàn con Việt Nam luụn tiếc thương Bỏc, luụn nhớ về Bỏc như một cỏi
gỡ đú thật vĩ đại, khụng thể xoỏ nhoà. Dự Bỏc ra đi thật sự rồi nhưng
những điều Bỏc đó làm vẫn sẽ đọng lại trong tõm hồn, hỡnh ảnh Bỏc
vẫn tồn tại trường kỡ trong trỏi tim mỗi người dõn Việt Nam.
Cuối cựng dẫu thương tiếc Bỏc đến mấy, cũng đến lỳc phải rời lăng
Bỏc để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xỳc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bỏc rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại
vang lờn, gợi về miền đất xa xụi của Tổ quốc, một nơi từng cú vị trớ sõu
sắc trong trỏi tim người. Một tiếng “thương” ấy là yờu, là biết ơn, là
kớnh trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đú là tiếng thương
của nỗi đau xút khi mất Bỏc. Thương Bỏc lắm, nước mắt trào ra, thật
đỳng là tỡnh thương của người Việt Nam, vụ bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hút quanh lăng Bỏc
Muốn làm đúa hoa tỏa hương đõu đõy
Muốn làm cõy tre trung hiếu chốn này”
Cựng với nỗi niềm yờu thương vụ hạn, tỏc giả núi lờn muụn vàn lời
tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước
nguyện ấy. Ước chi ta cú thể biến hỡnh thành những gỡ thõn yờu quanh
nơi Bỏc ngủ để mói mói được chiờm ngưỡng Bỏc, cuộc đời và tõm hồn
của Bỏc, để bày tỏ lũng ta với Bỏc. Một con chim nhỏ gúp tiếng hút làm
vui những bỡnh minh của Bỏc, một đúa hoa gúp mựi hương làm thơm
khụng gian quanh Bỏc hay một cõy tre trong hàng tre xanh xanh VN tỏa
búng mỏt dịu dàng quờ hương của Bỏc, tất cả đều làm Bỏc vui và ngủ an
giấc hơn. Đõy cũng chớnh là nguyện ước chõn thành, sõu sắc của hàng
triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bỏc. Bỏc ơi! Bỏc hóy
ngủ lại bỡnh yờn nhộ, chỳng chỏu về miền Nam tiếp tục xõy dựng Tổ
quốc từ nền múng Bỏc đó tạo ra đõy! Cõu thơ trầm xuống để kết thực,
ngừng lặng hũan toàn.
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bỏc cú nhiều điểm nghệ thuật rất
đặc sắc, giỳp biểu hiện thành cụng thờm về những giỏ trị nội dung. Bài
thơ viết theo thể tỏm chữ, trong cú cú xen một vài cõu bảy và chớn chữ.
Nhiều hỡnh ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đó được ẩn dụ, trở
thành một cỏch thể hiện cảm xỳc thành kớnh của tỏc giả. Nhịp thơ của
bài linh hoạt, lỳc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đỏp cụng ơn
Bỏc, lỳc chậm là lỳc thể hiện lũng thành kớnh với Bỏc. Giọng điờu của
bài trang trọng, tha thiết, ngụn ngữ thơ bỡnh dị mà cụ đỳc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chõn thành, giàu cảm xỳc, nhà thơ Viễn
Phương đó bày tỏ được niềm xỳc động cựng lũng biết ơn sõu sắc đến
Bỏc trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bỏc. Bài thơ như một tiếng
núi chung của toàn thể nhõn dõn Việt Nam, biểu lộ niềm đau xút khi
thấy Bỏc kớnh yờu ra đi. Qua bài thơ, tụi cảm thấy rằng đất nước ta cú
hoà bỡnh như ngày hụm nay một phần lớn là nhờ cụng lao của Bỏc, như
vậy chỳng ta cần phải biết xõy dựng và bảo vệ Tổ quốc ta, để những
cụng ơn to lớn của Bỏc khụng bị bỏ phớ.