Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Thực trạng tổ chức kế toán TSCĐ tại các DN liên doanh SX ôtô việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.92 KB, 128 trang )

1
PHầN Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định “phấn đấu
xây dựng Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020” đã
đặt ra yêu cầu cấp thiết với những mục tiêu phát triển mới cho mỗi ngành,
mỗi cấp trong tiến trình CNH - HĐH đất nước.
Thời gian qua, đặc biệt với 20 năm đổi mới, Việt Nam đã thu được
những thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị - xã hội và đang từng bước hội
nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới. Với luật đầu tư nước ngoài được
đánh giá là thông thoáng và có nhiều ưu đãi so với các nước khác, chúng ta
đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đáng kể cho phát triển kinh tế xã hội.
Lộ trình ra nhập các tổ chức quốc tế như ASEAN, APEC, thực hiện Hiệp
định Thương mại Việt-Mỹ và tiến tới ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO)… Việt Nam đã thực hiện từng bước xoá bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan từ đó tạo động lực phát triển kinh tế và nâng cao sức cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tới, phát triển các ngành công nghiệp cần
được quan tâm hơn nữa nhằm khai thác tốt tiềm năng nội lực, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính
vì vậy, ngày 5 tháng 10 năm 2004 Thủ tướng chính phủ đã ký quyết định số
177/2004/QĐ-TTG về việc phê duyệt phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt
Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 nhằm “ phát triển nhanh ngành
công nghiệp ôtô trên cơ sở thị trường và hội nhập với nền kinh tế thế giới ;
lựa chọn các bước phát triển thích hợp, khuyến khích chuyên môn hoá - hợp
tác hoá nhằm phát huy lợi thế tiềm năng của đất nước; đồng thời tích cực
2
tham gia quá trình phân công lao động và hợp tác quốc tế trong ngành công
nghiệp ôtô”.
Bên cạch việc ban hành những chính sách kinh tế vĩ mô thì Việt Nam
cũng đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện các công cụ quản lý kinh tế.


Một trong những cố gắng đáng kể đó là việc hoàn thiện chế độ kế toán theo
hướng phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Việc ban hành chế độ kế
toán mang tính pháp lý cao đòi hỏi các ngành cũng nh DN phải nghiên cứu
và triển khai áp dụng một cách kịp thời cho đặc thù sản xuất kinh doanh của
mình.
Trong điều kiện hiện nay, khi có sự bùng nổ về khoa học công nghệ
thì phương thức lao động được thay đổi đáng kể từ lao động thủ công sang
lao động cơ giới hoá và tự động hoá. Vì vậy, máy móc thiết bị và công nghệ
nói chung, tài sản cố định (TSCĐ) của DN nói riêng ngày càng đóng một vai
trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của DN .
Công nghiệp ôtô Việt Nam hiện nay bao gồm 11 DN liên doanh sản
xuất ôtô, trên 160 DN trong nước sản xuất, lắp ráp, sửa chữa ô tô và chế tạo
phụ tùng, trong đó có khoảng gần 20 cơ sở sản xuất, lắp ráp ô tô, gần 20 cơ
sở sản xuất thân xe và rơ moóc và hơn 60 cơ sở tham gia chế tạo phụ tùng.
Tại thời điểm này có thể nói, sự phát triển của các DN liên doanh sản xuất
ôtô đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp ôtô
Việt Nam, đó là những DN chiếm thị phần lớn và chịu ảnh hưởng trực tiếp
của tiến bộ khoa học công nghệ mới. Do đó, việc đầu tư, khai thác và quản
lý tốt TSCĐ sẽ góp phần quan trọng đảm bảo cho các DN liên doanh sản
xuất ôtô tại Việt Nam phát triển vững chắc và cạnh tranh thắng lợi.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ lý luận về tổ chức kế toán TSCĐ trong các DN.
3
- Tìm hiểu thực trạng công tác tổ chức TSCĐ trong các DN sản xuất
ôtô tại Việt Nam trong thời gian qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức kế
toán TSCĐ trong các liên doanh sản xuất ôtô tại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn chỉ đề cập đến hai loại TSCĐ là:
TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình.

- Đề tài chủ yếu đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức kế
toán TSCĐ và thực tiễn tổ chức kế toán TSCĐ trong các liên doanh sản xuất
ôtô tại Việt nam cũng như phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kế
toán TSCĐ trong các DN liên doanh sản xuất ôtô tại Việt nam cho phù hợp
với chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên cơ sở phương pháp
luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin để luận giải các vấn đề
có liên quan; phương pháp thống kê, hệ thống hoá và ngoại suy kết hợp với
phương pháp tổng hợp phân tích tình hình thực tiễn, khảo sát thu thập tư
liệu.
5. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hoá và tổng kết cơ sở lý luận về TSCĐ và tổ chức kế toán
TSCĐ trong các DN sản xuất kinh doanh, để làm cơ sở lý luận cho các giải
pháp nhằm hoàn thiện kế toán TSCĐ trong các liên doanh sản xuất ôtô tại
Việt Nam.
4
- Khảo sát thực tế về tình hình trang bị , quản lý sử dụng và tổ chức kế
toán TSCĐ ở một số DN liên doanh sản xuất ôtô tại Việt Nam
- Đề xuất được những giải pháp hoàn thiện kế toán TSCĐ ở cả góc độ
lý luận nói chung và thực tiễn kế toán TSCĐ trong các liên doanh sản xuất
ôtô nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục các bảng, hình, Luận văn bao
gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức kế toán TSCĐ tại các DN sản xuất.
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán TSCĐ tại các DN liên doanh SX ôtô
việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện tổ chức kế toán TSCĐ trong các DN liên doanh SX
ôtô Việt Nam

Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục.
5
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1 SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA TỔ CHỨC KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ
ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1.1 Đặc điểm tài sản cố định và điều kiện nhận dạng tài sản cố định
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tài sản có thể có hình thái vật chất
cụ thể và cũng có thể chỉ tồn tại dưới hình thái giá trị được sử dụng để thực
hiện một hoặc một số chức năng nhất định trong quá trình SXKD, có giá trị
lớn và sử dụng được trong thời gian dài.
Tuỳ theo điều kiện, yêu cầu và trình độ quản lý trong từng giai đoạn
phát triển kinh tế mà Nhà nước qui định cụ thể tiêu chuẩn về giá trị và thời
gian sử dụng của những tư liệu lao động được xác định là TSCĐ.Theo chuẩn
mực kế toán ban hành tại quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001
thì những tư liệu lao động phải thỏa mãn đồng thời bốn tiêu chuẩn sau mới
được gọi là TSCĐ:
- Chắc chắn thu được lợi Ých trong tương lai từ việc sử dụng tài sản
đó.
- Nguyên giá TSCĐ phải được xác định một cách đáng tin cậy.
- Thời gian sử dụng ước tính trên một năm.
- Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo qui định hiện hành.
Để có được những thông tin hữu Ých nhằm phục vụ tốt cho công tác
quản lý và sử dụng TSCĐ, DN cần phải thực hiện tốt công tác tổ chức kế
toán TSCĐ. Từ đó có được những thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời số
hiện có và tình hình tăng giảm của TSCĐ của toàn DN cũng như ở từng bộ
phận trên các mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu, giá trị đồng thời kiểm soát
6
chặt chẽ việc bảo quản, bảo dưỡng và sử dụng TSCĐ ở các bộ phận khác

nhau nhằm nâng cao hiệu suất sử dụng TSCĐ.
TSCĐ là cơ sở vật chất chủ yếu, giúp cho DN đạt được các mục tiêu
về hoạt động tài chính trong quá trình SXKD. Nhiệm vụ đặt ra đối với mỗi
DN là phải tăng cường công tác quản lý TSCĐ nhằm đạt hiệu quả cao. Đồng
thời nhờ việc quản lý tốt TSCĐ, DN sẽ phát triển sản xuất, tạo ra nhiều sản
phẩm, hạ giá thành, tăng vòng quay của vốn và đổi mới trang thiết bị, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường.
1.1.2 Yêu cầu quản lý tài sản cố định
Những yêu cầu về quản lý TSCĐ được quy định cụ thể trong Chế độ
quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ ban hành theo quyết định
206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003. Nội dung này về cơ bản bao gồm một
số yêu cầu sau:
TSCĐ được tổ chức theo dõi từng đơn vị TSCĐ riêng biệt. Mỗi đối
tượng TSCĐ phải có một bộ hồ sơ riêng, phải được theo dõi toàn diện từ khi
hình thành đến khi thanh lý, nhượng bán. Các TSCĐ phải được đánh số hiệu
riêng. Khi có biến động về TSCĐ phải căn cứ vào các biên bản, các chứng
từ có liên quan để ghi sổ. Các DN có thể tự phân loại chi tiết hơn TSCĐ
trong từng nhóm TSCĐ phù hợp với yêu cầu quản lý của DN.
Khi thanh lý nhượng bán TSCĐ, DN phải lập hội đồng để xác định
giá trị thu hồi khi thanh lý, xác định giá bán TSCĐ, tổ chức việc thanh lý,
nhượng bán TSCĐ theo quyết định hiện hành.
Thời gian sử dụng TSCĐ được xác định dựa vào tuổi thọ kỹ thuật của
TSCĐ theo thiết kế, hiện trạng TSCĐ, tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Đối với
TSCĐ còn mới hay đã qua sử dụng mà giá trị thực tế còn từ 90 % trở lên
7
phải xác định thời gian sử dụng căn cứ vào khung thời gian sử dụng TSCĐ
được quy định trong chế độ.
Đối với TSCĐ thuê hoạt động, DN có trách nhiệm quản lý, sử dụng
theo các quy định trong hợp đồng thuê. DN không trích khấu hao đối với
những TSCĐ này, chi phí thuê TSCĐ được hạch toán vào chi phí kinh

doanh trong kỳ.
Phải tiếp tục thực hiện việc quản lý sử dụng TSCĐ đã khấu hao hết
nhưng vẫn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Đối với
TSCĐ đang sử dụng, phải theo dõi, quản lý, sử dụng và trích khấu hao theo
chế độ quy định. Đối với TSCĐ thuê tài chính, chỉ theo dõi quản lý, sử dụng
như đối với TSCĐ thuộc sở hữu của DN.
1.1.3 Vai trò tổ chức kế toán tài sản cố định
TSCĐ có vai trò hết sức quan trọng, nếu các DN tổ chức quản lý và sử
dụng TSCĐ có hiệu quả thì sẽ mang lại nguồn lợi lớn cho DN mình, ngược
lại sẽ gây ra sự lãng phí, thất thoát, giảm năng lực sản xuất. Do đó:
- Phải quản lý TSCĐ nh là yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, góp phần
tạo năng lực sản xuất của đơn vị. Kế toán phải cung cấp thông tin về số
lượng tài sản hiện có, tình hình tăng, giảm TSCĐ trong đơn vị.
- Kế toán phải cung cấp những thông tin về các loại vốn cần thiết để đầu tư
mới cũng nh để sửa chữa TSCĐ.
- Do TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất nên luôn cần được đổi
mới không ngừng. Các DN luôn phải đề cao trách nhiệm làm chủ nguồn
vốn, quản lý, sử dụng, bảo toàn và phát triển số vốn này một cách khoa học,
có hiệu quả. Hơn nữa, kế toán TSCĐ rất phức tạp vì các nghiệp vụ về TSCĐ
nhiều và thường có quy mô lớn, thời gian phát sinh dài nh mua sắm, xây
dựng, khấu hao, sửa chữa, thanh lý… Thêm vào đó, yêu cầu quản lý TSCĐ
rất cao, do vậy, để đảm bảo ghi chép kịp thời, chính xác các nghiệp vụ kinh
8
tế phát sinh và cung cấp những thông tin hữu hiệu nhất cho quản lý thì cần
thiết phải tổ chức hạch toán TSCĐ.
- Một đặc điểm riêng có của TSCĐ hữu hình là trong quá trình SXKD,
TSCĐ vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng giá trị của nó giảm
dần sau mỗi chu kỳ SXKD. Vì vậy trong công tác quản lý TSCĐ cần theo
dõi cả về mặt hiện vật và mặt giá trị của TSCĐ:
Quản lý về mặt hiện vật: bao gồm cả quản lý về số lượng và chất lượng của

TSCĐ. Về lượng, bộ phận quản lý TSCĐ phải đảm bảo cung cấp đầy đủ về
công suất, đáp ứng yêu cầu SXKD của DN. Về mặt chất lượng, công tác bảo
quản phải đảm bảo tránh được hỏng hóc, mất mát các bộ phận chi tiết làm
giảm giá trị TSCĐ. Để thực hiện tốt vấn đề này, mỗi DN cần xây dựng nội
qui bảo quản và sử dụng TSCĐ một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm hoạt
động của mình. Đồng thời để có thể sử dụng TSCĐ một cách có hiệu quả,
các đơn vị cần tiến hành xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật đối với
từng loại, từng nhóm TSCĐ.
Quản lý về mặt giá trị: Là xác định đúng nguyên giá và giá trị còn lại TSCĐ
đầu tư, mua sắm, điều chuyển. Đơn vị phải tính toán chính xác và đầy đủ chi
phí khấu hao TSCĐ và phân bổ chi phí khấu hao vào giá trị TSCĐ khi tiến
hành sửa chữa, tháo dỡ, nâng cấp, cải tiến TSCĐ và đánh giá lại TSCĐ.
Trên cơ sở quản lý về mặt giá trị TSCĐ, đơn vị sẽ có kế hoạch điều chỉnh
TSCĐ (tăng hoặc giảm TSCĐ ) theo loại TSCĐ cho phù hợp với yêu cầu
hoạt động của đơn vị.
Vai trò của TSCĐ và tốc độ tăng TSCĐ trong sự nghiệp phát triển
kinh tế quyết định yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của công tác quản lý
và sử dụng TSCĐ. Việc tổ chức tốt công tác hạch toán để thường xuyên theo
dõi, nắm chắc tình hình tăng giảm TSCĐ về số lượng và giá trị, tình hình sử
dụng và hao mòn TSCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác quản lý.
9
Sử dụng đầy đủ, hợp lý công suất của TSCĐ góp phần phát triển SXKD, thu
hồi vốn đầu tư nhanh để tái sản xuất, trang bị thêm và đổi mới không ngừng
TSCĐ.
1.2 PHÂN LOẠI, ĐÁNH GIÁ TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
1.2.1 Phân loại tài sản cố định
TSCĐ của DN gồm: TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình (trong đó bao
gồm cả TSCĐ thuê tài chính), các khoản đầu tư tài chính dài hạn (đầu tư góp
vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán dài hạn…) và tình hình thực hiện công
tác đầu tư XDCB ở DN.

TSCĐ trong mét DN rất đa dạng, có sự khác biệt về tính chất kỹ thuật,
công dụng, thời gian sử dụng… Do vậy phân loại TSCĐ theo những tiêu
thức khác nhau là công việc hết sức cần thiết nhằm quản lý thống nhất
TSCĐ trong DN, phục vụ phân tích đánh giá tình hình trang bị, sử dụng
TSCĐ cũng như để xác định các chỉ tiêu tổng hợp liên quan đến TSCĐ.
Phân loại TSCĐ là một trong những căn cứ để tổ chức kế toán TSCĐ.
♦ TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ do DN sử
dụng cho các mục đích kinh doanh:
- Đối với TSCĐ hữu hình, DN phân loại như sau:
+) Nhà cửa, vật kiến trúc là TSCĐ của DN được hình thành sau quá trình thi
công xây dựng hoặc mua sắm như trụ sở làm việc, nhà kho, đường xá …
+) Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt
động kinh doanh của DN nh dây chuyền công nghệ, máy móc đơn lẻ…
+) Phương tiện vận tải, truyền dẫn: Là các phương tiện vận tải đường sắt,
đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và thiết bị truyền dẫn ….
+) Thiết bị, dụng cụ quản lý là những thiết bị dụng cụ dùng trong công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của DN nh máy vi tính, thiết bị điện tủ …
10
+) Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và / hoặc cho sản phẩm: là các vườn
cây lâu năm nh vườn cà phê, vườn cao su và các súc vật (trâu, bò sữa…)
+) TSCĐ hữu hình khác: là toàn bộ các TSCĐ hữu hình khác chưa liệt kê
vào các loại trên như các tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn, tranh
ảnh…
- TSCĐ vô hình: bao gồm các loại
+) Chi phí về sử dụng đất
+) Quyền phát hành
+) Bản quyền, bằng sáng chế
+) Nhãn hiệu hàng hoá
+) Phần mềm máy vi tính
+) Giấy phép và giấy phép nhượng quyền

+) TSCĐ vô hình khác.
♦ TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nhiệp, an ninh, quốc phòng:
Là những TSCĐ do DN quản lý sử dụng cho các mục đích phúc lợi, sự
nghiệp, an ninh, quốc phòng trong DN và cũng được phân loại nh trên.
♦ TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước :
Là những TSCĐ DN bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cất giữ hộ
Nhà nước theo qui định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
♦ TSCĐ chê thanh lý, không cần dùng :
Là những TSCĐ hư hỏng không thể tiếp tục sử dụng được , những TSCĐ
lạc hậu về kỹ thuật hoặc không phù hợp với yêu cầu SXKD.
♦ Nếu căn cứ vào tính chất sở hữu thì TSCĐ được phân thành:
- TSCĐ tự có (hay TSCĐ thuộc sở hữu của DN): Là các TSCĐ được
mua sắm, xây dựng và hình thành từ nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên
cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của DN. Đó là những
11
DN có quyền sở hữu chính thức hoặc được Nhà nước uỷ quyền quản lý và
sử dụng tài sản đó.
- TSCĐ đi thuê: Là loại TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian
nhất định theo hợp đồng đã ký kết. Tùy theo điều khoản của hợp đồng thuê
mà TSCĐ đi thuê được chia thành TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt
động. Được quy định trong chuẩn mực thuê tài sản.
♦ Ngoài ra TSCĐ còn được phân loại theo nguồn hình thành:
- TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn chủ sở hữu.
- TSCĐ được hình thành từ các khoản nợ phải trả.
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu
TSCĐ của DN theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa
nguyên giá TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loại TSCĐ của DN
trong một thời kỳ nhất định. Kết cấu TSCĐ của DN trong các thời kỳ khác
nhau cũng khác nhau. Sự biến động của kết cấu TSCĐ chịu ảnh hưởng của
nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu hút vốn đầu tư, khả năng

tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong
sản xuất. Tuy nhiên, đối với các DN, việc phân loại và phân tích kết cấu
TSCĐ là một việc làm cần thiết giúp cho DN chủ động biến đổi kết cấu
TSCĐ sao cho có lợi nhất trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định
của DN.
Phân loại TSCĐ góp phần quan trọng trong việc quản lý tài sản cũng
như việc tổ chức hạch toán TSCĐ được nhanh chóng, chính xác, từ đó cung
cấp thông tin kịp thời cho quản lý nhằm cải tiến, thay đổi TSCĐ theo kịp với
tiến trình phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Tuỳ theo quy mô
và cách thức tổ chức quản lý của mỗi DN mà có thể tự phân loại chi tiết hơn
các TSCĐ trong từng nhóm cho phù hợp với quản lý và hạch toán TSCĐ.
12
1.2.2 Đánh giá tài sản cố định
1.2.2.1 Đánh giá TSCĐ theo nguyên giá:
♦ Nguyên giá TSCĐ hữu hình:
TSCĐ mua sắm: Nguyên giá TSCĐ hữu hình mua sắm bao gồm giá
mua (trừ (-) các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các
khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí
liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như:
chi phí chuẩn bị mặt bằng, chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu, chi phí
lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy
thử) chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác.
TSCĐ hữu hình do đầu tư xây dựng cơ bản theo phương thức giao
thầu: Đối với TSCĐ hữu hình hình thành do đầu tư xây dựng theo phương
thức giao thầu, nguyên giá là giá quyết toán công trình đầu tư xây dựng, các
chi phí liên quan trực tiếp khác và lệ phí trước bạ (nếu có). Trường hợp mua
TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất thì
giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ
vô hình.
TSCĐ hữu hình mua trả chậm: Trường hợp TSCĐ hữu hình mua sắm

được thanh toán theo phương thức trả chậm, nguyên giá TSCĐ đó được
phản ánh theo giá mua trả ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa
tổng số tiền phải thanh toán và giá mua trả ngay được hạch toán vào chi phí
theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá
TSCĐ hữu hình (vốn hóa) theo quy định của chuẩn mực kế toán “Chi phí đi
vay”. Các khoản chi phí phát sinh, như: Chi phí quản lý hành chính, chi phí
sản xuất chung, chi phí chạy thử và các chi phí khác nếu không liên quan
trực tiếp đến việc mua sắm và đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì
không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình. Các khoản lỗ ban đầu do
13
máy móc không hoạt động đúng nh dự tính được hạch toán vào chi phí sản
xuất, kinh doanh trong kỳ.
TSCĐ hữu hình tự xây dựng hoặc tự chế: Nguyên giá TSCĐ hữu hình
tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây dựng, hoặc tự
chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường hợp DN dùng sản phẩm do
mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất
sản phẩm đó cộng (+) các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa TSCĐ
vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi
nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đó. Các chi phí không
hợp lý, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí
khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự
chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi: Nguyên giá TSCĐ hữu
hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình không tương tự
hoặc tài sản khác được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ hữu hình nhận
về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản
tiền hoặc tương đương tiền trả thêm hoặc thu về. Nguyên giá TSCĐ hữu
hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ hữu hình tương tự, hoặc có
thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự (tài
sản tương tự là tài sản có công dụng tương tự, trong cùng lĩnh vực kinh

doanh và có giá trị tương đương). Trong cả hai trường hợp không có bất kỳ
khoản lãi hay lỗ nào được ghi nhận trong quá trình trao đổi. Nguyên giá
TSCĐ nhận về được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ đem trao đổi. Ví dụ:
Việc trao đổi các TSCĐ hữu hình tương tự như trao đổi máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải, các cơ sở dịch vụ hoặc TSCĐ hữu hình khác.
TSCĐ loại được cho, được biếu, được tặng, nhận vốn góp liên doanh,
nhận lại vốn góp, do phát hiện thừa…: Nguyên giá TSCĐ hữu hình được tài
14
trợ, được biếu tặng, được ghi nhận ban đầu theo giá trị hợp lý ban đầu.
Trường hợp không ghi nhận theo giá trị hợp lý ban đầu thì DN ghi nhận theo
giá trị danh nghĩa cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài
sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng.
♦ Nguyên giá tài sản cố định vô hình
Nguyên giá của TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí mà DN phải bỏ
ra để có được TSCĐ vô hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào sử dụng
theo dự kiến.
Nguyên giá TSCĐ vô hình = Chi phí thực tế đã chi
Chi phí thực tế bao gồm tất cả các khoản chi hợp lý, hợp lệ và cần
thiết mà DN đã chi ra để có được TSCĐ vô hình đó và đưa vào sử dụng
(trong đó bao gồm cả các khoản thuế không được hoàn trả). Đối với từng
TSCĐ vô hình khác nhau thì nội dung của các khoản chi phí cũng có sự
khác nhau.
Nguyên giá TSCĐ vô hình mua riêng biệt bao gồm giá mua (trừ (-)
các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế
(không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực
tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
Trường hợp quyền sử dụng đất được mua cùng với mua nhà cửa, vật
kiến trúc trên đất thì giá trị quyền sử dụng đất phải được xác định riêng biệt
và ghi nhận là TSCĐ vô hình.
Trường hợp TSCĐ vô hình mua sắm được thanh toán theo phương

thức trả chậm nguyên giá của TSCĐ vô hình được phản ánh theo giá mua
trả ngay tại thời điểm mua. Khoản chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh
toán và giá mua trả ngay được hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh
theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số chênh lệch đó được tính vào nguyên giá
15
TSCĐ vô hình (vốn hóa) theo quy định của chuẩn mực kế toán “Chi phí đi
vay”.
Nếu TSCĐ vô hình hình thành từ việc trao đổi thanh toán bằng chứng
từ liên quan đến quyền sở hữu vốn của đơn vị : nguyên giá TSCĐ vô hình là
giá trị hợp lý của các chứng từ được phát hành liên quan đến quyền sở hữu
vốn.
Nguyên giá TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn là giá trị
quyền sử dụng đất khi được giao đất hoặc số tiền trả khi nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác, hoặc giá trị quyền sử
dụng đất nhận góp vốn liên doanh.
Trường hợp quyền sử dụng đất được chuyển nhượng cùng với mua
nhà cửa, vật kiến trúc trên đất thì giá trị của nhà cửa, vật kiến trúc phải được
xác định riêng biệt và ghi nhận là TSCĐ hữu hình.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được Nhà nước cấp hoặc được tặng, biếu:
được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng (+) các chi phí liên quan trực
tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ DN: bao gồm tất cả
các chi phí liên quan trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và
nhất quán từ các khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị
đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính. Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo
ra từ nội bộ DN bao gồm:
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu hoặc dịch vụ đã sử dụng trong việc tạo
ra TSCĐ vô hình .
+ Tiền lương, tiền công và các chi phí khác liên quan đến việc thuê
nhân viên trực tiếp tham gia vào việc tạo ra tài sản đó.

16
+ Các chi phí khác liên quan trực tiếp đến việc tạo ra tài sản nh chi phí
đăng ký quyền pháp lý, khấu hao bằng sáng chế phát minh và giấy phép
được sử dụng để tạo ra tài sản đó.
+ Chi phí sản xuất chung được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất
quán vào tài sản ( ví dụ: phân bổ khấu hao nhà xưởng, máy móc thiết bị, phí
bảo hiểm , tiền thuê nhà xưởng, thiết bị )
Các chi phí sau đây không được tính vào nguyên giá TSCĐ vô hình
được tạo ra từ nội bộ DN :
+ Chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN và chi phí sản xuất chung
không liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng .
+ Các chi phí không hợp lý nh: nguyên liệu, vật liệu lãng phí, chi phí
lao động, các khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường.
+ Chi phí đào tạo nhân viên để vận hành tài sản.
♦ Nguyên giá tài sản cố định thuê tài chính:
Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính phản ánh ở đơn vị thuê nh đơn vị
chủ sở hữu tài sản bao gồm: giá trị hợp lý các chi phí vận chuyển, bốc dỡ,
các chi phí sửa chữa, tân trang trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng , chi phí lắp
đặt, chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có) … Theo chế độ tài chính hiện
hành ở Việt Nam, khi đi thuê TSCĐ, bên thuê căn cứ vào các chứng từ liên
quan do bên thuê chuyển đến để xác định nguyên giá TSCĐ đi thuê. Nguyên
giá TSCĐ thuê tài chính có thể tính theo mét trong các cách sau:
- Tính theo số nợ gốc thực tế phải trả: nếu trong hợp đồng ghi rõ số tiền
đi thuê phải trả cho cả giá thuê, cho mỗi kỳ thì nguyên giá TSCĐ
được xác định theo công thức:
Nguyên
giá TSCĐ
đi thuê
Tổng số nợ
phải trả theo

hợp đồng
Số kỳ thuê
Số lãi
phải trả
mỗi kỳ
= - x
17
- Tính theo giá trị hiện tại của số tiền thuê:
FV
PV =
(1+r )
t
Trong đó:
PV : Giá trị hiện tại của tiền thuê gốc
FV : Lượng tiền phải trả ở một thời điểm trong tương lai (tổng số tiền
thuê TSCĐ phải trả)
R : tỷ lệ lãi suất
T : số kỳ đi thuê (thời gian thuê)
Nguyên giá TSCĐ chỉ thay đổi trong các trường hợp sau:
(1) Lắp đặt thêm, nâng cấp TSCĐ đã có
(2) Tháo dì bớt một hoặc một số bộ phận của TSCĐ đã có
(3) Đánh giá lại TSCĐ
Nguyên giá của TSCĐ đi thuê tài chính không bao gồm số thuế
GTGT bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê (kể cả trường hợp
TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động SXKD hành hoá, dịch vụ thuộc đối
tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế và trường hợp
TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá dịch vụ thuộc đối
tượng không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT tính theo phương pháp
trực tiếp ).
Việc ghi nhận nguyên giá của TSCĐ thuê tài chính tại thời điểm khởi

đầu thuê được thực hiện theo qui định của chuẩn mực kế toán số 06 “thuê tài
sản”. Sau thời điểm đó, kế toán TSCĐ thuê tài chính trên TK 212 được thực
hiện theo qui định của chuẩn mực kế toán số 03 “ TSCĐ hữu hình”.
1.2.2.2 Đánh giá TSCĐ theo giá trị còn lại
18
♦ Hao mòn TSCĐ
Hao mòn TSCĐ là sự giảm dần giá trị và giá trị sử dụng của TSCĐ do
tham gia vào hoạt động kinh doanh, do cọ xát, bào mòn của tự nhiên, do tiến
bộ khoa học kỹ thuật… Trong quá trình hoạt động của TSCĐ, giá trị hao
mòn phản ánh nguồn vốn đầu tư coi như đã thu hồi được ở TSCĐ tại một
thời điểm nhất định. Giá trị hao mòn TSCĐ là khoản chi phí được trích định
kỳ (hàng tháng, hàng quý) vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ để hình
thành một nguồn vốn nhằm tái đầu tư lại TSCĐ do quá trình sử dụng nó bị
hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Khi xác định được nguyên giá và giá
trị hao mòn của TSCĐ, kế toán sẽ xác định được giá trị còn lại của TSCĐ.
Trong quá trình tham gia vào sản xuất kinh doanh, do chịu tác động
bởi nhiều nhân tố khác nhau nên TSCĐ bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô
hình.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự giảm dần về mặt giá trị sử dụng và
giá trị của TSCĐ do nã tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản
xuất kinh doanh, trong trường hợp này, mức độ hao mòn tỷ lệ thuận với thời
gian và cường độ sử dụng của chúng. Ngoài nguyên nhân chủ yếu nói trên,
trong khi sử dụng và cả không sử dụng, TSCĐ còn bị hao mòn hữu hình là
do tác động của những yếu tố tự nhiên như độ Èm, khí hậu… Để giảm bớt
hao mòn hữu hình TSCĐ phải được bảo quản tốt, bảo dưỡng thường xuyên
và sử dụng đúng tính năng kỹ thuật của TSCĐ.
Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm dần về mặt giá trị của TSCĐ
do tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển cho phép sản
xuất ra những máy móc thiết bị cùng loại, cùng thông số kỹ thuật nhưng với
giá rẻ hơn, hoặc với giá không đổi nhưng tính năng, tác dụng, công suất cao

hơn. Do vậy, những máy móc được sản xuất trước đây sẽ bị lạc hậu so với
hiện tại. Hao mòn vô hình còn xuất hiện khi chu kỳ sống của một sản phẩm
19
sống kết thúc, những máy móc để chế tạo ra loại sản phẩm đó bị mất tác
dụng. Hao mòn vô hình không chỉ diễn ra đối với các TSCĐ có hình thái vật
chất mà ngay cả đối với TSCĐ không có hình thái vật chất.
Hao mòn TSCĐ là một phạm trù mang tính khách quan, khi sử dụng
TSCĐ các DN phải tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá
của TSCĐ vào chi phí kinh doanh trong từng kỳ hạch toán gọi là khấu hao
TSCĐ. Mục đích của việc trích khấu hao TSCĐ là giúp cho các DN tính
đúng, tính đủ chi phí sử dụng TSCĐ và thu hồi vốn đầu tư để tái tạo TSCĐ
khi chúng bị hư hỏng. Nh vậy, khấu hao TSCĐ là một hoạt động có tính chủ
quan, là con số giả định về sự hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng.
Chính vì vậy, về phương diện kế toán, giá trị hao mòn của TSCĐ được tính
bằng số khấu hao lũy kế đến thời điểm xác định. Khi TSCĐ bắt đầu đưa vào
sử dụng tại DN thì giá trị hao mòn coi như bằng không (trừ trường hợp
chuyển giao giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong DN, giá
trị hao mòn TSCĐ bên nhận được tình bằng giá trị hao mòn ghi trên sổ của
đơn vị giao).
♦ Khấu hao TSCĐ
Khấu hao TSCĐ là nội dung rất quan trọng trong kế toán TSCĐ ở
DN. Xác định đúng đắn số khấu hao phải tính và phân bổ phù hợp vào các
đối tượng sử dụng TSCĐ vừa bảo đảm có đủ nguồn vốn để tái tạo TSCĐ ,
trả nợ vay vừa bảo đảm hạch toán đúng đắn chi phí SXKD để tính đúng
giá thành sản phẩm và kết quả kinh doanh.
Khấu hao TSCĐ là phần giá trị của TSCĐ được tính chuyển vào chi
phí SXKD nên một mặt nó làm tăng giá trị hao mòn , mặt khác làm tăng chi
phí SXKD. Khấu hao TSCĐ có vai trò rất quan trọng.
Về phương diện kinh tế, khấu hao cho phép DN phản ánh được giá trị
thực của tài sản, đồng thời phản ánh đúng kết quả hoạt động SXKD của DN.

20
Về phương diện tài chính, khấu hao là một phương tiện tài trợ giúp
DN thu được bộ phận giá trị đã mất của TSCĐ.
Về phương diện tính thuế, khấu hao là một khoản chi phí được trừ vào
lợi nhuận chịu thuế, tức là được tính vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Về phương diện kế toán, khấu hao là việc ghi nhận sự giảm giá của
TSCĐ. Trích khấu hao TSCĐ là để tạo ra quỹ khấu hao, dùng để phục hồi
TSCĐ trong SXKD.
Nh vậy trích khấu hao là nguồn gốc của tái sản xuất TSCĐ.
Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác
nhau, phương pháp tính khấu hao do DN xác định để áp dụng cho từng
TSCĐ phải thực hiện một cách nhất quán, trừ khi có sự thay đổi trong cách
thức sử dụng tài sản đó. Ngoài ra phương pháp khấu hao phải phù hợp với
lợi Ých kinh tế và tài sản đem lại cho DN. Trên thực tế, hiện nay có các
phương pháp khấu hao sau:
+ Phương pháp khấu hao đường thẳng;
+ Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần; và
+ Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm.
(1)Phương pháp khấu hao đường thẳng:
Theo phương pháp khấu hao đường thẳng, số khấu hao hàng năm
không thay đổi trong suốt thời gian sử dụng hữu Ých của tài sản. Mức khấu
hao (KH) hàng năm và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công
thức:
Nguyên giá TSCĐ
Mức trích KH trung bình (năm) =
Thời gian sử dụng của TSCĐ ( năm)
21
Mức KH trung bình (năm)
Tỷ lệ KH trung bình (năm) = x 100

Nguyên giá TSCĐ
Hay:
1
Tỷ lệ KH trung bình (năm) = x 100
Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm)
Nếu DN trích khấu hao cho từng tháng thì lấy số khấu hao phải trích
cả năm chia cho 12 tháng.
Trường hợp thời gian sử dụng hay nguyên giá của TSCĐ thay đổi,
DN phải xác định lại mức trích khấu hao trung bình của TSCĐ bằng cách
lấy giá trị còn lại trên sổ kế toán chia cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc
thời gian sử dụng còn lại (được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử
dụng đã đăng ký trừ thời gian đã sử dụng) của TSCĐ. Mức trích khấu hao
cho năm cuối cùng của thời gian sử dụng TSCĐ được xác định là hiệu số
giữa nguyên giá TSCĐ và số khấu hao lũy kế đã thực hiện của TSCĐ đó.
Việc phản ánh tăng, giảm nguyên giá TSCĐ được thực hiện tại thời điểm
tăng giảm TSCĐ trong tháng.
Với phương pháp khấu hao này, mức khấu hao hàng năm được tính
vào giá thành sản phẩm ổn định, tạo điều kiện ổn định giá thành sản phẩm,
cách tính toán đơn giản dễ hiểu. Tuy nhiên, nhược điểm cơ bản của phương
pháp này là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ
vào giá thành sản phẩm trong quá trình sử dụng TSCĐ. Hơn nữa, do tính
bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm, làm cho TSCĐ của DN
chịu ảnh hưởng bất lợi của hao mòn vô hình.
(2)Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần:
22
Theo phương pháp này, số khấu hao hàng năm giảm dần trong suốt
thời gian sử dụng hữu Ých của tài sản. Thực chất của phương pháp này là số
tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ
theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi.
Mức khấu

hao năm thứ i
=
Giá trị còn lại của
TSCĐ đầu năm thứ i
X
Tỷ lệ khấu hao
hàng năm
Tỷ lệ khấu
hao hàng năm
=
Tỷ lệ khấu hao bình
quân ban đầu
X
Hệ số điều
chỉnh
Với phương pháp khấu hao này sẽ phản ánh chính xác hơn mức hao
mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm
TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô
hình. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là việc tính toán phức
tạp, số tiền trích khấu hao lũy kế qua các năm không đủ bù đắp giá trị đầu tư
ban đầu vào TSCĐ.
(3)Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm:
Phương pháp này dựa trên tổng số đơn vị sản phẩm ước tính tài sản có thể
tạo ra.
Tổng sè KH trong thời gian sử dụng
Mức KH bình quân 1 đơn vị sản lượng=
Sản lượng tính theo công suất thiết kế
Mức KH trong
tháng
=

Sản lượng hoàn
thành trong tháng
X
Mức KH bình quân
một sản phẩm
Cách tính này cố định mức khấu hao trên một đơn vị sản lượng. Đối
với một số DN, việc sản xuất mang tính thời vụ nên việc sử dụng TSCĐ
23
không đồng đều trong năm, vì thế không thể sử dụng phương pháp khấu hao
bình quân mà sử dụng phương pháp khấu hao theo sản lượng mới chính xác
và phù hợp. Nhưng muốn thu hồi vốn nhanh, khắc phục được hao mòn vô
hình, các DN phải tăng ca, tăng năng suất lao động để tạo ra nhiều sản
phẩm.
♦ Giá trị còn lại của TSCĐ:
Giá trị còn lại của TSCĐ là giá thực tế của TSCĐ tại một thời điểm
nhất định. Người ta chỉ xác định được chính xác giá trị còn lại của TSCĐ khi
bán chúng trên thị trường. Về phương diện kế toán, giá trị còn lại của TSCĐ
được xác định bằng hiệu số giữa nguyên giá và số khấu hao lũy kế tính đến
thời điểm xác định. Chính vì vậy, giá trị còn lại trên sổ kế toán mang dấu Ên
chủ quan của DN, cùng một TSCĐ nhưng nếu DN giảm thời gian khấu hao
thì tốc độ giảm của giá trị còn lại sẽ nhanh hơn. Do đó, trong các trường hợp
góp vốn liên doanh bằng TSCĐ, giải thể hoặc sáp nhập DN thì đòi hỏi phải
đánh giá lại giá trị hiện còn của TSCĐ, thực chất của việc làm này là xác
định giá trị còn lại của TSCĐ theo mặt bằng giá cả hiện tại.
Thông thường giá trị còn lại của TSCĐ sau khi đánh giá lại được điều chỉnh:
Giá trị còn lại
của TSCĐ sau
khi đánh giá lại
=
Giá trị còn lại của

TSCĐ trước khi
đánh giá lại
x
Giá đánh giá lại của TSCĐ

Nguyên giá của TSCĐ
Tuy nhiên, giá trị còn lại của TSCĐ sau khi đánh giá lại có thể xác định
bằng giá thực tế còn lại theo thời giá của biên bản kiểm kê và đánh giá lại.
Hạch toán TSCĐ theo nguyên giá và giá trị còn lại, đồng thời đánh giá
TSCĐ một cách chính xác sẽ là bước khởi đầu quan trọng cho toàn bộ công
tác kế toán TSCĐ của DN.
1.2.2.3 Đánh giá lại TSCĐ
24
TSCĐ của DN sau khi đã được ghi nhận ban đầu vào khoản mục tài
sản theo nguyên giá, trong quá trình sử dụng có thể được đánh giá lại
1.3 TỔ CHỨC KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.3.1 Nguyên tắc tổ chức kế toán tài sản cố định
Mục tiêu chính của tổ chức kế toán TSCĐ là nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn đầu tư vào TSCĐ thông qua việc đầu tư đúng mục đích , không
lãng phí và quản lý sử dụng có hiệu quả TSCĐ. Ngoài ra, tổ chức kế toán
TSCĐ hợp lý còn giúp hạch toán đúng đắn các chi phí cấu thành nguyên giá
TSCĐ, chi phí sửa chữa, chi phí khấu hao. Do các chi phí này đều quan
trọng nên nếu sai sót có thể dẫn đến sai lệch nghiêm trọng trên báo cáo tài
chính.
Chẳng hạn, nếu không phân loại đúng những chi phí nào làm tăng
nguyên giá TSCĐ hay phải tính vào chi phí của niên độ thì sẽ làm cho khoản
mục và chi phí của niên độ bị sai lệch. Hoặc ngược lại, nếu không có qui
định chặt chẽ về việc mua sắm, bảo dưỡng, thanh lý tài sản , lúc này chi phí
phát sinh có thể sẽ lớn hơn nhiều so với thực tế và khoản lỗ sẽ phát sinh và
có thể không thua kém tổn thất do bị gian lận tiền.


Tổ chức kế toán TSCĐ trong các DN phải tôn trọng các nguyên tắc sau:
- Áp dụng nguyên tắc phân chia trách nhiệm giữa các chức năng nh
bảo quản tài sản, ghi sổ và phê chuẩn việc mua, thanh lý, nhượng bán tài
sản.
- Lập kế hoạch và dự toán về TSCĐ: các công ty lớn hàng năm
thường thiết lập kế hoạch và dự toán ngân sách cho TSCĐ. Kế hoạch này
bao gồm những vấn đề liên quan đến việc mua sắm, thanh lý nhượng bán tài
sản và nguồn vốn tài trợ cho kế hoạch đó. Nhìn chung, kế hoạch và dự toán
là một công cụ quan trọng để kiểm soát đối với TSCĐ. Chính nhờ lập kế
25
hoạch và dự toán, DN sẽ phải rà soát lại toàn bộ tình trạng TSCĐ hiện có và
mức độ sử dụng chúng, đối chiếu với kế hoạch sản xuất của năm kế hoạch.
Quá trình cân đối giữa các phương án khác nhau (mua sắm, tự xây dựng, sửa
chữa ) với nguồn tài trợ cũng là quá trình đơn vị tự rà soát lại các nguồn
lực và xem xét chi tiết để đánh giá từng phương án.
- Thủ tục mua sắm TSCĐ và đầu tư xây dựng cơ bản: Nhằm bảo đảm
việc đầu tư TSCĐ đạt hiệu quả cao, nhiều DN thường xây dựng chính sách
chung về vấn đề này, chẳng hạn quy định về những thủ tục cần thiết khi mua
sắm TSCĐ, đầu tư xây dựng cơ bản. Ví dụ như mọi trường hợp mua sắm
TSCĐ phải được người có thẩm quyền xét duyệt, phải phù hợp với kế hoạch
và dự toán, phải tổ chức đấu thầu (đối với TSCĐ có gía trị cao), phải tuân
theo các tiêu chuẩn chung về bàn giao tài sản, về nghiệm thu tài sản và chi
trả tiền
- Thủ tục thanh lý hay nhượng bán TSCĐ: DN cần xây dựng các quy
định liên quan đến việc thanh lý tài sản, chẳng hạn mọi trường hợp thanh lý,
nhượng bán tài sản đều phải được sự đồng ý của các bô phận có liên quan,
phải thành lập hội đồng thanh lý gồm các thành viên theo qui định
- Các qui định về phân biệt giữa các khoản chi được tính vào nguyên
gía, hay tính vào chi phí của niên độ: DN nên thiết lập tiêu chuẩn để xác

định về hai khoản này. Các tiêu chuẩn cần dựa trên chuẩn mực hay chế độ
kế toán hiện hành, và được cụ thể hoá theo thực tiễn đơn vị. Ví dụ trong
trường hợp nào thì một khoản chi sau khi hình thành TSCĐ được ghi tăng
giá trị TSCĐ hoặc phải tính vào chi phí trong kỳ.
- Chế độ kiểm kê định kỳ TSCĐ nhằm kiểm tra về sự hiện hữu, địa
điểm đặt tài sản, điều kiện sử dụng, cũng như phát hiện các tài sản để ngoài
sổ sách, hoặc bị thiếu hụt, mất mát

×