Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.09 KB, 50 trang )

NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Hãy giải thích câu tục ngữ Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
Với câu tục ngữ này, ông cha ta đã mách bảo, khuyên dạy rằng, muốn nên
người, muốn hiếu biết nhiều, có kiến thức rộng, am hiểu sự đời, phải lăn lộn
với cuộc sống, phải đi nhiều, phải đi đây đó để thu lượm, học hỏi những tri
thức của cuộc sống để nâng cao, mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của bản
thân mình.
Ở câu tục ngữ đi một ngày đàng, học một sàng khôn, xét về mặt chữ nghĩa,
các từ đều khá rõ ràng. Ở đây chỉ có từ đàng là hơi khó hiểu vì nó là từ địa
phương miền Trung và miền Nam với nghĩa là đường. Cái khó của câu tục
ngữ này là ở chỗ, các từ ngữ kết hợp với nhau tạo nên những đơn vị định
danh vừa cụ thể lại vừa rất trừu tượng. Ngày đàng vừacó ý nghĩa không gian
vừa có ý nghĩa thời gian. Khi ngày đàng kết hợp với từ chỉ số lượng một tạo
thành chỉnh thể một ngày đàng vẫn không tạo nên một đại lượng cụ thể, dễ
nắm bắt được. Dẫu vậy, cả vế thứ nhất đi một ngày đàng cũng toát lên cái ý
“có sự ra đi trong một khoảng thời gian và không gian nhất định dù là ngắn”.
Đây là tiền đề, là cơ sở để tạo nên kết quả học một sàng khôn.
Trong sự đối ứng với vế thứ nhất, đi một ngày đàng thì vế thứ hai học một
sàng khôn hàm chỉ kết quả học hỏi, thu nhận được rất lớn. Sàng khôn trong
câu tục ngữ này có tính biểu trưng và tạo nên những liên tưởng rất lí thú.
Dân gian hay dùng sàng với nghĩa đen chỉ một loại đồ đan bằng tre, hình
tròn, nông và thưa có tác dụng làm sạch trấu và tấm cho gạo, để làm danh từ
chỉ đơn vị. Đơn vị được đong, đo, đếm bằng sàng trong quan niệm dân gian
là lớn và nhiều. Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp là cách đối lập
giữa số ít và số nhiều. Vậy, học một sàng khôn là học được nhau cái hay, cái
tốt của thiên hạ để cho mình khôn lớn hơn, hiểu biết về cuộc sống xã hội.
Nếu thả mình vào trong sự liên tưởng, thì ít nhiều chúng ta lại nghĩ tới một
sự biểu trưng khác của từ sàng khôn này. Thông thường, nói đến sàng người
ta nghĩ tới cái được giữ lại ở trên sàng là thứ to hơn, ngược lại cái lọt xuống,
lọt qua sàng là thứ nhỏ. Lọt sàng xuống nia mà lại! Sàng khôn có lẽ vì thế
mà gợi nên sự liên tưởng tới những điều khôn không chỉ có số lượng nhiều


nói chung, mà còn là cái số luợng nhiều đã được chọn lọc. Không hiểu cha
ông ta có gửi gắm điều này không, nhưng đứng về phía người thưởng thức
và sử dụng ngôn ngữ, những liên tưởng như vậy là hoàn toàn có lý. Trở lại
câu tục ngữ đi một ngày đàng học một sàng khôn, hai vế câu tục ngữ được
hỗ trợ của phép đối và điệp dễ gây liên tưởng có tính khẳng định: hễ cứ đi ra
là có thể học được điều hay lẽ phải và càng đi nhiều càng khôn lớn trưởng
thành. Đó là thông điệp của cha ông gửi lại cho đời sau.
Câu tục ngữ đi một ngày đàng học một sàng khôn còn có một dạng thức nữa
là đi một quãng đàng, học một sàng khôn. Dạng thức này hình thành trên cơ
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
sở cụ thể hóa việc đi lại bằng đơn vị không gian (quãng đường) chứ không
phải là đơn vị thời gian (ngày đàng) như dạng đang xét. Sự thay đổi này
không làm phuơng hại gì đến ý nghĩa của câu tục ngữ.
Gần với câu tục ngữ đi một ngày đàng học một sàng khôn về cả ba phương
diện cấu tạo và ý nghĩa là câu tục ngữ đi một buổi chợ, học một mớ khôn.
Câu tục ngữ này khuyên bảo người đời cần phải tiếp xúc nhiều người, càng
tiếp xúc rộng rãi, càng học hỏi được nhiều, và do đó càng hiểu biết, khôn lớn
trong cuộc sống .
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya (bài hay)
Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ
là chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn
nhạy cảm. Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng
đẹp, Bác đã sáng tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,
Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”
Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình
yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông
xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dủ ở rất xa vẫn theo gió mang
tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời
của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy
hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự
như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm
khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ
thuật lấy động tả một khung cánh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa
vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi
tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em
nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”
Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm
nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên
nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vĩ lãnh tụ cách mạng nhưng
Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác,
ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy
“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”
Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lõi chiếu vào lá và hoa tạo
nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bong trên mặt đất tạo nên những bức
tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào
nhau, trăng đan vào cậy cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh
tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật
nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay lá và ánh trăng. Bác quả là một
người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và
lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em

cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật
thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp
bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ
với vẻ đẹp của trăng
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”
Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên
nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì
“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực,
lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ”
như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai
câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu
thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự
nghiệp của đất nước.Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng
thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc
nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm nghưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên
nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khoả, bớt đi sự vất vả mà Bác phải
chăng chở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hoà
giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách
nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh
người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước thanh
bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong
Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con
người thoả sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất
nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc
mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được
thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm
hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu

quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh
cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh
đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình.
Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời
những vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình
yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ
này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình
tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi
lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao
đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó
là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác
không chút nào xao lãng.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Hãy giải thích ý nghĩa câu Thất bại là mẹ thành công
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình theo
đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến
từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một
cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút
thời gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người
đạt được thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ. Thành công là khi
bố và con trai có dũng khí bước vào bếp, nấu những món ăn mẹ thích nhân
ngày tám tháng ba. Món canh có thể hơi mặn, món cá sốt đáng lẽ phải có
màu đỏ sậm thì lại ngả sang màu… đen cháy.
Nhưng nhìn mâm cơm, mẹ vẫn cười. Bởi vì hai bố con không thể thành công
trên “chiến trường” bếp núc, nhưng lại thành công khi tặng mẹ “đoá hồng”
của tình yêu. Một món quà ý nghĩa hơn cả những món quà quý giá, hạnh
phúc ấy long lanh in trong mắt mẹ.
Thành công còn là hình ảnh một cậu bé bị dị tật ở chân, không bao giờ đi lại
bình thường được. Từ nhỏ cậu đã nuôi ước mơ trở thành cầu thủ bóng đá.
Sau bao nỗ lực khổ luyện, cậu bé trở thành cầu thủ dự bị trong một đội bóng

nhỏ, và chưa bao giờ được chính thức ra sân. Nhưng đó không phải là thất
bại. Trái lại, thành công đã nở hoa khi cậu bé năm xưa, với bao nghị lực và
quyết tâm, đã chiến thắng hoàn cảnh để theo đuổi ước mơ từ ngày thơ bé.
Thành công ấy, liệu có mấy người đạt được?
Sau mỗi mùa thi đại học, có bao “sĩ tử” buồn rầu khi biết mình trở thành “tử
sĩ”. Hai bảy điểm, cao thật đấy. Nhưng cao mà làm gì khi nhiệm vụ một lấy
tới hai bảy phẩy năm? Đó thật ra không phải là thất bại, chỉ là khi thành
công - bị - trì - hoãn mà thôi. Cuộc sống vẫn chào đón họ với nhiệm vụ hai,
nhiệm vụ ba. Quan trọng là họ đã nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Đó là
ý nghĩa vẹn nguyên của các kỳ thi, và cũng là bản chất của thành công.
Ngày còn nhỏ, tôi đã được đọc một câu chuyện rất xúc động. Chuyện kể về
một cậu bé nghèo với bài văn tả lại mẹ - người phụ nữ đã che chở cuộc đời
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
em. Cậu bé viết về một người mẹ với mái tóc pha sương, với đôi bàn tay ram
ráp nhăn nheo nhưng dịu hiền và ấm áp. Cậu kết luận rằng: bà ngoại là
người mẹ - người phụ nữ đã nâng đỡ em trong suốt hành trình của cuộc đời.
Bài văn lạc đề, phải về nhà viết lại. Nhưng đó mới chính là một tác phẩm
thành công, bởi ở đó chất chứa tình yêu thương của đứa cháu mồ côi dành
cho bà ngoại. Liệu có thành công nào, tình cảm nào thiêng liêng hơn thế?
Nhiều năm trước, báo chí từng vinh danh một cậu học trò nghèo thi đậu đại
học với vị trí thủ khoa. Đối với cậu, đó là một thành công lớn. Nhưng có một
thành công khác, lặng thầm mà lớn lao, đó là chiến thắng của một người cha
gần hai mươi năm trời đạp xích lô nuôi con ăn học. Bao niềm tin và hi vọng
hiện lên trên gương mặt vốn đã chịu nhiều khắc khổ. Và ngày con trai đậu
đại học cũng là ngày tốt nghiệp khoá học của một người cha.
Tôi biết có một nữ sinh tốt nghiệp đại học với tấm bằng loại ưu gần hai
mươi năm trước. Với tài năng của mình, cô có thể gặt hái thành công trên
con đường sự nghiệp và danh vọng. Nhưng cô sinh viên năm ấy đã chấp
nhận hi sinh những cơ hội của đời mình để trở thành một người vợ đảm
đang, một người mẹ dịu hiền của hai cô công chúa nhỏ. Cho tới bây giờ, khi

đã là một phụ nữ trung niên, Người vẫn nói với tôi rằng: “Chăm sóc bố và
hai con chu đáo, đối với mẹ đã là một thành công lớn”. Mỗi khi nghe câu nói
ấy, tôi lại rơi nước mắt. Gia đình là hạnh phúc, là thành quả đẹp đẽ của đời
mẹ, và chúng tôi phải cảm ơn mẹ vì điều đó.
Con người luôn khát khao thành công, nhưng mù quáng theo đuổi thành
công thì thật là vô nghĩa. Bạn muốn mình giàu có, muốn trở thành tỷ phú
như Bill Gates? Vậy thì hãy gấp đồng tiền một cách cẩn thận rồi trao nó cho
bà cụ ăn xin bên đường. Với việc làm đẹp đẽ ấy, bạn sẽ cho mọi người hiểu
được bạn không chỉ giàu có về vật chất mà còn giàu có tâm hồn. Khi đó, bạn
đã thực sự thành công.
Cũng có khi bạn ước mơ thành công sẽ đến với mình như đến với
Abramovich - ông chủ của đội bóng toàn những ngôi sao? Thành công
chẳng ở đâu xa, chỉ cần bạn dành thời gian chăm sóc cho “đội bóng” của gia
đình bạn. Ở đó, bạn nhận được tình yêu thương vô bờ bến, thứ mà
Abramovich không nhận lại được từ những cầu thủ của ông ta. Thành công
đến với mọi người một cách giản dị và ngọt ngào như thế!
Bạn được sinh ra, đó là một thành công vĩ đại của cha và mẹ. Trách nhiệm
của bạn là phải gìn giữ cho vẻ đẹp hoàn thiện của thành công ấy. Đừng bao
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
giờ ủ ê nghĩ rằng cuộc sống là một chuỗi của thất bại, bởi như một giáo sư
người Anh từng nói: “Cuộc sống này không có thất bại, có chăng là cách
chúng ta nhìn nhận mọi việc mà thôi”.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Kỉ niệm ngày đầu tiên đi học (bài hay)
Ai mà chẳng có những ngày ấu thơ nhỉ? Những ngày ấy, dù hạnh phúc, dù
cực khổ, dù đắng cay, nhưng đó cũng chính là những kỉ niệm không bao giờ
quên được. Sau này khi bạn nhớ lại, nhìn lại nó, sẽ cảm thấy "sao ngày ấy
mình hồn nhiên quá", hồn nhiên ở cái tuổi chưa hiểu đời. Và đó cũng là
những niềm vui nho nhỏ an ủi bạn trong cuộc sống hiện giờ.
Ngày nay, công nghệ hiện đại tiến bộ, có nhiều thú vui hơn cả ngày xưa của

tôi, cuộc sống thay đổi nhiều, nhưng trong kí ức, những kỉ niệm thời thơ ấu
sẽ mãi theo bạn suốt cả cuộc đời, sẽ mãi ở trong một góc kín tâm hồn của
bạn!. Có những dòng hồi kí, đọc lại mà thấy buồn cười, đáng yêu làm sao,
cũng có những trang hồi kí nhoè nét mực vì những dòng nước mắt!. Cũng
như bao người khác, hồi kí của tôi bắt đầu từ ngày đầu tiên đi học
Ngày xưa, tôi cũng như mọi người khác, cũng có một ngày đầu tiên đi học.
Và những kỉ niệm ngày ấy đã luôn theo tôi cho đến tận bây giờ.Tôi vẫn nhớ
như in câu đầu tiên của bài văn "tôi đi học" của nhà văn Thanh Tịnh: "Hằng
năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những
đám mây bàng bạc , lòng tôi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi
tựu trường ". Sau này nhà văn Lý Lan cũng viết một bài văn rất hay về
đêm trước ngày đầu tiên đi học của một cậu bé.
Các bạn có biết không? Những hình ảnh thân thương, trìu mến, những tấm
lòng yêu con, lo lắng chăm sóc cho con của những nguời mẹ trong ngày đầu
tiên đi học, đối với tôi, chỉ là những mơ ước, những khát khao mà trong đời
này tôi không bao giờ có được.
Ngày đầu tiên đi học của tôi không giống và cũng không được hạnh phúc
như câu chuyện của hai nhà văn nổi tiếng đã viết ra, mà khác nhiều lắm,
khác xa lắm các bạn ạ!
Tôi còn nhớ rõ buổi sáng ấy. Mẹ gọi tôi thức dậy thật sớm. Mẹ thay cho tôi
một bộ quần áo sạch, lành lặn ( không có quần áo mới đâu nhé!). Mẹ trao
cho tôi một quyển vở và một cây bút chì, rồi vuốt tóc tôi bảo:
-Con đi học đi, ráng học giỏi nha con!
Thế là tôi đi học một mình cho buổi học đầu tiên của cuộc đời mình.
Tôi cũng đi trên "con đường làng dài và hẹp". Lòng tôi buồn man mác khi
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
nhìn những người mẹ âu yếm dắt tay con, những đứa trẻ nhỏ như tôi trên
đường đến trường. Còn tôi, chỉ một mình lủi thủi đơn độc, bị nhấn chìm
trong đại dương hạnh phúc của người khác.
Khi đến trường, tôi đâu có được rụt rè "đứng nép bên người thân". Tôi đơn

độc một mình, đứng dựa lưng vào gốc cây phượng vĩ trong sân trường, đưa
mắt nhìn lên những chú chim nho nhỏ đang ríu rít bên những chùm hoa đỏ
rực. Tôi thấy trên khoảng trời xanh mênh mông, có những đám mây nhỏ trôi
chầm chậm, rồi tan biến mất. Tôi chợt nghĩ:" mình có như những đám mây
ấy không nhỉ?"
Rồi tiếng trống trường vang lên dồn dập. Những tiếng trống như những nhát
búa bổ vào lòng tôi. Tôi đang lo sợ. Nỗi sợ ấy giờ đã chuyển thành khiếp sợ.
Tôi chạy vào hàng theo các bạn nhỏ khác, không hề hiểu mình phải làm gì,
và làm sao cho đúng. Tôi im lặng cúi đầu, không dám nhìn thầy giáo đang
đứng phía trước học sinh. Thầy gọi tên học sinh vào lớp. Cuối cùng, chỉ còn
lại một mình tôi đứng đối diện với thầy. Tôi không được gọi tên. Tôi sợ quá,
ngồi thụt xuống, ôm mặt, bật khóc nức nở. Thầy đỡ tôi dậy, hỏi:
- Con tên gì?
- Dạ! Con tên Đực.
- Con còn tên Đức nữa phải không?
Tôi chợt nhớ ra mẹ có dặn tôi tên là Đức. Tôi mừng quá:
- Dạ phải rồi ạ! Con quên.
- Trời! Thầy gọi nhiều lần mà con nín thinh. thôi, con vào lớp đi!
Tôi đi vào lớp trong tiếng cười thương hại của nhiều người mẹ còn ở lại
trong sân trường.
Vậy đó. Ngày đầu tiên đi học của tôi là như vậy đó. Các bạn đừng nghĩ rằng
mẹ không thương tôi. Mẹ thương tôi nhiều lắm. Nhưng mẹ còn phải đi làm
từ sáng sớm để tôi có ăn và được đi học, còn cha tôi, vì bị một tai nạn, nên
không thể ở nhà được. Nhà tôi nghèo lắm,các bạn ạ!
Từ ngày ấy, trong tôi luôn mang một nỗi buồn u ẩn, nhưng tôi cảm thấy
mình rất hạnh phúc, vì cha mẹ tôi đã chịu nhiều gian khổ để cho tôi được đi
học mà không hề có một lời than vãn. Họ chính là những thiên thần hộ mệnh
của tôi. Còn tôi, tôi vẫn một mình đi học trên " con đường làng dài và hẹp".
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Qua văn bản Đức tính giản dị của Bác Hồ hãy chứng minh cho sự giản

dị của Bác
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.Bác không chỉ
đáng yêu mà còn rất đáng kính bởi Bác là người mang đến tự do cho dân
tộc.Ở con người Bác ta còn học tập được nhiều điều đặc biệt là lối sống giản
dị. Bác mãi là tấm gương để chúng ta học tập noi theo.
Bác Hồ là người giản dị như thế nào chắc mỗi chúng ta đều biết. Trước hết
Bác giản dị trong đời sống sinh hoạt. Không chỉ trong những năm tháng khó
khăn mà ngay khi đã là một vị chủ tịch nước trong bữa ăn của Bác cũng rất
giản dị: chỉ có vài ba món đơn gián, khi ăn Bác không để rơi vãi, ăn xong cái
bát bao giờ cũng sạch sẽ. Trong cách mặc của Bác cũng rất giản dị, phù hợp
với hoàn cảnh, với con người Bác. Bộ quần áo ka-ki, bộ quần áo nâu, đôi
dép cao su, chiếc đồng hồ Liên Xô là những đồ vật giản dị gắn liền với
cuộc đời Bác. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng Bác không hề giống như
những vị vua thời phong kiến, không có long bào, không có lầu son gác
tía, mà nơi ở của Bác là ngôi nhà sàn vài ba phòng đơn giản, có vườn cây,
ao cá để Bác được lao động sau những giờ làm việc căng thẳng.
Trong việc làm Bác cũng thể hiện sự giẳn dị của mình. Việc gì làm được thì
Bác không cần ai giúp đỡ nên số người giúp việc cũng ít, chỉ đếm trên đầu
ngón tay. Bác làm việc rất cần cù, cả đời Bác không ngày nào nghỉ ngơi, từ
nhũng công việc hàng ngày đến việc cách mạng vì dân vì nước.
Không những vậy trong quân hệ với mọi người Bác cũng rất giản dị. Từ việc
đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với
các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết
đến. Trong lần về quê, khi mọi người kéo đến rất đông Bác đã cùng mọi
người ngồi trước cửa nhà nói chuyện. Dù là một vị chủ tịch nước nhưng ta
không hề thấy Bác cao sang xa vời mà luôn gần gũi thân thiết.
Trong lời nói và bài viết Bác cũng thể hiện sự giản dị của mình bởi Bác
muốn mọi người dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo nên Bác đã nói rất giản dị về
những điều lớn lao, chân chính như:"Không có gì quý hơn độc lập tự do"
hay để kêu gọi tinh thần đoàn kết Bác đã nói' Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết

Thành công thành công đại thành công"
Và rất nhiều những lời nói, bài văn, bài thơ rất giản dị của Bác mà chúng ta
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
có thể biết.
Tóm lại sự giản dị của Bác càng làm nổi bật đời sống nội tâm và tôn thêm vẻ
đẹp con người Bác. Sự giản dị của Bác là tấm gương mà chung ta phải học
tập và noi theo.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Cảm nhận của em về bài thơ Rằm tháng Giêng của Hồ Chí Minh
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp
xinh tươi.
“Nguyên tiêu” nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh viết trong 9
năm kháng chiến chống Pháp, tại chiến khu Việt Bắc: “Nguyên tiêu”, “Báo
Tiệp”, “Thu dạ”,…Sau chiến thắng Việt Bắc, thu đông năm 1947, sang xuân
hè 1948, quân ta lại thắng lớn trên đường số bốn. Niềm vui thắng trận tràn
ngập tiền tuyến hậu phương. Trong không khi sôi động và phấn chấn ấy, bài
thơ “Nguyên tiêu” của Bác Hồ xuất hiện trên báo “
Cứu quốc” như một đoá hoa xuân ngào ngạt và rực rỡ sắc hương. Xuân
Thuỷ đã dịch khá hay bài thơ này. Nguyên tác bằng chữ Hán, viết theo thể
thơ thất ngôn tứ tuyệt:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên;
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.
Đêm nguyên tiêu trăng sáng ngời trên một không gian bao la. Bài thơ nói lên
cảm xúc và niềm vui dào đạt trong tâm hồn lãnh tu đêm nguyên tiêu lịch sử.
Hai câu đầu vẽ lên cảnh đẹp tuyệt vời đêm nguyên tiêu. Trên bầu trời, vầng
trăng vừa tròn (nguyệt chính viên). Trăng rằm tháng giêng mang vẻ đẹp tươi
xinh khác thường vì mùa xuân làm cho trăng thêm đẹp. Và trăng cũng làm
cho cảnh vật mang vẻ đẹp hữu tình. Đất nước quê hương bao la một màu

xanh bát ngát. Màu xanh lấp lánh của “xuân giang”. Màu xanh ngọc bích
của “xuân thuỷ” tiếp nối với màu xanh thanh thiên của “xuân thiên”. Ba từ
“xuân” trong câu thơ thứ hai là những nét vẽ đặc sắc làm nổi bật cái “thần”
của cảnh vật sông, nước và bầu trời.
“Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”.
(Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân)
“Xuân” trong câu thơ chữ Hán của Bác là mùa xuân, là tuổi trẻ, là vẻ đẹp
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
xinh tươi. Nó còn gợi tả mùa xuân, của sông nước, đất trời vào xuân. Nó thể
hiện vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của đất nước ta: trong lửa đạn vẫn dạt dào
một sức sống trẻ trung, tiềm tàng. Ngoài giá trị miêu tả cảnh đẹp đêm
nguyên tiêu, vần thơ còn biểu hiện tinh tế cảm xúc tự hào, niềm vui sướng
mênh mông của một hồn thơ đang rung động giữa một đêm xuân đẹp, một
đêm xuân lịch sử, đất nước đang anh dũng kháng chiến.
Với Bác Hồ, yêu vẻ đẹp đêm nguyên tiêu, yêu thiên nhiên cũng là yêu đời
tha thiết. Bác yêu thiên nhiên nên sông, núi, cỏ cây, hoa lá, tạo vật trong thơ
Bác rất hữu tình. Có “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”. Có “Trăng vào cửa
sổ đòi thơ” trong niềm vui thắng trận. Bác yêu hoa núi, chim rừng Việt Bắc:
“Xem sách, chim rừng vào cửa đậu – Phê văn hoá núi ghé nghiên soi”; yêu
ngọn núi, chim rừng báo mùa thu chợt đến… Thiên nhiên trong thơ Hồ chí
Minh là một trong những yếu tố tạo nên sắc điệu trữ tình và màu sắc cổ điển.
Hai câu thơ cuối nói về dòng sông, khói sóng và con thuyền trăng:
“Yêu ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền”.
Ánh trăng ngày trước (1942-1943) chiếu vào ngục lạnh nơi đất khách quê
người, thì đêm nguyên tiêu này là (1948), trăng lại soi xuống con thuyền
trong đó Bác đang “đàm quân sự” (bàn bạc việc quân). Trăng nguyên tiêu là
trăng ước hẹn, báo trước những mùa trăng trong năm, được nhân dân đón
đợi với bao hy vọng, bao tình cảm nồng hậu. Lại nữa, trường hợp thưởng
trăng không phải là trường hợp bình thường diễn ra trên sân nhà, ngõ xóm,

hay “đăng lâu vọng nguyệt”, … mà là thưởng trăng trên khói sóng, nơi “yên
ba thâm xứ” – cõi sâu kín, bí mật trên dòng sông, giữa núi rừng chiến khu
bao la! Người đang thưởng trăng nguyên tiêu không chỉ mang cốt cách như
các tao nhân mặc khách ngày xưa, mà còn là con người hành động, người
chiến sĩ đánh giặc, vị lãnh tụ đang “bàn bạc việc quân” để lãnh đạo nhân dân
kháng chiến, bảo vệ non sông đất nước. Quả thật, đây là một trường hợp
thưởng trăng rất đặc biệt: “Yên ba thâm xứ đàm quân sự”. “Yên ba” là khói
sóng, một thi liệu cổ được Bác vận dụng rất sáng tạo làm hco bài thơ
“Nguyên tiêu” mang phong vị Đường thi. Ba chữ đàm quân sự” đã khu biệt
thơ Bác với thơ của người xưa, làm cho vần thơ mang màu sắc hiện đại và
không khí lịch sử của thời đại.
Sau những canh dài bàn bạc việc quân căng thẳng nơi khói sóng sâu kín, trời
đã về khuya. Nửa đêm (dạ bán), Bác trở về bến, tâm hồn sảng khoái vô
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
cùng. Con thuyền của vị thống soái, con thuyền kháng chiến trở thành con
thuyền trăng của thi nhân nhẹ bơi trên sông nước mênh mông, chở đầy ánh
trăng vàng:
“Dạ bán quy lai, nguyệt mãn thuyền”.
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền).
“Nguyệt mãn thuyền” là một hình ảnh rất đẹp và trữ tình, nó làm ta nhớ đến
nhưng vần thơ hoa lệ:
“Bạn chơi năm ngoái nào đâu tá?
Trăng nước như xưa chín với mười”.
(Triệu Hỗ - Đường thi)
“Thuyền mấy là đông, tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông…”
(Bạch Cư Dị)
“Nước biếc non xanh thuyền gối bãi,
Đêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu”
(Nguyễn Trãi)

.v.v….
Trở lại bài thơ Hồ Chí Minh, ta thấy con thuyền đang trôi nhẹ trên sông, ẩn
hiện trong màn khói sóng, mang theo bao ánh trăng, hiện lên một thủ lĩnh
quân sự giàu hồn thơ đang lãnh đạo quân dân ta kháng chiến để giành lại độc
lập, tự do, để giữ mãi những đêm nguyên tiêu trăng đầy trời của đất nước
quê hương thanh bình. Hình ảnh con thuyền trăng trong bài thơ này cho thấy
tâm hồn Bác giàu tình yêu thiên nhiên, trong kháng chiến gian khổ vẫn lạc
quan yêu đời.
Qua bài thơ “Nguyên tiêu”, ta có thể nói, trăng nước trong thơ Bác rất đẹp.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Chính vầng trăng ấy đã thể hiện phong thái ung dung, tâm hồn thanh cao của
vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc mang cốt cách nghệ sĩ, nhà hiền triết phương
Đông.
“Nguyên tiêu” được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, man mác phong vị
Đường thi. Bài thơ có đầy đủ những yếu tố của bài thơ cổ: một con thuyền,
một vầng trăng, có sông xuân, nước xuân, trời xuân, có khói sóng. Điệu thơ
thanh nhẹ. Không gian bao la, yên tĩnh… Chỉ khác một điều, ở giữa khung
cảnh thiên nhiên hữu tình ây, nhà thơ không có rượu và hoa để thưởng trăng,
không đàm đạo thi phú từ chương, mà chỉ “đàm quân sự”. Bài thơ như một
đoá hoa xuân đẹp trong vườn hoa dân tộc, là tinh hoa kết tụ từ tâm hồn, trí
tuệ, đạo đức của Hồ Chí Minh.
Văn tức là người. Thơ là tấm lòng, là tiếng lòng cộng hưởng từ một người
đến với muôn người. Thơ Bác Hồ tuy nói đến “trăng, hoa, tuyết, nguyệt…”
nhưng đã phản ánh tâm tư, tình cảm, lẽ sống cao đẹp của Bác. Bác yêu nước,
thương dân tha thiết nên Bác càng yêu đêm nguyên tiêu với vầng trăng xuân
thơ mộng. Trong kháng chiến gian khổ, Bác đã hướng tới vầng trăng rằm
tháng giêng, hướng tới bầu trời xuân với tâm hồn trong sáng và phong thái
ung dung. Cuộc đời không thể thiếu vầng trăng. Biết yêu trăng cũng là biết
sống đẹp.
“Nguyên tiêu” là một bài thơ trăng tuyệt tác của nhà thơ Hồ Chí Minh. Con

thuyền chở đầy ánh trăng cũng là con thuyền kháng chiến đang hướng tới
chiến công và niềm vui thắng trận
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Cảm nghĩ về người mẹ của em (bài hay)
“Những ngôi sao thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ đang thức vì chúng con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời”
Cứ mỗi lần nghe những câu thơ này của nhà thơ Trần Quốc Minh vang lên,
thì em lại chọt nghĩ đến người mẹ thân yêu của em. Em cảm thấy thật bất
hạnh cho những ai không có mẹ, bởi vì mẹ là người dành trọn mọi sự thương
yêu chăm sóc cho chúng ta. Và mẹ em chính là nguời như vậy đó.
Mẹ năm nay đã gần bốn mươi tuổi nhưng ai cũng nói mẹ già hơn so với tuổi,
có lẽ vì gánh nặng cuộc đời chăng? Công việc của mẹ rất giản dị đó chính là
làm ruộng. Sở thích của mẹ rất khác với mọi người, đó chính là làm việc.
Mẹ có dáng người dong dỏng cao, nước da ngăm đen đã bị rám nắng, mái
tóc của mẹ dài ngang lưng đã bị cháy nắng ngoài đồng ruộng, nắng chói để
đem lại cho em một cuộc sống ấm no. Khi đi làm mẹ thường búi tóc lên, để
lộ ra mấy cộng tóc xoăn trông thật duyên dáng. Đi với mái tóc ấy chính là
khuôn mặt hình trái xoan của mẹ. Vầng trán của mẹ cao rộng, có lúc nheo lại
lộ vẻ suy tư. Năm tháng, thời gian đã hằn lên khuôn mặt mẹ những nếp nhăn
nho nhỏ.
Nhưng thời gian cũng không thể xóa nhòa được nét dịu hiền, phúc hậu trên
khuôn mặt ấy. Đôi mắt mẹ đen láy thấm đượm sự bao dung, trìu mến. Người
ta thường nói “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” quả là không sai. Nhìn vào
đôi mắt mẹ, em có thể đoán được những suy nghĩ trong mẹ. Những lúc em
làm được việc tốt đôi mắt ấy hạnh phúc như cười. Và cũng từng đỏ hoe khi
mỗi lần em làm điều sai trái. Nhìn vào đôi mắt mẹ, em tự trách mình vì đã
làm mẹ buồn. Cùng với đôi mắt mẹ là cặp lông mi dài và đôi chân mày lá
liễu dày. Mũi mẹ cao cao, cái miệng nho nhỏ, khi cười để lộ hàm răng trắng,

đều như hạt bắp.
“Bàn tay ta làm nên tất cả
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
Đúng vậy! nhờ có bàn tay đầy nghị lực của mẹ đã nuôi em khôn lốn đến
chừng này. Bàn tay ấy đã bị bao sậm, hằn những vết nứt nẻ. Bao nhiêu vết là
bấy nhiêu vất vả gian lao của mẹ. Đôi bàn chân cũng vậy, nó cũng đã bị nứt
nẻ. Những khi trời trở lạnh, đôi bàn chân ấy lại đau, nhức khiến mẹ phải
ngâm vào nước muối. Đôi vai mẹ gầy gộc đã trở bao nhiêu là mưa nắng.
Nhìn tất cả những thứ ấy em cảm thấy yêu mẹ thật nhiều, thật nhiều.
Nhìn bàn tay mẹ chăm sóc từng đám lúa, luống rau, em cảm thấy mẹ yêu
cây cỏ đến chừng nào. Mẹ là một người mà không thể thiếu trong gia đình.
Hằng ngày, mẹ như một cô tấm với những công việc như nấu ăn, giặt giũ,
dọn nhà thật nhanh nhẹn, gọn gàng. Dù nhà cửa có bề bộn đến mấy, mà
nếu được bàn tay siêng năng của mẹ thì sẽ trở nên gọn gàng. Vì lo cho cuộc
sống của gia đình mà mẹ chẳng bao giờ rảnh rỗi cả, hết việc nhà rồi lại làm
ruộng.
Mẹ là một người luôn dành trọn mọi sự yêu thương và lo toan cho em. Lúc
em làm điều gì sai trái, mẹ không la mắng gì đâu mà mẹ dạy em những điều
hay lẽ phải, khiến em luôn ghi nhớ trong lòng. Tuy mẹ bận rộn lắm nhưng
mẹ vẫn luôn quan tâm tới công việc học hành của em. Lúc em đau ốm, mẹ là
bàn tay ấm áp, che chở cho em vượt qua.
Đối với mọi người trong làng xóm, mẹ rất hòa nhã, cởi mở với họ nên ai
cũng quý mến mẹ. Trong công việc, mẹ rất nhiệt tình nên mỗi lần đi dặm
hay gặt lúa thì ai cũng kêu mẹ đi.
Thế đấy! Người mẹ thân yêu của em là như vậy đó, mẹ là một người rất yêu
thương đứa con của mình. Em yêu mẹ lắm! Yêu mẹ rất nhiều. Em tự nhủ
rằng sẽ cố gắng học tập thật giỏi để trở thành con ngoan, trò giỏi, cháu
ngoan Bác Hồ, mai sau đền đáp công ơn to lớn của mẹ đã bao năm chăm lo
cho em từ miếng ăn đến giấc ngủ.

“Mẹ như biển cả mênh mông
Con luôn ghi nhớ công ơn của người”.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Cảm nghĩ về bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh
Nhắc đến Xuân Quỳnh, người ta thường nghĩ tới những vần thơ nhẹ nhàng,
sâu lắng của một trái tim phụ nữ đa cảm. Không da diết, khắc khoải như
những sáng tác về tình yêu, trong giây phút hướng về tình cảm gia đình gần
gũi, như tình mẹ con, tình bà cháu,… tiếng thơ Xuân Quỳnh thường cất lên
với giọng trong trẻo nhưng vẫn thể hiện nét đẹp tâm hồn của một phụ nữ
giàu yêu thương. Tiếng gà trưa là một bài thơ như vậy.
"Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục… cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ"
Bài thơ là phút lắng lòng của người chiến sĩ trên chặng đường hành quân
mệt mỏi. Lúc dừng chân bên thôn xóm yên bình, vẳng nghe tiếng gà nhảy ổ
quen thuộc của làng quê, người chiến sĩ để lòng mình cuốn vào âm thanh ấy
và trải ra mênh mông theo sức lan tỏa của nó. Mỗi lần động từ nghe được
lặp lại, trường lan tỏa của âm thanh tiếng gà mỗi lúc một rõ nét nhưng đó
không phải là sự mở ra theo chiều rộng không gian mà là sự chuyển động
theo chiều sâu của cảm xúc. Đầu tiên là sự thay đổi của ngoại cảnh: Nghe
xao động nắng trưa, sau đó là sự xâm lấn vào cảm giác: Nghe bàn chân đỡ
mỏi và cuối cùng là sự thấm sâu trong tâm hồn: Nghe gọi về tuổi thơ. Điệp
từ nghe cùng biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã diễn tả tinh tế diễn
biến cảm xúc ấy trong tâm hồn người chiến sĩ. Tiếng gà mở đầu bài thơ là
một âm thanh của thực tại, vẳng đến từ nơi nào đó trong xóm nhỏ. Nhưng
đến cuối khổ, nó đã trở thành âm thanh vọng về từ kí ức, khi người chiến sĩ

chìm trong giây phút trầm lắng để thả hồn miên man theo tiếng gọi tuổi thơ.
Theo dòng hồi tưởng ấy, những kỉ niệm ùa về, sống động như đang hiện ra
trước mắt. Điệp ngữ tiếng gà trưa mở đầu các đoạn thơ sau, lặp đi lặp lại bốn
lần như một điệp khúc, điểm nhịp cho dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Mỗi lần lặp lại, nó mở ra một ô cửa lung linh làm sáng bừng lên cả khung
trời kỉ niệm:
Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng
Nhân vật trữ tình đã ngược dòng thời gian để trải nghiệm lại những cảm xúc
trẻ thơ trong sáng. Đó là niềm thích thú khi nâng niu ổ trứng hồng ấm áp, là
niềm vui say khi ngắm nhìn không chán mắt màu hoa, màu nắng trên mình
mỗi chú gà. Từ hình ảnh đàn gà và ổ trứng, người bà xuất hiện trong sự kết
nối tự nhiên của mạch cảm xúc. Đây chính là tâm điểm hội tụ mọi kí ức về
những năm tháng tuổi thơ của người cháu.
Có giọng bà vang vọng:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
- Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng
Có bóng dáng thân thuộc của bà:
Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu

Cho con gà mái ấp
Tất cả đều hiện lên trong niềm xúc động của người cháu khi được sống lại
trong tình yêu thương và sự chăm chút của bà. Tiếng bà mắng, bàn tay bà
khum khum soi trứng, những mảnh kí ức ấy đã thức dậy trong lòng người
cháu cả một tuổi thơ sống trong sự tần tảo, chắt chiu, hi sinh quên mình của
bà:
Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông đến
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới"
Sự kéo dài của chuỗi thời gian “cứ hàng năm hàng năm” cũng là sự lặp lại
của bao nỗi lo âu, mong mỏi đã dệt nên đời bà. Bà đổi những lo âu, mong
mỏi và chắt chiu ấy chỉ để lấy nụ cười được bộ quần áo mới của đứa cháu
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
thơ. Đó là món quà gói trọn tình cảm yêu thương và hi sinh của bà nên ấm
áp và thiêng liêng vô cùng.
"Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh trúc bâu
Đi qua nghe sột soạt"
Những câu thơ giản dị mà dồn nén bao cảm xúc. Đó không chỉ là niềm vui
trong quá khứ của đứa cháu nhỏ được quà mà còn là niềm xúc động rưng
rưng trong hiện tại của người chiến sĩ khi thấm thía tình cảm của người bà
thân thương.
Tiếng gà, ổ trứng và niềm hạnh phúc mà bà mang lại đã trở thành suối
nguồn yêu thương nuôi dưỡng và ghi dấu trong tâm hồn người cháu:
"Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng"
Từ những giấc ngủ bình yên và ấm áp niềm hạnh phúc trẻ thơ như thế, hình
ảnh bà và những kỉ niệm tuổi thơ gắn với tiếng gà đã đi sâu vào tâm thức và
trở thành một phần thiêng liêng trong lòng người cháu. Đó chính là một
động lực mạnh mẽ để người chiến sĩ hôm nay quyết tâm chắc tay súng. Khổ
cuối, mạch cảm xúc quay trở lại hiện tại một cách tự nhiên bởi chính mối
liên hệ sâu sắc ấy:
"Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ."
Giọng thơ vẫn nhẹ nhàng nhưng mỗi lần điệp từ vì được lặp lại, dường như
cảm xúc lại lắng sâu thêm để tìm về với ngọn nguồn gần gũi và thiêng liêng
nhất. Những yếu tố tạo nên động lực của lòng quyết tâm chiến đấu ở người
cháu qua từng dòng thơ mỗi lúc một thu hẹp lại về phạm vi: Tổ quốc - xóm
làng - người bà - tiếng gà, ổ trứng đã nói lên một quy luật tình cảm vô cùng
giản dị: tình cảm gia đình làm sâu sắc thêm tình yêu quê hương, đất nước và
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
sự thống nhất giữa hai tình cảm cao đẹp này là cội nguồn sức mạnh tinh thần
của mỗi người lính. Lòng yêu nước cũng không phải là cái gì xa xôi, lớn lao
hay trừu tượng. Đó có thể chỉ là yêu một bếp lửa ấp iu như Bằng Việt; yêu
một tiếng gà cục tác, một ổ rơm trứng hồng như Xuân Quỳnh hay yêu cái
cây trồng trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông như I-li-a Ê-ren-bua
chẳng hạn. Nên ở một góc độ nào đó, sự thu hẹp phạm vi ở khổ thơ cuối là
cách thức cụ thể hóa lòng yêu nước, làm nổi bật chân lí giản dị: Lòng yêu
nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc. Bài thơ được
mở đầu bằng tiếng gà trưa và kết thúc lại trở về với tiếng gà. Nhưng đó

không đơn thuần là tiếng gà gọi về tuổi thơ nữa, mà là tiếng gà gọi dậy trong
lòng người chiến sĩ bản chất của lòng yêu nước, cái lí do cao cả mà rất đỗi
cụ thể, hối thúc bàn chân băng rừng lội suối đấu tranh vì độc lập, thống nhất
nước nhà.
Bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo: thể thơ năm tiếng kết hợp biểu cảm
với tự sự, miêu tả; thỉnh thoảng, trong mỗi tiết đoạn liên tưởng được gợi ra
từ tiếng gà, lại được ngưng nghỉ, phân định bởi một lời thơ ba tiếng (lời thơ:
Tiếng gà trưa) như đánh dấu một nấc cảm xúc, bài thơ đã diễn đạt một cách
tự nhiên những tình cảm bình dị mà thiêng liêng, sâu sắc của người chiến sĩ
trẻ trên bước đường hành quân. Chất liệu dân gian thô mộc, cách lựa chọn tứ
thơ thông minh, chất trữ tình vừa bồng bột, nhí nhảnh vừa sâu lắng, đằm
thắm là đặc trưng của thơ Xuân Quỳnh trong giai đoạn này, cũng là một
điểm chung của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ.
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
Cảm nhận của em về bài thơ Qua đèo ngang (bài hay)
Trong thơ ca Việt Nam có hai nữ sĩ đã ghi lại tên tuổi vào dòng văn học
trung đại, đó là Hồ Xuân Hương và Bà Huyện Thanh Quan. Nếu nói thơ của
Hồ Xuân Hương sắc sảo, góc cạnh thì thơ của Bà Huyện Thanh Quan lại
mang sự trầm lắng, sâu kín, hoài cảm, gửi gắm nỗi niềm vào lời thơ. Phong
cách đó của bà đã làm ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm bà dành cho quê
hương qua bài thơ “Qua Đèo Ngang”.
“Bước đến Đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát, giọng thơ nhẹ, trầm lặng mang nét

buồn sâu lắng. Nữ sĩ tài danh lần đầu xa nhà, đặt chân đến Đèo Ngang vào
một buổi xế chiều, không gian khiến ai nghe cũng cảm giác buồn, gợi nỗi
niềm riêng
“Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà”
Ngay từ đầu, cảnh vật ở Đèo Ngang đã hiện lên dưới ánh nắng chiều sắp tắt,
thật hữu tình nhưng vẫn hoang vu, hiu vắng. Đó là khung hiện ra trong con
mắt của người xa sứ mang theo vẻ buồn mênh mang. Khoảng khắc “xế tà”
xuất hiện như để bộc lộ tâm trạng buồn của một lữ khách cô đơn trước
không gian rộng mà heo hút, hoang sơ của Đèo Ngang
“Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”
Điệp từ “chen” của tác giả làm cho cây cỏ lá hoa có sức sống mạnh liệt
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
nhưng nơi đây còn hoang sơ, ít dấu chân người. Câu thơ cho em cảm xúc
bâng khuâng, niềm mong ước đặt chân đến miền đất xa sôi này. Nơi đã khơi
gợi niềm cảm xúc nhớ nhà của nữ sĩ. Khung cảnh ấy bất giác gieo vào lòng
người đọc một ấn tượng trống vắng, lạnh lẽo cả không gian lẫn thời gian.
Một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng lại đượm buồn. Người phụ nữ sang
trọng, đài cát, ăn mặc theo lối xưa đang hướng đôi mắt buồn nhìn cảnh Đèo
Ngang trong buổi chiều tà lặng êm. Và khi bước chân lên đỉnh đèo, khung
cảnh đã được mở rộng thêm
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà”
Giữa không gian mênh mông, trống trải của Đèo Ngang không phải là không
tồn tại sự sống, vẫn có người, có chợ nhưng lại quá thưa thớt. Từ láy “lom
khom, lác đác” cùng từ “vài, mấy” gợi vẻ ít ỏi, thưa thớt, cuộc sống ở đây
hẳn còn khó khăn, vất vả. Sự tồn tại đó không làm cho không gian trở nên
ấm cúng mà trái lại càng tăng thêm vẻ tàn tạ, hiu hắt của cảnh vật mà thôi!
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặc sắc nhất là phép đối làm đậm vẻ
bâng khuâng, dào dạt trong lòng nhà thơ. Là người phụ nữ đoan trang ở
chốn phố phường đông đúc mà giờ lại chứng kiến cảnh tượng trái ngược với

khung cảnh hàng ngày được thấy nên cái buồn của cảnh đã bộc lộ cái buồn
kết đọng trong lòng bà. Tất cả như hòa quyện cùng với tâm hồn của nhà thơ
– một tâm hồn cô đơn, trống vắng vì nỗi nhớ nhà, nhớ quê. Đến đây, em cảm
nhận được một vẻ đẹp hoang sơ, heo hút buồn của Đèo Ngang qua con mắt
của nhà thơ. Nữ sĩ đã thành công trong việc mượn cảnh tả tình, bày tỏ nỗi
niềm hoài cổ, man mác buồn của mình. Cảnh buồn, người buồn, thậm chí cả
những âm thanh vang vọng trong chiều tà cũng làm tăng thêm nỗi buồn da
diết trong lòng kẻ xa quê
“Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia”
Tác giả khéo léo dùng phép chơi chữ “quốc – nước” “gia – nhà”. Âm thanh
khắc khoải, da diết của tiếng chim kêu não nuột, nghẹn ngào hay tiếng lòng
của nữ sĩ? Cảnh thể hiện kín đáo, nhẹ nhàng mà tha thiết, sâu sắc tình yêu,
nỗi nhớ quê hương, gia đình. Nỗi niềm vời vợi nhớ thương của nhà thơ bất
chợt bùng lên trong giây lát, để rồi lại trở về với cái vẻ hoang vắng vốn có
của đất trời và sự cô đơn đến tuyệt đỉnh của chính nhà thơ làm xúc động
NHỮNG BÀI VĂN HAY LỚP 7
lòng người
“Dừng chân đứng lại trời, non, nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
Cụm từ “dừng chân đứng lại” là nỗi ngập ngừng lưu luyến khi bước qua
“ranh giới hai miền”, là sự đối lập khi đứng giữa đất trời mênh mông, con
người trở nên nhỏ bé. Nỗi buồn của con người như cô đặc lại, không người
chia sẻ, nỗi buồn được chính nhà thơ chịu đựng một mình. Tác giả đã khiến
em nhận ra sự lẻ loi, bé nhỏ, cô đơn của nữ sĩ. Cụm từ “ta với ta” nghe thật
cô đơn biết bao, nó diễn tả bà với chính mình, đó là sự cô đơn đến tộc độ, là
nỗi buồn sâu thẳm. Nó khác hoàn toàn với “ta với ta” đầm ấm, vui tươi trong
“Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến. Đọc bài thơ, em đồng cảm với nỗi
buồn sâu sắc của tác giả và nhận thấy một điểm đáng trân trọng trong tâm
hồn người nữ sĩ tài danh, đó là tình yêu sâu nặng bà dành cho quê hương, đất

nước. Bằng cách sử dụng nhiều nghệ thuật, bà Huyện Thanh Quan đã miêu
tả cảnh đẹp hoang sơ của đèo Ngang thưở trước, đồng thời thể hiện nỗi cô
đơn, nhớ nước thương nhà da diết của chính mình mà có lẽ chỉ có những
người xa quê mới cảm nhận hết được. Đây là bài thơ đậm chất trữ tình, được
đánh giá cao và thanh công nhất của Bà Huyện Thanh Quan.
Đây là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, là tác phẩm hay trong dòng thơ trung
đại Việt Nam. Em yêu thích ngòi bút ngôn ngữ rất nực trang nhã của bà
Huyện Thanh Quan. Bài thơ đọng lại trong ta bao cảm xúc buồn mà đáng
nhớ. Nó xứng đáng được người đời ghi nhớ và hoài lưu đến tận sau này

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×