Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tài liệu ôn thi đại học môn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.01 KB, 25 trang )

Ngày soạn: 08/6/2014 Ngày giảng: …………….2014
ÔN THI ĐẠI HỌC
LUYỆN ĐỀ:
Tp: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
Nguyễn Minh Châu
ĐẾ 1: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng chiếc thuyền qua
truyện "Chiếc thuyền ngoài xa" của NMC.
Nếu bạn Luyện thi Đại học hãy đọc Tài liệu này rồi gọi cho chúng tôi để
nhận đủ bộ Giáo án Luyện thi. Liên hệ: 01676540298.
I. MỞ BÀI
Đây là một hình tượng xuất hiện nhiều lần xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm,
góp phần thay đổi những nhận thức của nghệ sĩ Phùng về cuộc đời và nghệ thuật. Có
thể nói đây là một hình tượng đa nghĩa, một sáng tạo độc đáo của NMC.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát về t/g, t/phẩm, h/a chiếc thuyền
2. Cảm nhận về h/ảnh chth
Xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm, hình tượng chiếc thuyền ngoài xa vừa
mang ý nghĩa tả thực vừa giàu sức gợi, mang ý ngh biểu tượng sâu sắc.
Trc hết đó là một chiếc thuyền có thật trong cuộc đời - không gian sinh sống của
người đàn bà hàng chài, ở đó ngoài vợ chồng họ còn có một đàn con trên dưới chục
đứa. Trong văn học, hình aảnh chiếc thuyền vốn gợi ý nghĩa về kiếp sống lênh đênh,
trôi nổi, vô định. Tuy nhiên, trong tác phẩm này, h/a ấy không chỉ mang ý ngh đó.
Theo mạch diễn biến của cốt truyện, xuất hiện lần đầu tiên trên biển sớm mờ sương,
con thuyền hiện ra từ một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp:“Mũi thuyền in một nét
mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh
mặt trời chiếu vào”;“Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng
trên chiếc mui khum khum (…)toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều
1
hài hoà và đẹp”, “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Trg khung cảnh ấy, h/a
con th mang vẻ đẹp của một "cảnh đắt trời cho". Vẻ đẹp đó là sự hài hoà giữa thiên
nhiên và con người, vừa bình dị vừa thân quen nhg cũng thật nên thơ, lãng mạn. H/a


con thuyền ở đây chính là biểu tượng cho vẻ đẹp, một vẻ đẹp của sự tĩnh tại, bình
yên, vẻ đẹp toàn bích của thiên nhiên và của cả cuộc sống. Để có được bức tranh
tuyệt đẹp nghệ sĩ Phùng đã phải phục kích gần cả tuần lễ vì vậy khi bất ngờ gặp gỡ
khoảnh khắc này, anh đã vô cùng xúc động, trái tim trở nên "bối rối" tưởng như có
cái gì bóp thắt vào. Thậm chí, anh còn tưởng như mình vừa khám phá thấy từ vẻ đẹp
của con thuyền là sự toàn thiện, toàn mĩ của cuộc sống, sự trong ngần của chính tâm
hồn mình. Như vậy, từ h/a con thuyền ta nhận ra tâm hồn nghệ sĩ say mê cái đẹp của
Phùng cũng là của chính NMC. Và để từ đó ta nhận ra thông điệp mà nhà văn muốn
gửi đến người đọc: thông điệp về xứ mệnh thiêng liêng của người nghệ sĩ chân chính:
"Người nghệ sĩ chân chính là người biết khám phá, phát hiện và nâng niu trân trọng
những vẻ đẹp nên thơ bình dị để rồi bất tử hoá những vẻ đẹp ấy cho cuộc đời này.
Nghệ thuật chân chính phải có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người, cứu vớt thế
giới".
Khi con th trên bãi biển đâm thẳng vào bờ, trước mặt Phùng, nghĩa là kốảng
cách giữa nó với Phùng được thu hẹp lại, Phùng phát hiện ra sự thật ẩn đằng sau bức
tranh đẹp như mơ kia: bước lên bờ là một người đàn ông thô bạo dữ dằn, thẳng tay
đánh vợ, một người vợ cam chịu, nhẫn nhục trước trận đòn dã man của chồng, một
đứa con vì muốn bảo vệ mẹ nên đã đánh lại bố, một người mẹ thương con muốn bảo
vệ con nhưng bất lực. Nếu ở phát hiện thứ nhất con thuyền là hiện thân của một
thiên nhiên tuyệt đẹp, là biểu tượng cho sự thi vị, lãng mạn của cuộc đời thì ở lần
xuất hiện thứ 2 này con thuyền đã hiện lên với lớp ý ngh ban đầu của nó là không
gian sinh sống, là tổ ấm của gia đình hàng chài, chỉ có điều đó la một gia đình nhiều
bi kịch, một tổ ấm thiếu sự hoà hợp, yêu thương. Nếu khi ở xa con thuyền tuyệt đẹp
thì khi lại gần con thuyền phơi bày một hiện thực tàn khốc, phũ phàng. Thì ra, cái
đẹp không phải là đạo đức như Phùng đã nghĩ mà ở đây cái đẹp chứa đựng trong nó
những số phận bất hạnh, những bi kịch ngang trái bất công. Sự đối lập giữa 2 mặt
cùng tồn tại trong một chiếc thuyền chính là sự đối lập giữa vẻ bên ngoài và nội dung
bên trong, giữa hiện tượng và bản chất. Từ sự đối lập ấy NMC muốn nói: cuộc sống
2
vốn phong phú, phức tạp ẩn chứa nhiều nghịch lí. Người nghệ sĩ phải có cái nhìn đa

diện, nhiều chiều, không được chạy theo cái lãng mạn nên thơ mà quên đi cái hiện
thực với biết bao xót xa, đau đớn, không được chạy theo nghệ thuật mà quên lãng
cuộc đời.
Theo mạch diễn biến của cốt truyện con thuyền xuất hiện lần thứ 3 trg dông bão.
Khi "từng tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu
gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như nhg ngọn núi tuyết
trắng" Trong phá, nhg tàu thuyền khác đều tìm vào bờ, chỉ duy nhất chiếc thuyền
vó bè là vẫn ở lại, một mình chống chọi với dông bão. Sự đơn độc ấy cho thấy con
thuyền vó bè thật kiên cường nhg cũng thật nho nhoi, đơn độc. Trong cuộc chiến đấu
khốc liệt mà chắc chắn nó thường xuyên phải chống chọi ấy dường như chỉ cần được
tồn tại, được sống đã là hp. Cuộc chiến đấu của con thuyền đơn độc ấy phải chăng
cũng chính là cuộc chiến đấu của gia đình người đàn bà hàng chài? Chỉ có điều con
thuyền chỉ phải chống chọi với dông bão đến từ bên ngoài còn gia đình người đàn bà
bất hạnh ấy, ngoài việc phải chống chọi với thứ dông bão do thnh khắc nghiệt gây ra
còn phải đương đầu với một thứ dông bão khác, nghiệt ngã bội phần, đó là thứ dông
bão nổi lên trg lòng thuyền, từ chính cuộc sống của họ. H/a con thuyền ở đây vì vậy
gợi liên tưởng suy ngẫm đến hiện thực đói nghèo, ẩn chứa nhiều bất trắc, bi kịch
trong số phận con người thời hậu chiến. Nói cách khác, nó thể hiện những dự cảm,
những nỗi lo của nhà văn về số phận con người, những số phận lênh đênh, nổi trôi
vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chống xâm lược tàn khốc đã phải đối mặt ngay với
dốt nát đói nghèo. Trong cuộc chiến ấy, những số phận ấy hoàn toàn đơn độc, liệu họ
có vượt qua, có chiến thắng?
Lần thứ 4, chiếc thuyền xuất hiện qua tấm ảnh và trong cảm nhận của người
nghệ sĩ. Câu chuyện kết thúc bằng cảm nhận của nghệ sĩ Phùng về tấm ảnh được
chọn trong bộ lịch năm ấy. Tấm ảnh đã vượt qua số phận ngắn ngủi của một tấm ảnh
lịch tết để sống cuộc đời của một tác phẩm nghệ thuật. Trong tấm ảnh ấy chiếc
thuyền là biểu tượng cho nghệ thuật, cho cái đẹp mà con người, cuộc sống luôn
khao khát vươn tới. Con thuyền ở đây đồng thời cũng chính là thành quả lao động,
thành quả xứng đáng cho những nỗ lực phấn đấu, hy sinh của người nghệ sĩ trong lao
động sáng tạo của mình. Tuy vậy, điều đặc biệt trong tấm ảnh này còn ở chỗ, mỗi

3
lần nhìn kĩ, nhìn lâu vào tấm ảnh đen trắng chụp ảnh tĩnh vật ấy Phùng đều thấy màu
hồng hồng của ánh sương mai, lại thấy hình ảnh người đàn bà bước ra, lưng áo bạc
phếch, lam lũ cực nhọc "bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hoà
lẫn trong đám đông"… Cảm nhận này của Phùng khẳng định, hiện thực cuộc đời một
khi đã chạm được đến nơi sâu nhất trong trái tim của người nghệ sĩ sẽ không chịu ở
yên dù chỉ là trong một tấm ảnh. Giống như trươc đây Phùng đã từng cầm súng để
bảo vệ mảnh đất này, bây giờ Phùng vẫn đang tiếp tục chiến đấu bảo vệ cho lẽ công
bằng, cho sự bình yên của tâm hồn, của cuộc sống.
Hiện thực cuộc đời làm cho trái tim người nghệ sĩ rung động, nó trở thành sự
ám ảnh, day dứt, dằn vặt để đi tìm câu trả lời. H/a con thuyền và h/a người đàn bà
hàng chài trong tấm ảnh bởi vậy chính là sự hoà hợp, gắn bó mật thiết với nhau: giữa
thnh và cuộc sống, giữa nghệ thuật và cuộc đời, giữa vẻ bề ngoài và bản chất bên
trong. Sự hài hoà ấy là biểu tượng của chân lí: bộc lộ sự vỡ lẽ về nhận thức của người
nghệ sĩ trong hành trình khám phá stạo để đi tìm "nhg hạt ngọc còn ẩn dấu bên trong
tâm hồn con người". Như vậy, có thể nói, h/a của con thuyền ở đây chính là hiện thân
của bức thông điệp tinh thần mà NMC muốn gửi tới người đọc: phải nhìn nhận sự sự
việc, con người, cđ…trg sự thống nhất của cả 2 mặt hình thức và nội dung, hiện
tượng và bản chất, tốt và xấu, thiện và ác, cao cả và thấp hèn… Với một người nghsĩ
muốn làm được điều đó trước hết cần có một cự li nhìn ngắm phù hợp, trải qua một
hành trình tìm kiếm mới có thể khám phá ra vẻ đẹp còn ẩn giấu trong cuộc đời này.
Phải biết cách hành động để làm cuộc đời đẹp hơn, trước khi biết phát hiện và ca
ngợi cái đẹp. Nói cách kh, trc khi là một nghsĩ chân chính hãy là một con người
chchính.
* Đánh giá: (tự tìm hiểu)
III. KẾT BÀI
Nếu bạn Luyện thi Đại học hãy đọc Tài liệu này rồi gọi cho chúng tôi để
nhận đủ bộ Giáo án Luyện thi. Liên hệ: 01676540298.
4
ĐỀ2: Tình huống truyện trong tp "CTNX" của NMC.

I. Giới thiệu chung
1. Nhà văn NMC
Nói về NMC nhvăn Nguyên Ngọc viết: "NMC thuộc trong số nhg nhvăn mở
đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay". Sự tinh anh và tài năng ấy
của NMC thể hiện rõ qua qtrình đổi mới trg tư duy stác của chính nhv.
Trong VHVN trc 1975, do hoàn cảnh chtranh nên thước đo giá trị của con ng là
ở sự cống hiến, hi sinh cho c/m. Các tiêu ch đạo đức đc thể hiện chủ yếu ở trg mqh
giữa đồng bào, đồng chí và kẻ thù xâm lược. Sau 1975, văn ch trở lại với đời thường,
các cây bút bắt đầu đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức-thế sự để
qua đó phát hiện ra nhg mqh xh phức tạp nhg uẩn khúc tâm lí, nhg bi kịch cá nhân ít
nhiều đáp ứng đc sự nhìn nhận và hoàn thiện nhân cách con người.
Tác phẩm của NMC ở 2 giai đoạn trước và sau 1975 là một sự thể hiện đầy đủ
xuất sắc nhg nét đặc trưng cơ bản ấy. Ở giai đoạn sáng tác sau 1975, "CTNX" chính
là tác phẩm xuất sắc của NMC góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác
giả và tài năng của ông.
2. Giải thích khái niệm
* Tình huống là một sự kiện đặc biệt trong đó chứa đựng một tình thế bất
thường của quan hệ đời sống.
Tình huống trong "CTNX" là tình huống nhận thức
(Có ba loại tình huống phổ biến trong truyện ngắn:
+ Tình huống hành động. Là loại sự kiện đặc biệt mà trong đó nhân vật bị đẩy tới
một tình thế (thường là éo le) chỉ có thể giải quyết bằng hành động.
+ Tình huống tâm trạng. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà ở đó nhân vật rơi
vào một tình thế làm nảy sinh một biến động nào đó trong thế giới tình cảm
+

Tình huống nhận thức. Đó là sự kiện đặc biệt của đời sống mà tại đó nhân vật
được đẩy tới một tình thế bất thường: đối mặt với một bài học nhận thức, bật lên một
vấn đề (về nhân sinh, về nghệ thuật) cần phải vỡ lẽ, giác ngộ.)
5

II. Ptích từng biểu hiện
1. Tên gọi: Tình huống khám phá nhg nghịch lí để đi đến nhận thức
2. Tóm tắt diễn biến của tình huống
Để có đc tấm ảnh chụp thuyền và biển bổ sung vào bộ lịch của năm theo yêu
cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến một vùng ven biển miền Trung, nơi từng là
chiến trường cũ của anh và bây giờ một người bạn chiến đấu của anh cũng đang làm
chánh án ở đó. Thật bất ngờ, tại nơi ấy Phùng đã lần lượt phát hiện, khám phá ra biết
bao nghịch lí, những nghịch lí đã giúp P nhận thức ra nhg điều hết sức quan trọng
trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật.
a. Nghịch lí thứ nhất: tại bờ biển
- Phát hiện thứ nhất:
Sau mấy ngày phục kích nhg chưa tìm được bức ảnh ưng ý và thật bất ngờ vào
buổi sáng hôm ấy P đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho mà suốt đời cầm máy chưa
bao giờ nhìn thấy": trc mặt tôi là “một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời
cổ”;“Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng sữa có
pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào”;“Vài bóng người lớn lẫn trẻ con
ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”.
Tất cả khung cảnh đều được nhìn qua những cái mắt lưới (…)“toàn bộ khung cảnh
từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp”, “một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn
bích”.
Đứng trước bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp đó Phùng “bối rối”, cảm thấy
“trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào” tưởng như vừa “khám phá thấy cái chân
lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn…”, “phát
hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Phùng rất hạnh phúc và đó là niềm
hạnh phúc chân chính của người nghệ sĩ đích thực trong giây phút thăng hoa của lao
động sáng tạo. Ngay lập tức Phùng đã "bấm liên thanh một hồi hết 1/4 cuốn phim".
- Phát hiện thứ hai:
Thế nhưng, ngay khi đang ở trên đỉnh cao của niềm hạnh phúc sáng tạo, cũng là
lúc Phùng phát hiện ra nghịch lí đầu tiên: con thuyền từ từ tiến vào bờ, khoảng cách
giữa nó và Phùng dần thu hẹp lại, khi Phùng có thể nhìn rõ nó cũng là lúc một cảnh

tượng trớ trêu bày ra trc mắt: bước ra từ "chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ" là một
6
người đàn bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và chỉ biết “cam chịu đầy nhẫn nhục”, một
lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, họ cùng bước lên bãi cát đến bên bãi xe tăng
hỏng. Người đàn ông rút dây lưng vừa quật tới tấp vào người đàn bà vừa rên rỉ, chửi
rủa. Người đàn bà không hề chống trả, không bỏ chạy, không kêu khóc, chỉ nhẫn
nhục chịu đựng.
Chứng kiến cảnh ấy P "chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước
mắt: “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”.
Vốn là một người lính, Phùng không thể chấp nhận cảnh tượng ấy, vì vậy, ngay lập
tức anh đã vứt máy ảnh xuống đất định chạy lại để can thiệp. Thế nhưng thật bất ngờ,
còn nhanh hơn cả anh, một thằng bé lao về phía người đàn ông, giật lấy dây lưng và
đánh trả. Nếu chỉ một khoảnh khắc trước đó Phùng còn vô cùng hạnh phúc thì đến
bây giờ Phùng sững sờ chết lặng, không nói được một lời nào. Lần thứ 2 gặp lại cảnh
tượng ấy, kợong thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác, bất chấp nguy hiểm,
Phùng đã xông vào can ngăn và kết quả là bị người đàn ông đánh phải nhập viện.
* Ý nghĩa của nghịch lí thứ nhất: Nghịch lí trong 2 phát hiện này chính là sự đối
lập giữa cảnh đẹp của thnh và cuộc sống của con người, giữa hình thức bên ngoài và
bản chất bên trg, giữa lãng mạn thi vị và thực tế trần trụi. Nhận thức sự đối lập ấy
chính là những chiêm nghiệm đầu tiên của người nghệ sĩ trên hành trình khám phá và
sáng tạo ra cái đẹp. Với sự đối lập ấy đã khiến ta cay đắng nhận ra rằng chính những
ngang trái xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia là một thứ thuốc rửa
quái đản khiến những bức ảnh tuyệt đẹp mà anh phải dày công mới có được và vô
cùng sung sướng khi có được bỗng hiện nguyên hình với bản chất vốn có của mình:
khủng khiếp, kinh rợn! Vẻ đẹp kia hoá ra đâu phải là tận thiện, tận mĩ! Nó chỉ là thứ
vỏ bọc che giấu bản chất tàn nhẫn, đen tối bên trong. Nghịch lí đầu tiên trg qúa trình
khám phá, phát hiện của Phùng giúp ta nhận ra Phùng không chỉ là một nghsĩ có trái
tim nhạy cảm biết rung động trước cái đẹp mà Phùng còn là m chiến sĩ có trái tim
biết xúc động trước những ngang trái bất công và sẵn sàng hành động. Nếu ở phát
hiện thứ nhất ta nhận ra sức mạnh kì diệu của cái đẹp, "cái đẹp có khả năng thanh lọc

con người", "cái đẹp cứu vớt thế giới" thì ở phát hiện thứ 2 ta nhận ra giá trị của cái
xấu trong đời sống: "cái xấu, cái ác thức tỉnh lương tri con người, giúp con người tự
soi ngắm lại mình để nhận ra chân giá trị".
7
b. Nghịch lí số 2: phát hiện tại toà ấn, qua câu chuyện của người đàn bà
Câu chuyện không dừng lại ở đó. Nghịch lí thứ nhất cũng là cơ sở để Phùng
khám phá, phát hiện ra nghịch lí thứ 2 qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài tại
toà án huyện. Một ông chánh án, người đại diện cho lẽ công bằng của cuộc đời, một
ông nghệ sĩ người sáng tạo ra cái đẹp để ngợi ca cuộc đời và một người đàn bà , nạn
nhân cùng cực của cđ đã ngồi lại với nhau trong phòng xử án với tình thương, sự cảm
thông và cả nỗi bất bình của một người đại diện cho luật pháp, lẽ công bằng. Chánh
án Đẩu đã khuyên người đàn bà: "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.
Cả nước kh có một người chống nào như hắn (…). Chị không sống nổi với lão đàn
ông vũ phu ấy đâu!" Trong thâm tâm P cũng đồng ý với cách giải quyết của Đẩu. Thế
nhg, thật bất ngờ, người đàn bà khốn khổ ấy một mực từ chối sự giúp đỡ, kiên quyết
không chịu bỏ ông chồng vũ phu, tàn bạo. Chị từ chối bằng những lí lẽ mà nếu một
nghsĩ chỉ biết vác máy ảnh đi chụp cảnh đẹp, một ông chánh án nếu chỉ biết ngồi
trong phòng ngập giữa đống Hồ sơ, giấy tờ thì sẽ không bao giờ hiểu được. Với
người đàn bà ấy, dù ông chồng ấy có vũ phu, tàn bạo vẫn vô cùng qtrọng.
Nguyên nhân
k thể bỏ chồng:
- chồng: + biết ơn;
+ hiểu đc bản chất của chg
- con: + chỉ cần con đc ăn no;
+ chỉ cần nuôi con
- mình: bằng lòng với csg
Chị không thể bỏ chồng vì bên cạnh sự cảm thông thấu hiểu của tình nghĩa vợ
chồng mà ở chị còn có sự hàm ơn với chồng chị; không thể bỏ chồng vì chị cần
chồng để nuôi đàn con để cùng chèo chống những ngày thuyền gặp sóng gió, khi
biển động; đàn bà hàng chài phải sống vì con chứ không phải vì mình. Chị không thể

bỏ chồng vì trong đau khổ triền miên chị vẫn chắt lọc, nâng niu nhg niềm hạnh phúc
nhỏ nhoi đời thường: "ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chg con cái chtôi sống hoà
thuận, vui vẻ…", "Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đc ăn no". Thì ra
đây là nguồn gốc của sự cam chịu, nhẫn nhục tưởng chừng như vô lí kia. Câu chuyện
của người đàn bà đã khiến đẩu và Phùng vỡ lẽ ra nhiều điều. Ẩn đằng sau ngoại hình
xấu xí, quê mùa, thất học là lấp lánh tấm lòng của người mẹ, người vợ, là sự thấu
hiểu sâu sắc lẽ đời. Nếu ở phần đầu câu chuyện giọng Đẩu thật dứt khoát tỏ rõ uy thế
8
của một đấng bề trên đang cúi xuống cứu vớt những người đàn bà khốn khổ thì khi
nghe xong câu chuyện của người đàn bà cả Đẩu và Phùng đều im lặng nhưng "Một
cái gì vừa vỡ ra trong đầu".
c. Nghịch lí thứ 3
Câu chuyện kết thúc bằng tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, đó là một
tấm ảnh đã vượt qua số phận ngắn ngủi của một tấm ảnh lịch tết để trở thành một tác
phẩm nghệ thuật mà nhiều năm sau này nó vẫn được treo ở nhg phòng khách sang
trọng của những người sành nghệ thuật. Điều kì lạ ở chỗ, đây là một tấm ảnh đen
trắng thế nhưng mỗi lần nhìn kĩ Phùng lại thấy "cái màu hồng hồng của ánh sương
mai". Là một tấm ảnh chụp cảnh tĩnh vật nhg mỗi lần nhìn lâu P lại thấy h/ảnh người
đàn bà hàng chài bước ra.
3.3. Đánh giá về ý nghĩa của tình huống
"Mỗi tp vh là một phát minh về hình thức và là một khám phá về nội dung"
(Lêolit Lêolốp). Tình huống truyện trg "CTNX" k chỉ là một k phá stạo của NMC so
với các nhvăn khác mà còn là m sự stạo ntrong qtrình stác cảu nh văn với PCNT: "đi
tìm nhg hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người". Trc 1975, người đọc đã từng say
mê bởi mối tình l.m tuyệt đẹp giữa Nguyệt và Lãm trng "MTCR". Hành tr đi tìm cái
đẹp của nhvăn trg tp này là htrình đi từ cái thực đến cái ảo để cuối cùng cái đẹp hiên
lên rạng rỡ. Đó là "cái đẹp đc bao bọc trg m bầu k khí vô trùng". Còn trong CTNX,
hành tr đi tìm cái đẹp của người nghsĩ thì ngược lại: từ ảo đến thực, từ một vẻ đẹp
toàn bích đến một hiện thực nghiệt ngã nhg trg hiện th nghiệt ngã ấy một "hạt ngọc"
đã đc tìm thấy, đó là hạt ngọc bắt nguồn từ csg bộn bề- hạt ngọc tâm hồn- hạt ngọc

của lòng bao dung nhân hậu của sức chịu đựng, hi sinh. Qua tình huống truyện trong
CTNX, NMC muốn gửi đến người đọc nhg thông điệp:
(1). Bản chất của cđ và cách nhìn nhận, đánh giá gtrị của cđ: Giống như 2 mặt của
một tờ giấy, 2 cực của thanh Nam châm. Cđ kh hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn chứa
đựng nhg nghịch lí, luôn tồn tại nhg mặt đối lập, hiện tượng- bản chất, tốt-xấu, cao
cả- thấp hèn,…bởi vậy khi đánh giá mọi sự việc, mọi hiện tg, hay con người, xh phải
luôn luôn tỉnh táo, có cái nhìn đa chiều, cân bằng giữa hiện tươg và bản chất.
(2). Thông điệp về mqh giữa nght và cđ. Giống như cánh diều dù bay cao bay xa đến
đâu cũng phải nối liền với mặt đất bằng m sợi dây. Nght chỉ là nght chân chính khi
9
nó xuất phát từ cđ và quay lai phục vụ cđ. Ngh ngsĩ chỉ có thể là người nghsĩ chân
chính khi anh ta là một CON NGƯỜI trước khi là một nghsĩ, nghĩa là phải biết yêu
ghét, vui buồn với nỗi niềm của con người, biết đấu tr cho csg tôt đẹp hơn trc khi biết
rung động trc cái đẹp, ngợi ca cái đẹp.
Nhg thông điệp này vừa thể hiện sự vận động trg tư duy nght của NMC vừ đánh
dấu sự chuyển mình của thời kì văn học mới.
Nếu bạn Luyện thi Đại học hãy đọc Tài liệu này rồi gọi cho chúng tôi để
nhận đủ bộ Giáo án Luyện thi. Liên hệ: 01676540298.
Đề3: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
I. Mở bài
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những sáng tác điển hình của Nguyễn
Minh Châu, được viết sau năm 1980. Truyện đã xây dựng thành công hình tượng
nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, từng
trải với tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả.
II. Thân bài
1. Khái quát
a. HCST:Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của
Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của
nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang

dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải
băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập "Bến quê" (1985), sau được
nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.
b. Giới thiệu chung về nhân vật: Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài
chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong
phát hiện thứ hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu
chuyện cuộc đời chị kể ở toà án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh
ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người
đọc.
10
2. Phân tích đặc điểm chung của hình tượng
2.1. Số phận: khốn khổ, đáng thương, cđ chịu nh bất hạnh.
- Ngoại
hình:
xấu xí
- Cuộc sống:
+ vật chất: khó k, thiếu thốn
+ tinh thần: > thể xác bị đáh
đập
> tâm hồn
k bvệ đc con (…)
mặc cảm vì m có lỗi (đẻ nhiều),

nỗi sợ (gđ tan vỡ),
Trong "Chiếc thuyền ngoài xa", hình tượng người đàn bà hàng chài là một
hình tượng ám ảnh, góp phần thể hiện tập trung tư tưởng chủ đề của tác phẩm cũng
như triết lí suy tư của nhà văn về con người, cđ và nght.
Mở đầu tp, ngay khi vừa mới xuất hiện, tác giả đã miêu tả người đàn bà với
những chi tiết đầy ám ảnh: "trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn
bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi

sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt”, tấm lưng áo bạc phếch, ránh rưới Chị
không có tên, tác giả gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài,
lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta Chừng ấy chtiết đủ để nói lên một cuộc đời đầy
sóng gió, chìm nổi trong đói nghèo cực nhọc và hé lộ phần nào tâm lí chán chường,
mệt mỏi trước cuộc sống nhiều khổ đau.
Thuộc hệ thống hình tượng người phụ nữ trong sáng tác của NMC nhưng nhân
vật này thật khác biệt. Nếu Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" có vẻ đẹp lí tưởng,
toàn thiện thì người đàn bà hàng chài trong tác phẩm này ngược lại: chị có ngoại hình
rất xấu. Sự khác nhau ở 2 nhân vật này cho thấy sự thay đổi trong cảm hứng nghệ
thuật của NMC. Trước 1975, ngòi bút của NMC thiên về ngợi ca vẻ đẹp lí tưởng,
ngợi ca chủ nghiã anh hùng của tuổi trẻ VN trong chiến tranh còn bây giờ, nhà văn
lại hướng ngòi bút của mình vào sự thật trần trụi của cuộc đời, vào chính nhg góc
khuất trg số phận con người thời hậu chiến.
11
Chính sự thiệt thòi về dung nhan đã khiến chị vốn là con gái một gia đình khá
giả ở phố trở thành vợ anh hàng chài. Thuyền chật, con đông, việc kiếm sống trên
sông nước luôn phải phụ thuộc vào thiên nhiên, luôn phải đối mặt với bất trắc vì vậy
cuộc sống của họ vô cùng đói khổ, thậm chí cả tháng giời gia đình họ chỉ ăn cây
xương rồng luộc chấm muối. Tuy vậy, nỗi bất hạnh lớn nhất của chị là thường xuyên
bị chồng đánh đập, hành hạ tàn nhẫn. Hành động đánh vợ của lão đàn ông vũ phu ấy
khiến chúng ta rùng mình kinh sợ: mặt đỏ gay, thở hồng hộc, vừa dùng thắt lưng quật
tới tấp vào người vợ vừa nghiến răng nguyền rủa. Cứ thế đều đặn, “ba ngày một trận
nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cảnh bạo lực trong gia đình không phải đến "Chiếc
thuyền ngoài xa " chúng ta mới gặp nhưng có thể nói phải đến truyện ngắn này
chúng ta mới thực sự thấm thía nỗi đau tận cùng của bi kịch ấy. Nếu Mị trg "Vợ
chồng A Phủ" chấp nhân việc bi A Sử đánh đập một cách thản nhiên là bởi vì Mị đã
nguội lạnh, tâm hồn như đã chết- đó là sự chấp nhận trong trạng thái hoàn toàn bị tê
liệt về ý thức thì ở đây người đàn bà hàng chài chấp nhận việc chồng thường xuyên
đánh đập là bởi sự nhẫn nhục, cam chịu. Chị chấp nhận đòn roi coi như đó là môt
phần cuộc sống của mình. Nói cách khác, đó là sự chấp nhận có ý thức.

Không chỉ bị hành hạ bởi nỗi đau thể xác, người đàn bà còn bị dày vò bởi nỗi
đau tinh thần. Chị đau đớn khi để con cái phải chứng kiến bi kịch gia đình của bố mẹ.
Khi con lớn, chị xin chồng được đưa lên bờ đánh bởi niềm mong muốn những đứa
con thơ dại không phải chứng kiến những cảnh tượng đau lòng kia. Đây là cách ứng
xử giàu nhân văn, nhân bản.
Bị chồng đánh chị không hề khóc nhưng khi thấy thằng Phác đánh lại bố để
bảo vệ mẹ thì chị đã khóc, "ôm chầm lấy con vái lấy vái để". Chị đau đớn bởi chị
đang phải chứn kiến thằng Phác bắt đầu có những dấu hiện vũ phu giống như bố nó.
Giọt nước mắt và cái vái lạy của chị có thể hiểu là lời van xin đứa con đừng thù ghét
cha mình, đừng vũ phu tàn nhẫn như cha mình. Đó cũng có thể là lời xin lỗi của
người mẹ bởi làm mẹ mà không che chở, bảo vệ được cho con, thấy con đang dần tha
hoá, chìm sâu vào bạo lực mà mẹ đành bất lực. Bên cạnh nỗi đau không thể bảo vệ
được con, người đàn bà ấy còn đau đớn về mặc cảm chính mình đã đẩy chồng con
vào cảnh nghèo đói: "giá tôi đẻ ít đi", "cái lỗi là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá
mà th lại chật".
12
Đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần nhưng người đàn bà vẫn phải mang thêm một
nỗi lo sợ khác: sợ gia đình đổ vỡ. Chính vì nỗi lo sợ ấy mà chị đã bằng mọi giá giữ
gìn sự yên ổn cho gia đình mình: chấp nhận chồng đánh, chấp nhận cầu khẩn van xin
quý toà để "đừng bắt con bỏ nó"!
Như vậy, có thể thấy, từ ngoại hình đến hành động, người đàn bà hàng chài
chính là hiện thân của nỗi thống khổ, bất hạnh. Thân phận ấy của chị gợi lên trong ta
những dư vị xót xa về số phận con người, đặc bệt là số phận người phụ nữ, về nỗi lo
âu trứơc sự dốt nát đói nghèo, trước bạo lực gia đình, một trong những nguyên nhân
gây ra bi kịch cá nh.
2.2. Vẻ đẹp của phẩm chất, tính cách
- Lòng vị tha nhân hậu
- Tình ythg dành cho các con
- Từng trải, khôn ngoan, sắc sảo
Tuy nhiên, điều để lại ấn tượng sâu sắc nhất ộnng lòng độc giả, và nguyên cớ

sâu xa tác động mạnh mẽ tới nhận thức của 2 người đàn ông- chánh án Đẩu và nghệ
sĩ P không phải là ở số phận đau khổ bất hạnh mà ở những phẩm chất vô cùng đẹp
đẽ, đáng trân trọng của người phụ nữ này.
Trứơc hết, ẩn bên trong ngoại hình xấu xí thô kệch, ẩn đằng sau nhg hành đông
cam chịu nhẫn nhục tưởng vô lí kia là một sức chịu đựng phi thg, một trái tim vị tha
nhân hậu. Bị chồng đánh đập hành hạ rất thô bạo thế nhg chị không hề oán trách,
không hề kết tội chồng mà vẫn đầy sự thấu hiểu cảm thông. Chị hiểu nguyên nhân đã
biến một người con trai cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh vợ trở thành
một gã đàn ông vũ phu tàn bạo là do hoàn cảnh. Đó là việc trốn lính, việc vợ đẻ
nhiều, cuộc sống ngày càng trở nên túng quẫn, tất cả đã khiến ông ta thay đổi tính
nết. Chị còn hiểu ông ta đánh vợ chỉ là cách để xả những uất ức trg lòng mà thôi:
"bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh".
Như vậy, khác hoàn toàn với cách nhìn nhận của nhg người còn lại trong câu
chuyện, trong con mắt của chị, người đàn ông ấy cũng chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh.
Ông ta đáng giận nhưng cũng đáng thương, đáng được cảm thông. Chịu đựng những
trận đòn của chồng bởi vậy cũng chính là cách chị giúp chồng trút bớt ghánh nặng
13
đau khổ trong lòng. Đằng sau những hành động nhẫn nhục tưởng vô lí của chị ta
nhận ra tấm lòng của một người vợ nhân hậu bao dung.
Đẹp nhất trong tâm hồn người phụ nữ này phải kể đến tình mẫu tử, tình thương
con vô bờ, đức hy sinh cao cả-tấm lòng của một người mẹ.
Đối với cách nhìn nhận sự việc thông thường, chánh án Đẩu đã giải quyết vụ
việc bằng cách khuyên người đàn bà nên li hôn: "tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị
không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu!", "Cả nước không có m người
chồng nào như hắn". Nhưng thật bất ngờ, trái ngược với dự tính của cả Đẩu và
Phùng, chị một mực từ chối, cầu xin để không phải bỏ chồng. Trong rất nhiều lí do
đưa ra, lí do cảm động nhất là vì đàn con. Chị không thể bỏ chồng dù bị chồng hành
hạ một cách tàn bạo bởi chị cần ông ta để chèo chống làm ăn nuôi đàn con trên dưới
chục đứa. Lẽ sống của chị thật đáng khâm phục: "Ông trời sinh ra người đàn bà là
để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn', "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống

cho con chứ không thể sống cho mình". Trong cuộc đời dằng dặc đau khổ, niềm vui
lớn nhất với chị là được ngồi nhìn đàn con ăn no. Có thể thấy, chị đã đặt cuộc sống,
niềm vui, hp của các con lên trên cả cđ của mình.
Và cũng chỉ vì thương con, sẵn sàng hy sinh cho con nên chị tìm mọi cách để
che giấu nỗi đau của bản thân, không muốn các con phải chứng kiến bi kịch của
mình. Xin chồng đưa mình lên bờ để đánh, gửi thằng Phác lên rừng nhờ ông ngoại
nuôi, đó là cách ứng xử giàu gía trị nhân văn không chỉ có ở một người vợ. Ở người
phụ nữ này đẹp hơn còn là tấm lòng của một người mẹ, bên cạnh tình yêu thương con
vô bờ bến, đức hi sinh cao cả, người đàn bà hàng chài còn để lại ấn tượng sâu sắc bởi
sự khôn ngoan, sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời.
Từ những điều Phùng tận mắt chứng kiến ngoài bãi biển cho đến tư thế, cách
nói năng khúm núm sợ sệt tại toà án, ấn tượng của chúng ta về chị là sự yếu ớt, nhẫn
nhục một cách ngờ nghệch thậm chí là nhu nhược nhưng thật bất ngờ, ẩn đằng sau
cái vẻ ngờ nghệch ấy là một sự từng trải, sắc sảo khôn ngoan.
Sự sắc sảo khôn ngoan ấy bộc lộ trước tiên là ở cách xưng hô, điệu bộ. Trước
sự cương quyết của Đẩu về giải pháp li hôn, chị đã làm một cuộc hoán đổi ngoạn
mục từ "Con lạy quý toà" đến "Chị cảm ơn các chú". Đó là sự hoán đổi giữa ngây
14
thơ, non nớt, và già dặn trải đời giữa lí thuyết suông và thực tế trần trụi. Sự thay đổi
về cách xưng hô đã kéo theo sự thay đổi về vị thế giữa các nhân vật.
Tuy vậy, sự sắc sảo của chị thể hiện đậm nét nhất ở những suy nghĩ. Trong câu
chuyện mà chị đã rất chân thành tâm sự với Đẩu và Phùng khác hoàn toàn với cách
nhìn nhận sự việc của 2 người đàn ông này. Chị, một người phụ nữ quê mùa thất học
đã cứâp nhận bi kịch cuộc đời mình thật tỉnh táo khôn ngoan, hợp lí hợp tình bởi
trong mối quan hệ với chồng chị đã nhìn chồng bằng con mắt đầy cảm thông, thấu
hiểu. Không trách móc, không kết tội, thậm chí còn tự nhận lỗi về mình.
Trong mối quan hệ với đàn con, chị đặt lên trên tất cả là bổn phận, trách
nhiệm, tình yêu thương của người mẹ.
Trong mối quan hệ với chính mình, ít nhất chị cũng thấy thoả mãn, tự bằng
lòng với những niềm vui, niềm hạnh phúc bình dị, nhỏ nhoi, thiêng liêng mà chị luôn

biết nâng niu, chắt lọc: "Trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái được hoà thuận,
vui vẻ".
Trước khi nghe những lời tâm sự của người đàn bà, Đẩu, Phùng và cả chúng ta
nữa đều ngạc nhiên, khó hiểu trước sự cam chịu nhẫn nhục vô lí của chị. Tuy nhiên,
câu chuyện của chị, câu chuyện của một người đàn bà quê mùa, ít học đã ít nhiều
mang đến cách nhìn nhận mới: "Phải, bây giờ thì tôi đã hiểu"- câu nói ấy của Đẩu
chứng tỏ không phải Đẩu đang giúp người đàn bà kia mà chính chị đã giúp Đẩu,
Phùng và cả chúng ta nữa hiểu hơn về cuộc đời, về con người.
Như vậy, không chỉ tái hiện ở vẻ nhếch nhác, lam lũ, số phận cay đắng, đau
khổ, ngòi bút của NMC còn đi sâu khám phá, phát hiện nâng niu những phẩm chất,
tâm hồn vô cùng đẹp đẽ ở người phụ nữ này. Những phẩm chất ấy ở chị gợi cho ta
niềm xúc động, cảm phục lớn lao, một niềm tin mãnh liệt vào cuộc đời, vào con
người: dù sống trong hoàn cảnh đầy khổ đau thì người phụ nữ, nói rộng ra là người
lao động VN bao đời nay vẫn dũng cảm vượt qua, vẫn không để mất đi những phẩm
chất, những đức tính cao đẹp của mình.
2.3. Nght xd nhvật người đàn bà hàng chài
- Đặt nhvật trg nhg tình huống éo le để nhvật có thể bộc lộ số phậncũng như
vẻ đẹp tính cách.
15
- Mtả nhvật từ nhiều điểm nhìn, soi chiếu nhvật từ nhiều mqh: vợ chồng, mẹ
con, xã hội,
- Lựac chọn, xây dựng đươc nhg chtiết nght đặc sắc:
- Kh đặt tên cho nhv, nght điển hình hoá,
2.4. Ý nghĩa của hình tg nhvật
a. Gtrị tp
- Hiện thực: + Hthực
+ Nhđạo
b. Qđ nght của NMC
Không phải ngẫu nhiên khi t/g mtả cảnh bạo hành trong gia đình người đàn bà
hàng chài bao giờ cũng diễn ra bên chiếc xe tăng hỏng, tàn tích của cuộc chiến tranh

xâm lược để lại. Cảnh tượng ấy thực sự là một cuộc đối chứng âm thầm mà quyết liệt
giữa 2 thứ bạo lực: bạo lực thời chiến và bạo lực thời bình- một đã bị tiêu diệt, một
vẫn đang hoành hành. Bạo lực thời chiến khủng khiếp là thế nhưng đã bị đánh gục
còn bạo lực thời bình hoá ra dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều bởi bạo lực thời chiến
diễn ra từ phía địch còn bạo lực thời bình nằm ngay trong ta. Bạo lực thời chiến tiêu
diệt con người còn bạo lực thời bình lại hủy diệt thứ khác khó thấy hơn đó là chất
Người, phẩm giá Người! Cuộc chiến chống bạo lực thời bình bởi vậy còn khốc liệt
hơn những cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược. Hình tượng người đàn bà hàng chài
trong cuộc chiến khốc liệt ấy chính là hiện thân cho số phận và phẩm chất của con
người VN thời hậu chiến. Từ hình tượng người đàn bà hàng chài tác giả đã phản ánh
được bức tranh hiện thực rộng lớn của đất nước ta trong những năm vừa bước ra khỏi
cuộc chiến tranh, đối mặt với lạc hậu, đói nghèo, với nữnhg cuộc chiến để mưa sinh,
để giữ gìn phẩm giá.
Hình tượng người đàn bà hàng chài bước ra từ trong tấm ảnh: "Mụ bước
những bước ( ) chắc chắn, hoà lẫn vào đám đông". Có người đã hiểu đó là một kết
thúc lạc quan bởi bước chân ấy thể hiện sức mạnh bên trong- biểu thị của lòng tự tin,
hứa hẹn. Tuy nh, nếu lật giở lại những trang đầu ta cũng sẽ thấy, khi tả dáng đi của
lão chồng vũ phu, NMC cũng viết: "Lão đi chữ bát, bước từng bước chắc chắn". Như
16
vậy từ "chắc chắn" đơn thuần chỉ đặc tả dáng đi của người miền biển, dáng bước
chắc chắn hoà lẫn vào đám đông của người đàn bà hàng chài bởi vậy không phải là
một tín hiệu lạc quan mà trái lại, thể hiện niềm lo âu của tác giả bởi đó là sự khái
quát cuối cùng; tình trạng khốn khổ này không hề cá biệt, cả đám đông kia ai cũng là
một người đàn bà như thế! Hình tựơng người đàn bà hàng chài vì vậy không chỉ góp
phần thể hiện gtrị hiện thực rộng lớn cho tác phẩm mà còn góp phần thể hiện tư
tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả. Đó là nỗi lo âu, trăn trở, cảm thương trứơc những
số phận bất hạnh, đó là thái độ trân trọng, ngợi ca những phẩm chất đẹp đẽ, phê phán
những hiện tượng tiêu cực để từ đó hé mở những giải pháp mang tính xã hội.
Htg người đàn bà hàng chài thể hiện qniệm nght của NMC: Con người và cuộc
sống vốn phong phú phức tạp, ẩn chứa nhiều nghịch lí, chúng ta phải có cái nhìn toàn

diện, đa chiều để không thể chỉ thấy được vẻ bên ngoài mà còn thấy cả bản chất bên
trong, không chỉ thấy được những vẻ nên thơ mà còn phải cảm nhận được cả những
điều xót xa, đau đớn, không chỉ thấy những số phận bất hạnh mà còn phải nhận ra
được cả “hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn mỗi con người”. Đó khchỉ là thiên chức cao
cả của người nghệ sĩ chân chính, sứ mệnh thiêng liêng của nghệ thuật chân chính mà
còn là trách nhiệm của tất cả chúng ta.
ĐỀ4: Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người đàn ông,
Đẩu và Phùng.
1. Nhân vật người đàn ông
- Ngoại hình: NMC mtả ngoại hình của nhvật này với nhiều chi tiết gây ác cảm
"Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát
bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng", "hai con mắt độc dữ",…Có
thể thấy, từ hình dáng đến diện mạo người đàn ông này đã hiện lên với diện mạo của
người đàn ông vùng biển, có cuộc sống lao động vất vả nặng nhọc gắn liền với sông
nước, với biển, với sóng gió. Qua một vài chi tiết về ngoại hình cũng hé mở nét tính
cách: sự thô bạo, dữ dằn.
- Tính cách vũ phu, tàn bạo
+ Với vợ
17
Ông ta đánh vợ như cơm bữa, như thói quen dù người vợ chẳng phạm lỗi gì, cứ
thế đều đặn: "Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng" suốt bao nhiêu năm
trời, bất kể lúc nào thấy khổ quá là ông ta lại lôi vợ ra đánh.
Đáng sợ hơn ở hành động tàn bạo này là thái độ của ông ta khi đánh vợ: "lão
vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, vừa dùng dây lưng quất
vào người vợ vừa nguyền rủa"…Hđ tàn bạo này của ông ta khiến ta nhớ tới hành
động phi nhân tính của A Sử mỗi khi đánh Mị trong "VCAP" (TH). Không chỉ dữ
dằn tàn ác với vợ mà ngay cả với con ông ta cũng không hề nương tay.
+ Với con
Khi thằng Phác lao vào như một viên đạn, giật lấy cái thắt lưng từ tay ông ta để
bảo vệ mẹ, người đàn ông này đã dang thẳng tay tát nó 2 cái khiến nó lảo đảo ngã

xuống.
→ Sau khi đánh vợ con lão ta bỏ đi không hề quay mặt lại, hoàn toàn vô cảm,
dửng dưng trước những gì vừa gây ra.
+ Với người ngoài: Khi có một người lạ xuất hiện và can thiệp ông ta đã đánh cho bị
thương phải nhận viện.
→ Như vậy, từ ngoại hình đến hành động, người đàn ông đã hiện lên với tất cả
những gì xấu xa nhất: "Cả nước không có người đàn ông nào như hắn". Câu kết luận
ấy của Đẩu lí giải cho ta vì sao Đẩu nhất mực khuyên người đàn bà li hôn.
Tuy nhiên, cuộc sống con người không hề đơn giản như thế. Trong con mắt của
Đẩu, Phùng, thằng Phác người đàn ông ấy hoàn toàn bị lên án, bị ruồng bỏ. Nhưng
trong con mắt của người đàn bà - người vợ, thông qua câu chuyện đầy chân thành chị
kể ông ta lại hiện lên với một chân dung khác. Có những nét tính cách khó hiểu,
dường như ở ông ta cũng đang chất chứa những nỗi đau không thể giải toả, những
uẩn khúc không dễ sẻ chia. Ông ta vốn là một người cục tính nhưng hiền lành, không
bao giờ đánh vợ. Chỉ vì nghèo đói, vì túng quẫn bởi trốn lính nguỵ, bởi đông con mà
thuyền lại chật và nghiêm trọng hơn còn là sự mông muội về ý thức làm người, về
giá trị của cuộc sống con người mà dần dần ông ta trở nên tha hoá. Hễ lúc nào thấy
khổ là lôi vợ ra đánh để xả giận. Nếu A Sử đánh Mị bằng thái độ thản nhiên, vô cảm
biểu thị bản chất phi nhân tính thì ở đây trong tác phẩm khi đánh vợ người đàn ông
nghiến chặt răng, "giọng rên rỉ đau đớn". Thì ra đánh vợ không phải vì ông ta ghét
18
bỏ vợ mà đó chỉ là cách ông ta xả bớt những uất ức, cùng cực trong lòng. Nhân vật
người đàn ông vừa đáng trách, đáng lên án nhưng cũng rất đáng thươg, đáng được
cảm thông bởi xét cho cùng, ông ta vừa là thủ phạm nhưng ông ta cũng là nạn nhân.
Điều này lí giải vì sao người đàn bà dù bị chồng hành hạ tàn nhẫn vẫn không hề oán
trách, không hề kết tội, vẫn dành cho chồng sự thấu hiểu cảm thông và kiên quyết
không chịu li hôn.
Hình tượng người đàn ông ộnng truyện gợi ta liên tưởng đến những nhân vật
quen thuộc như Chí Phèo, Hộ,…Họ vốn cũng là những con người hiền lành, có
những ước mơ đẹp đẽ nhưng do sự tác động của hoàn cảnh mà thay đổi tính nết. Tuy

vậy, nếu Chí Phèo và Hộ bị hoàn cảnh chi phối nhưng cuối cùng bằng bản tính tốt
đẹp vốn có của mình họ đã vượt qua và chiến thắng được hoàn cảnh thì với người
đàn ông trong truyện ngắn này sự tha hoá ấy của ông ta không có hy vọng thay đổi
nếu không có giải pháp xã hội cụ thể, thiết thực, kịp thời. Sự tha hoá của người đàn
ông trong câu chuyện này cho thấy hậu quả của chiến tranh thật vô cùng dai dẳng,
nặng nề. Qua nhân vật người đàn ông, NMC muốn gửi đến người đọc một nhận thức
quan trọng: cuộc chiến chống kẻ thù xâm lược đã lùi xa từ lâu nhưng trên mảnh đất
này (và không chỉ trên mảnh đất này) vẫn còn đó những cuộc chiến khác, cuộc chiến
khủng khiếp khốc liệt, thậm chí còn khốc liệt hơn cuộc chiến chống kẻ thù xâm
lược, đó là cuộc chiến để mưu sinh, cuộc chiến để bảo vệ nhân tính, thiên lương, bảo
vệ phẩm giá con người.
Ở phương diện này NMC đã kế thừa rất xuất sắc tư tưởng nhân văn nhân đạo
của văn học truyền thống và nâng nó lên để phù hợp với yêu cầu của nền văn học
mới, thời kì văn học dám nhìn thẳng và nói thật.
2. Nhân vật Đẩu
Là một chánh án, Đẩu đc coi là vị "bao công của phố biển", anh bảo vệ luật
pháp bằng sự công bằng cho cuộc sống của người dân nơi đây, bằng sự thông hiểu
sách vở và bằng cả nhiệt huyết của trái tim. Bởi vậy, trước bi kịch bị ngược đãi một
cách bất công của người đàn bà hàng chài Đẩu đã giải quyết bằng cách khuyên người
đàn bà nên li hôn. Ban đầu anh hoàn toàn tin vào giải pháp ấy của mình.
Thế nhưng, trước câu chuyện, đặc biệt là trước lí lẽ hết sức sâu sắc của người
đàn bà quê mùa, thất học thì lòng tốt và kiến thức của Đẩu học từ sách vở bỗng trở
19
nên vô nghĩa và phi thực tế! Với anh, người đàn ông vũ phu, tàn bạo kia đáng bị lên
án, đáng bị ruồng bỏ, thế nhưng, với người vợ, người đàn ông ấy lại là chỗ dựa, là trụ
cột của cả gia đình. Sự yên ấm và tương lai của cả đàn con lại phụ thuộc hoàn toàn
vào ông ta-bố của chúng. Vả lại, cuộc sống của họ đâu phải lúc nào cũng đau khổ
"trên thuyền cũng có lúc vợ chg con cái sống hoà thuận, vui vẻ"! Lí lẽ sâu sắc của
người đàn bà đã làm "vỡ ra" trong đầu vị bao công phố biển ấy biết bao điều: "Phải,
phải, bây giờ thì tôi đã hiểu". Nếu sự vỡ lẽ của Phùng thuộc về mối quan hệ giữa

cuộc đời và nghệ thuật thì sự vỡ lẽ của Đẩu lại thuộc về mối quan hệ giữa lí thuyết và
thực tế, giữa số phận cá nhân và những giải pháp xã hội. Câu chuyện của người đàn
bà hàng chài đã khiến Đẩu bàng hoàng nhận ra. So với cách lựa chọn của chị, giải
pháp của Đẩu thật nông nổi, chỉ giải quyết được nguy cơ trước mắt mà không hề tính
đến hậu qua lâu dài.
Cách giải quyết của Đẩu khiến ta nhớ đến cách giải quyết của Đế Thích trước bi
kịch bị chết oan của Trương Ba trong kịch của Lưu Quang Vũ. Đẩu giải quyết sự
việc bằng cách ấy đơn giản bởi Đẩu đã đem nguyên vẹn lối nghĩ của thời chiến để
giải quyết một việc ở thời bình. Bởi là một chánh án nhưng Đẩu chỉ làm việc trong
một căn phòng chất ngất những chồng hồ sơ giấy tờ và giải quyết sự việc bằng mớ lí
thuyết mang tính sách vở đó.
Câu chuyện của người đàn bà hàng chài đã giúp Đẩu nhận ra rằng: cuộc sống
con người không hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn luôn chứa đựng những mâu thuẫn,
những nghịch lí. Có bao việc tưởng như vô lí nhưng xem ra lại có lí riêng. Có nhiều
chuyện nghĩ đơn giản nhưng lại hết sức phức tạp, khó lường. Không thể đem thiện
chí và ý chí đơn thuần để giải quyết cho xong bởi lòng tốt và luật pháp đều vô cùng
cần thiết nhưng không thể đặt ào ào vào bất cứ đối tượng nào, trong bất cứ h/cảnh
nào. Nếu có một lòng tốt hời hợt, nếu vận dụng luật pháp một cách máy móc, cứng
nhắc chỉ càng khiến cho cuộc sống thêm tồi tệ hơn. Và như vậy Đẩu đã "vỡ ra…": để
giúp người dân thoát ra khỏi bi kịch đau đớn của người đàn bà hàng chài buộc phải
có nhg giải pháp cụ thể, kịp thời và mang tính đồng bộ xã hội chứ không phải là cách
giải quyết mang tánh chất cá nhân như Đẩu đã đễ xuất.
20
Như vậy, có thể nói Đẩu và Phùng chính là 2 nửa của NMC: cùng bày tỏ một
mối lo âu chung về cuộc đời, cùng nói lên một nhận thức quan trọng về con người
đặc biệt là số phận con người thời hậu chiến.
3. Nhân vật Phùng
Nxchung: Phùng là nhân vật trung tâm có mặt trong suốt chiều dài của thiên
truyện, là hạt nhân, là sợi dây liên kết các nhân vật, các sự kiện chính trg tác phẩm lại
vs nhau. Ngoài ra cốt truyện của truyện ngắn còn phát triển theo đúng diễn biến tâm

trạng và quá trình thay đổi nhận thức của chính Phùng. Phùng vì vậy chính là kiểu
nhân vật tư tưởng bộc lộ trực tiếp quan niệm, cách nhìn nhận của nhà văn Nguyễn
Minh Châu về con người, cuộc đời và ngt.
Biểu hiện
a, Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, biết rung động trc cái đẹp
b, Là một người csĩ biết bảo vệ cái đẹp
c, Phùng là một con người theo đúng nghĩa của nó
- Giàu lòng ythg
- Thấu hiểu sâu sắc lẽ đời để từ đó thấu hiểu sâu sắc ngt
3.1. Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, biết rung động trc cái đẹp
Phùng trc hết là một nghệ sĩ tài hoa có tâm hồn nhạy cảm, say mê trước cái đẹp
và tâm huyết vs nghề nghiệp. Để có đc tấm ảnh bổ sung vào lịch tết theo ycầu của
trưởng phòng Phùng đã lặn lội về một vùng biển miền Trung nơi từng là chiến
trường cũ của anh. Tại đó ròng rã cả một tuần lễ Phùng phục kích ngoài bãi biển từ
mờ sớm, giữa lúc trời lác đác mưa có khi phải rúc vào bên bánh một chiếc xe tăng
hỏng để trú. Tất cả chỉ với một hi vọng sẽ chụp được 1 tấm ảnh ưng ý. Nếu không có
t/yêu đối với cái đẹp, nếu không thực sự tâm huyết với nghề chắc chắn không dễ gì
Phùng có thể có được sự kiên nhẫn như thế.
Khi bất ngờ gặp được cảnh toàn bích: "một bức tranh mực tàu của danh hoạ
thời cổ mà từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp. Phùng ngập tràn niềm vui
và hp "Trái tim như có gì bóp thắt vào". Đó là niềm hạnh phúc chân chính của một
người nghệ sĩ đích thực trong giây phút thăng hoa của cảm hứng sáng tạo. Bằng sự
nhạy cảm của trái tim người nghệ sĩ Phùng đã nhận ra đó là 1 cảnh "đắt" trời cho bởi
vậy ngay lập tức Phùng đã lấy máy ảnh bấm liên thanh một hồi hết cả một phần tư
21
cuốn phim. Không chỉ hp trước cái đẹp tuyệt đỉnh của thiên nhiên Phùng còn cảm
thấy như mình vừa khám phá ra cái chân lí của sự toàn thiện, "Khám phá thấy cái
khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn."
Như vậy, chính tình yêu và niềm say mê khám phá cái đẹp đã thanh lọc nâng đỡ
tâm hồn của người nghệ sĩ và cũng chính tình yêu và sự tâm huyết với nghề nghiệp

ấy đã giúp Phùng có được nhưng sản phẩm sáng tạo nghệ thuật có gtrị. Tấm ảnh
được chọn trong bộ lịch năm ấy, tấm ảnh chiếc thuyền ngoài xa đã vượt lên trên số
phận ngắn ngủi của 1 tấm ảnh lịch tết để sống cuộc đời của một kiệt tác nghệ thuật.
Mãi nhiều năm sau này bức ảnh ấy vẫn được treo trong phòng khách sang trọng của
những người sành nghệ thuật đó chính là niềm hp lớn lao nhất, là phần thưởng xứng
đáng nhất dành cho những nỗ lực cho tình yêu sáng tạo cho những người nghệ sĩ
chân chính như Phùng .
3.2. Là một người chiến sĩ biết bảo vệ cái đẹp
Thế nhưng, ngay khi đang ở trên đỉnh cao của niềm hp sáng tạo, cũng là lúc
Phùng phát hiện ra nghịch lí đầu tiên: con thuyền từ từ tiến vào bờ, khoảng cách
giữa nó và Phùng dần thu hẹp lại, khi Phùng có thể nhìn rõ nó cũng là lúc một cảnh
tượng trớ trêu bày ra trước mắt: bước ra từ "chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ" là
một người đàn bà: khắc khổ, xấu xí, mệt mỏi và chỉ biết “cam chịu đầy nhẫn nhục”,
một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, họ cùng bước lên bãi cát đến bên bãi xe
tăng hỏng. Ngươì đàn ông rút dây lưng vừa quật tới tấp vào ng đàn bà vừa rên rỉ,
chửi rủa. Người đàn bà không hề chống trả, không bỏ chạy, không kêu khóc, chỉ
nhẫn nhục chịu đựng.
Chứng kiến cảnh ấy P "chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước
mắt: “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”.
Vốn là một người lính, Phùng không thể chấp nhận cảnh tượng ấy, vì vậy, ngay lập
tức anh đã vứt máy ảnh xuống đất định chạy lại để can thiệp. Thế nhưng thật bất ngờ,
còn nhanh hơn cả anh, một thằng bé lao về phía người đàn ông, giật lấy dây lưng và
đánh trả. Nếu chỉ một khoảnh khắc trước đó Phùng còn vô cùng hp thì đến bây giờ
Phùng sững sờ chết lặng, không nói được một lời nào.
22
Lần thứ 2 gặp lại cảnh tượng ấy, không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái
ác, bất chấp nguy hiểm, Phùng đã xông vào can ngăn và kết quả là bị người đàn bà
đàn ông đánh phải nhập viện.
Trong cuộc gặp gỡ tại toà án huyện trc giải pháp của Đẩu khuyên người đàn bà
nên li hôn Phùng cũng rất đồng tình. Thái độ của họ đều xuất phát từ lòng tốt từ sự

mong muốn chân thành. Người phụ nữ ấy có thể được giải thoát khỏi những bi kịch
những đắng cay. Chính bởi niềm mong muốn ấy nên trước lời van xin của người đàn
bà :"Đừng bắt con bỏ nó!" Phùng bỗng cảm thấy căn phòng lồng lộng gió biển của
Đẩu bỗng trở nên ngột ngạt như bị hút hết không khí. Không chịu được cảm giác bức
bối ấy Phùng đã vén màn từ trong bước ra. Sau khi nghe người đàn bà tâm sự về
hoàn cảnh gia đình. Phùng đã bật lên đầy phẫn nộ. Không thể nào hiểu được.
Bởi vậy có thế thấy trước khi cầm máy ảnh Phùng đã cầm súng Phùng chính là
người có trái tim nhạy cảm dễ rung động trước cái đẹp và cũng chính là 1 người
chiến sĩ sẵn sàng đấu tranh chống ngang trái bất công bảo vệ cái đẹp của cuộc đời.
3.3. Phùng là một con người theo đúng nghĩa của nó
a- Giàu lòng yêu thương
Từ thái độ há hốc mồm kinh ngạc cho tới hành động vứt máy ảnh chạy tới đánh
nhau với lão đàn ông, khi bất ngờ chứng kiến cảnh bạo hành gia đình Tất cả đều là
biểu hiện của tình yêu thương của thái độ không chấp nhận bi kịch con người bị hành
hạ một cách tàn nhẫn.
Không chỉ thể hiện ở hành động, tấm lòng ấy của Phùng còn thể hiện ở cả ngôn
ngữ. Trước câu chuyện của người đàn bà tại toà án thái độ của Phùng đầy quan tâm
thấu hiểu chia sẻ. "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính nguỵ không? "Ở trên thuyền
có bao giờ lão ta đánh chị không?" "Cả đời chị có lúc nào thật vui không?" Chỉ là
một người đàn bà tình cờ gặp, câu chuyện của chị cũng chẳng mấy liên quan đến anh
thế nhg Phùng đã quan tâm thực sự, đã chia sẻ chân thành, đã phẫn nộ xót xa, đã yêu
thg và sẻ chia niềm vui, niềm hp và cả nỗi đau của người đàn bà bất hạnh ấy.
Câu chuyện về chị kết thúc bằng chi tiết cuối cùng: Phùng vác chiếc máy ảnh đi
lang thang đến tận khuya, rồi ngồi xuống bên bếp lửa dõi mắt nhìn ra giữa phá- nơi
con thuyền đang một mình chống chọi với dông bão, đó là ánh mắt của sự day dứt, lo
âu và nỗi băn khoăn trước bi kịch của con người. Ánh mắt ấy lí giải vì sao nỗi ám
23
ảnh về sự đáng thương của người đàn bà hàng chài không phải chỉ trôi qua trong
khoảnh khắc mà còn lưu lại trong anh cho đến mãi sau này: cứ mỗi lần nhìn kĩ Phùng
lại thấy hình ảnh người đàn bà hàng chài bước ra.

b- Thấu hiểu sâu sắc lẽ đời để từ đó thấu hiểu sâu sắc nghệ thuật
Không phải ngẫu nhiên khi thực hiện yêu cầu của trưởng phòng Phùng lại đến
vùng biển này-chiến trường cũ của anh. Có lẽ trong ý thức của Phùng lúc ấy, cuộc
sống của vùng quê này đẹp lắm, bình yên lắm, nơi ấy sẽ có nhiều vẻ đẹp để anh thoả
sức sáng tạo. Thế nhưng, chuyến đi này đã đem lại cho Phùng những thay đổi không
ngờ. Một cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp hoá ra chỉ là một thứ vỏ bọc, lấp đi sự xấu xa
bên trong. Bản chât ấy Phùng đã nhận ra. Và nếu Phùng chỉ từ xa mà ngắm, và nếu
Phùng bằng lòng với việc chỉ đứng bên ngoài mà chụp ảnh thì Phùng sẽ không bao
giờ hiểu được. Chứng kiến câu chuyện của người đàn bà ở toà án, sự "vỡ lẽ" ấy của
Phùng còn thấm thía hơn nữa. Thì ra đằng sau cái dáng chịu đòn đến trơ lì, vô cảm
của người vợ, là sức chịu đựng kiên cường, là tấm lòng nhân hậu hi sinh. Phía sau
dáng vẻ quê mùa thất học của người đàn bà bất hạnh là một phụ nữa sắc sảo, thấu
hiểu lẽ đời. Khuất đằng sau hành vi vô đạo, côn đồ của một đứa con dám đánh lại bố
và dám giết bố là tình yêu sâu nặng dành cho người mẹ. Tuy nhiên, bất ngờ lớn nhất
của Phùng chính là nhận thức về gã đàn ông- cái gã chồng vũ phu mà "Cả nước
không có người đàn ông nào như hắn". Ban đầu, với nhận thức giản đơn ở thời chiến,
Phùng đã đinh ninh cái xấu, cái ác ở gã có nguồn gốc từ địch: "Lão ta hồi trước bảy
nhăm có đi lính nguỵ không?" Thế nhưng, người đàn bà đã khẳng định: không những
lão ta không đi lính nguỵ mà còn trốn lính. Hay nguồn gốc là tệ nạn xã hội, nghiện
rượu? Cũng không. Thậm chí bà vợ còn ao ước: giá mà lão uống rượu thì tôi còn đỡ
khổ. Vậy hay là do bản tính? Cũng không. Lão ta vốn là một anh con trai cục tính
nhưng hiền lành và không bao giờ đánh vợ. Và bây giờ, mỗi khi đánh vợ gã không
hề mang bộ mặt hả hê lạnh lùng như thường thấy ở những kẻ có bản chất tàn ác mà
ngược lại gã còn rên rỉ, đau đớn.
K phải từ phía địch, không phải do tệ nạn xa hội, cũng không phải do bản tính,
vậy nguồn gốc sự tha hoá ở người đàn ông ấy là do đâu? Câu chuyện của người đàn
bà hàng chài đã giúp Phùng nhận ra nguyên nhân chỉ có thể là từ tình trạng mông
muội về ý thức làm người, ý thức về giá trị người, gía trị của sự sống do bị tù hãm
24
trong một đời sống quẩn quanh, quay lưng lại với thế giới bên ngoài, bị cầm tù trong

một tập quán lạc hậu thế nên họ không hề biết đến quyền làm người, giá trị người.
Hp lớn nhất đối với họ chỉ là được ăn no và khi đau khổ họ cho mình quyền được
hành hạ người khác. Phùng đã hiểu tại sao người đàn bà không chịu li hôn. Phùng đã
hiểu trong bi kịch này người đàn ông ấy vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân, vừa đáng
trách, đáng lên án nhg cũng rất đáng thương, đáng được cảm thông.
Và như vậy, những nghịch lí trong câu chuyện của gia đình thuyền chài kia đã
giúp Phùng "vỡ ra" nơi mảnh đất tưởng đã bình yêu kia, vẫn tồn tại những cuộc
chiến đấu khốc liệt, thậm chí còn khốc liệt hơn cả cuộc chiến với kẻ thù xâm lược.
Đó là cuộc chiến đấu với đói nghèo và sự tha hoá nhân cách để mưu sinh và để giữ
lấy thiên lương. Nhận thức ấy giúp Phùng hiểu sâu săc hơn gtrị của cuộc sống con
người và nghệ thuật. Con người và cuộc sống không hề đơn giản, xuôi chiều mà luôn
tồn tại những nghịch lí, luôn chứ đựng nghịch lí mâu thuẫn. Đánh giá cuộc sống con
người luôn phải có cái nhìn đa chiều, đa diện, hài hoà cả hiện tượg và bản chất. Với
tư cách là một nghệ sĩ Phùng còn hiểu rằng không được chạy theo cái đẹp bề ngoài.
Người nghsĩ chân chính phải luôn dũng cảm nhìn vào hiện thực và nhìn sâu vào số
phận mỗi con người để cùng thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông, góp phần thay đổi nhg
mảnh đời bất hạnh. Nói cách khác, người nghệ sĩ không thể đứng ngoài để chụp ảnh
hiện thực, chỉ khi nào đặt trọn vẹn cái tâm của mình vào cuộc đời, sẵn sàng dấn thân
vào cuộc đời mới làm tròn trách nhiệm của mình- của những người chèo lái cuộc
sống trước số phận con người.
Nếu bạn Luyện thi Đại học hãy đọc Tài liệu này rồi gọi cho chúng tôi để
nhận đủ bộ Giáo án Luyện thi. Liên hệ: 01676540298.
25

×