Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn vốn tại Ngân Hàng Công Thương Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.6 KB, 70 trang )

LỜI CẢM ƠN
  
Nếu như người ta ước chừng khoảng thời gian 100 năm cho một đời người
thì em cũng đã đi qua được hơn 1/5 quãng đời của mình. Một quãng thời gian khó
có thể quên với những những kỷ niệm về những ngày tháng tới lớp, tới trường: đó
là cảm giác mừng rỡ của lần đầu tiên cắp sách tới trường,…. niềm vui sướng lâng
lâng khó tả khi được bước chân vào cổng trường,… Trong suốt thời gian học tại
ngôi trường ĐH Quang Trung, quý thầy cô giáo đã tận tình chỉ dạy, truyền đạt
những kinh nghiệm, trau dồi những kiến thức bổ ích để làm hành trang bước vào
đời và môi trường làm việc chuyên nghiệp sau này. Riêng em thì cũng đã tích luỹ
nhiều kiến thức quý báu cho mình đồng thời kết hợp với thời gian thực tập tại ngân
hàng Vietin Bank – Chi nhánh Bình Định đã giúp em hiểu một cách cụ thể hơn
những kiến thức đó. Mặc dù vậy nhưng kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế
còn nhiều hạn chế nên chuyên đề sẽ nhiều thiếu sót rất mong ý kiến đóng góp của
thầy cô và Ban lãnh đạo ngân hàng.
Trước hết em xin chân thành cảm ơn thầy cô trường Đại học Quang Trung
đã xây dựng, tạo điều kiện học tập thuận lợi đồng thời cung cấp, trang bị cho em
nền tảng kiến thức để làm hành trang bước vào cuộc sống.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô Khoa Kinh Tế – Tài Chính
Ngân Hàng đã truyền dạy cho em những kiến thức chuyên sâu về Ngành tài chính
ngân hàng giúp em hiểu rõ hơn về bản chất cũng như hoạt động của ngành này.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô Lý Thị Ngọc Quyên đã tận tình chỉ
bảo, giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề tôt nghiệp của mình.
Tiếp đến em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc cùng các anh chị ở các
phòng ban của ngân hàng đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp cho em
những kinh nghiệm, sự hiểu biết và các thông tin số liệu cần thiết để em hoàn thành
tốt chuyên đề này.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn và xin gởi đến các thầy cô trường
ĐH Quang Trung, cô Lý Thị Ngọc Quyên cùng các anh chị tại đơn vị thực tập lời
chúc tốt đẹp cả trong cuộc sống và công việc!
Sinh viên thực tập


Trần Trung Hiếu
DANH MỤC CÁ TỪ VIẾT TẮT
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hang trung ương
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHCT Ngân hàng công thương
XNK Xuất nhập khẩu
TGTK Tiền gửi tiết kiệm
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của ngân hàng từ 2011- Quý 3/2013 23
Bảng 2.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động 25
Bảng 2.3. Nguồn vốn huy động theo kỳ hạn 27
Bảng 2.4. Nguồn vốn huy động từ các quỹ 29
Bảng 2.5. Nguồn tiền gửi thanh toán theo đối tượng 30
Bảng 2.6. Nguồn tiền gửi thanh toán theo loại tiền 31
Bảng 2.7. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các DN, tổ chức kinh tế theo kỳ hạn 32
Bảng 2.8. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội theo
loại tiền 34
Bảng 2.9. Tiền gửi tiết kiệm 35
Bảng 2.10. Tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn 36
Bảng 2.11. TGTK bằng EUR theo thời hạn 38
Bảng 2.12. Phát hành kỳ phiếu trái phiếu 39
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN 1
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Tổng quan về NHTM 3
1.1.1. Khái niệm NHTM 3
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM 4
1.1.3. Nguồn vốn của NHTM 6

1.1.3.1. Vốn chủ sở hữu 7
1.1.3.2. Nguồn huy động 8
1.1.3.3. Nguồn đi vay 9
1.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với ngân hàng thương mại. 10
1.3. Các hình thức huy động vốn 11
1.3.1. Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi 11
1.3.1.1 Tiền gửi không kỳ hạn 11
1.3.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn 12
1.3.1.3. Tiền gửi tiết kiệm 12
1.3.2 Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá 13
1.3.2.1. Phát hành trái phiếu: 13
1.3.2.2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi 14
1.3.2.3. Phát hành kỳ phiếu 14
1.3.2.4. Giấy tờ có giá khác 14
1.3.3. Vay Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng khác 14
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn 15
1.4.1. Những nhân tố khách quan 15
1.4.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội 15
1.4.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô 16
1.4.2. Những nhân tố chủ quan 16
1.4.2.1. Lãi suất 16
1.4.2.2. Công nghệ ngân hàng 17
1.4.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng 18
1.4.2.4. Công tác cán bộ tổ chức 20
Chương 2: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG BÌNH ĐỊNH 21
2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của NHCT Bình Định 21
2.2. Thực trạng huy động vốn tại NHCT Bình Định 22
2.2.1. Tình hình huy động vốn tại NHCT Bình Định 22
2.2.1.1. Về nguồn huy động vốn 23
2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn 25

2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn 26
2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Bình Định 27
2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ 27
2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi 28
2.2.2.3. Huy động vốn qua đi vay 37
2.2.2.4. Huy động vốn từ các nguồn khác 38
2.2.3. Đánh giá chung về tình hình huy động vốn của NHCT Bình Định trong thời gian qua 39
2.2.3.1. Kết quả đạt được 39
2.2.3.2. Những mặt còn hạn chế 41
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT BÌNH
ĐỊNH 43
3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh của NHCT Bình Định 43
3.1.1. Định hướng chung 43
3.1.2. Định hướng huy động vốn 44
3.1.3. Một số thuận lợi, khó khăn khi thực hiện huy động vốn 45
3.1.3.1. Thuận lợi 45
3.1.3.2. Khó khăn 46
3.2. Giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn vốn tại ngân hàng công thương Bình
Định 46
3.2.1. Xây dựng các chính sách về khách hàng và giao tiếp khuếch trương 47
3.2.2. Xây dựng kế hoạch huy động vốn rõ ràng cho từng giai đoạn 48
3.2.3. Phát triển và mở rộng mạng lưới giao dịch 49
3.2.4. Đa dạng hoá các hình thức huy động 49
3.2.4.1. Đối với huy động vốn từ dân cư 50
3.2.4.2. Đối với huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội 54
3.2.4.3. Đối với huy động vốn từ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác 54
3.2.5. Đổi mới tổ chức, quản lý cho phù hợp, hiệu quả hơn 55
3.2.6. Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng 56
3.2.7. Nâng cao chất lượng sử dụng vốn huy động 57
3.2.8. Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên 58

3.3. Một số kiến nghị 59
3.3.1. Kiến nghị đối với chính phủ và ngân hàng nhà nước Việt Nam 59
3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng công thương Việt Nam 60
KẾT LUẬN 62
1
LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra cho đến năm 2020 là phải hoàn
thành nhiệm vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam từ một nước
nông nghiệp trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để thục hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan
trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào qui mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh
tranh các doanh nghiệp việt nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển với quy
mô ngày càng lớn, đổi mới dây truyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá,
dịch vụ, vươn lên cạnh tranh với hàng hoá, dịch vụ của các nước khác trong khu
vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng.
Một địa chỉ quen thuộc và tiện ích nhất mà người cần vốn nghĩ đến đó là các Ngân
hàng thương mại.
Vốn cho đầu tư phát triển có thể được tạo thành từ nhiều nguồn, tuy nhiên
trong điều kiện thị trường tài chính nước ta đang trong giai đoạn bước đầu hình
thành và phát triển thì huy động vốn qua kênh ngân hàng vẫn là phổ biến và hiệu
quả nhất. Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt chuyên kinh doanh
tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại vừa với danh nghĩa là một
tổ chức hạch toán kinh tế - kinh doanh, vừa với vai trò trung gian tài chính. Với vai
trò trung gian tài chính, Ngân hàng thương mại tập trung mọi nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong nền kinh tế và phân phối chúng cho các nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh
doanh và các nhu cầu khác của các doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức trong nền kinh
tế theo các nguyên tắc tín dụng.
Nhu cầu vốn đầu tư ngày càng tăng của nền kinh tế cũng tương đương với
việc huy động vốn của các Ngân hàng thương mại phải được tăng cường, mở rộng

cho phù hợp. Mặt khác việc tăng cường công tác huy động vốn và sử dụng vốn hợp
lý cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu quả hơn.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, nhu cầu về vốn ngày càng tăng
và đòi hỏi phải được đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Do vậy, trong thời gian tới để
phát huy hơn nữa vai trò của mình và đáp ứng cho sự phát triển của nền kinh tế
2
cũng như cho chính bản thân hệ thống ngân hàng, việc huy động vốn cho kinh
doanh trong tương lai chắc chắn sẽ được đặt lên hàng đầu đối với các ngân hàng
thương mại và NHCT Bình Định cũng không là ngoại lệ. Vấn đề tìm ra những giải
pháp để hoàn thiện công tác huy động vốn là rất thiết thực và cấp bách.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường, cùng với những kiến thức thu nhận được trong thời gian thực tập, tìm hiểu
tình hình thực tế tại NHCT Bình Định vừa qua, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một
số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn vốn tại Ngân Hàng Công
Thương Bình Định”. Làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
Luận văn được trình bày theo 3 chương với nội dung cơ bản như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác huy động vốn của NHTM.
Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Công Thương Bình
Định.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn vốn
tại Ngân Hàng Công Thương Bình Định.
3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. Tổng quan về NHTM.
1.1.1. Khái niệm NHTM.
Theo luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ tháng 10 năm 1998, NHTM
được định nghĩa như sau: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khác hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện

thanh toán”.
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai
mặt cơ bản:
- Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan nhà
nước.
- Sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Các loại hình của NHTM:
+ NHTM quốc doanh: là NHTM được thành lập bằng 100% vốn của nhà
nước.
+ NHTM cổ phần: là NHTM được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.
+ Chi nhánh NHTM nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo luật pháp
nước ngoài nhưng hoạt động theo luật pháp nước sở tại.
+ Ngân hàng liên doanh: là ngân hàng được thành lập bằng vốn góp của bên
ngân hàng Việt Nam và bên ngân hàng nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam và hoạt
động theo luật pháp Việt Nam.
Quá trình phát triển của NHTM gắn liền với quá trình phát triển của thị
trường tài chính thông qua các giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Khi mới ra đời, tổ chức và nghiệp vụ hoạt động rất đơn giản nhưng càng về sau,
theo đà phát triển của kinh tế hàng hóa, tổ chức cũng như các nghiệp vụ của các
ngân hàng càng phát triển và hoàn thiện hơn. Ngày nay các NHTM có xu hướng
phát triển ngày càng toàn diện với quy mô rộng cùng nhiều loại hình dịch vụ huy
động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội để đầu tư cho vay. Sự phát triển
4
của các ngân hàng không còn nằm trong phạm vi quốc gia mà mang tính chất toàn
cầu. Ví dụ: Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)… việc
áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống trang thiết bị hiện đại càng làm cho hoạt
động ngân hàng trở nên hoàn thiện
Hệ thống NHTM Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay đã dần khẳng định được
vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói chung và trong việc thực thi chính sách tài
chính – tiền tệ nói riêng. Vẫn với chức năng nhận tiền gửi để cho vay đối với nền

kinh tế, với vai trò trung gian tài chính trong hoạt động của mình, NHTM vẫn phải
tuân theo sự quản lý của Nhà nước mà trực tiếp là sự quản lý của Ngân hàng Trung
ương. Chính dưới sự quản lý này, hệ thống NHTM đã thực hiện được chức năng
của mình đối với nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn vê NHTM, đặc biệt là tầm quan trọng
của NHTM đối với quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, ta sẽ tìm hiểu
các hoạt động chủ yếu của NHTM.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của NHTM.
Cũng giống như một doanh nghiệp, mục tiêu chủ yếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng là tối đa hóa lợi nhuận hay nói đúng hơn là tối đa hóa giá trị
tài sản của ngân hàng và thông qua đó thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính
trong nền kinh tế. Ngân hàng tạo ra lợi nhuận bằng cách bán những tài sản nợ có
một số đặc tính (một kết hợp riêng về tính lỏng, rủi ro và lợi tức) và dùng tiền thu
được để mua những tài sản có một số đặc tính khác. Như thế các ngân hàng cung
cấp một dịch vụ chuyển một loại tài sản thành một loại tài sản khác cho công
chúng. Nghiệp vụ này đã tạo ra lợi nhuận thặng dư cho ngân hàng đồng thời tạo tiện
ích cho khách hàng để đôi bên cùng có lợi.
• Nghiệp vụ tài sản nợ (Nguồn vốn):
Đây là nghiệp vụ tạo điều kiện và tiền đề cho hoạt động của NHTM. Các
NHTM thực hiện huy động mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế dưới
mọi hình thức để thực hiện nhiệm vụ đầu tư, cho vay đối với các thành phần kinh tế,
giúp họ đổi mới trang thiết bị sản xuất, nâng cấp nhà xưởng phục vụ kinh doanh…
• Nghiệp vụ tài sản có (Sử dụng vốn):
- Nghiệp vụ dữ trữ tiền mặt:
Ngân hàng dự trữ tiền mặt nhằm duy trì khả năng thanh khoản của ngân
5
hàng, đáp ứng nhu cầu rút tiền và thanh toán thường xuyên, liên tục của khách hàng
vào bất cứ lúc nào. Dự trữ tiền mặt cao hay thấp phụ thuộc vào quy mô hoạt động,
cơ cấu và tính chất nguồn vốn của NHTM. Các khoản dự trữ của NHTM không
sinh lời.
- Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng tham gia góp vốn liên doanh, liên kết, thành

lập công ty con
- Nghiệp vụ cho vay: Cho vay là nghiệp vụ đem lại lợi nhuận chủ yếu cho
các NHTM. Các NHTM sử dụng phần lớn số tiền huy động được để cho vay đối
với nền kinh tế. Lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay là nguồn thu nhập chính
để bù đắp các loại chi phí trong hoạt động của Ngân hàng và thu lợi của NHTM.
• Các dịch vụ Ngân hàng:
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, các NHTM đã tiến hành cung
ứng các dịch vụ phục vụ khách hàng như: dịch vụ thanh toán, đại lý, tư vấn tài
chính, trên cơ sở đó Ngân hàng thu phí dịch vụ. Ngày nay do nhu cầu phát triển
của nền kinh tế đòi hỏi hoạt động dịch vụ Ngân hàng ngày càng mở rộng về số
lượng và chất lượng. Các Ngân hàng đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, áp dụng
các công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng, thực hiện tốt khâu thanh toán
không dùng tiền mặt như uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán bù
trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng máy tính, thực hiện thanh toán bằng thẻ
tín dụng…
Thực hiện tốt khâu cung ứng dịch vụ góp phần làm tăng thu nhập cho Ngân
hàng vì xu hướng phát triển trong hoạt động của NHTM hiện đại là mở rộng các
hoạt động dịch vụ, đồng thời vẫn duy trì các nghiệp vụ Ngân hàng truyền thống,
thông qua việc đa dạng hoá các hoạt động, các NHTM có thể vừa tăng thu nhập vừa
có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng
các sản phẩm tài chính.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu
nhập từ chênh lệch tỷ giá và các dịch vụ thanh toán quốc tế, đó chính là doanh lợi
hối đoái.
6
1.1.3. Nguồn vốn của NHTM.
Huy động vốn là một trong những hoạt động kinh doanh chính của ngân
hàng thương mại. Vậy trước khi tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động huy động vốn
của ngân hàng thương mại ta phải hiểu như thế nào về vốn.
Vốn phải được biểu hiện dưới hình thái giá trị của tài sản tức là vốn phải

được đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản nhất định. Mặt khác vốn không
chỉ biểu hiện thành tiền (tiền giấy, vàng, bạc, đá quý…) và phản ánh giá trị những
tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, đất đai, nhà cửa…) mà còn được biểu hiện bằng
giá trị của những tài sản vô hình (uy tín, trình độ, phát minh, sáng chế, thông tin,
công nghệ…) chính vì sự biểu hiện dưới các hình thức phong phú và đa dạng đó mà
vốn cần phải được khai thác, sử dụng có hiệu quả mới đem lại lợi nhuận cao.
Như vậy, có thể nói: Vốn là các tài sản trong xã hội được đưa vào đầu tư
nhằm mang lại hiệu quả trong tương lai. Vì thế trong nền kinh tế thị trường dù hoạt
động trong lĩnh vực nào thì vốn cũng là một yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả
của nó. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, muốn hoạt động kinh doanh có hiệu quả
mang lại hiệu quả cao thì công tác huy động cần phải được quan tâm đúng mức.
Nước ta cũng như bất kỳ nước nào khác trên thế giới, muốn thực hiện công
nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng cần phải có vốn. Vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng
đầu để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Vốn trong nền kinh tế có thể ví
như máu trong cơ thể, thiếu vốn nền kinh tế sẽ chậm phát triển. Song vốn được tạo
lập từ đâu, bằng cách nào phụ thuộc rất lớn vào cơ chế, chính sách tạo vốn.
Nguồn vốn của NHTM đóng vai trò quan trọng không chỉ trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế – xã hội. Vậy, nguồn vốn của NHTM là gì?
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền mà ngân hàng tạo lập và
huy động được để đầu tư cho vay và đáp ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập và huy động được không những giúp cho
ngân hàng tổ chức được mọi hoạt động kinh doanh mà còn góp phần quan trọng
trong việc đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp nói riêng
cũng như sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Tuy nhiên,
7
nguồn vốn của NHTM được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: vốn chủ sở
hữu, vốn huy động, vốn đi vay và các loại vốn khác.
1.1.3.1. Vốn chủ sở hữu.

Vốn chủ sở hữu có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của
NHTM, nó thực hiện một số chức năng không thể thay thế đó là: cung cấp nguồn
lực ban đầu cho ngân hàng có thể duy trì hoạt động khi ngân hàng mới thành lập, là
cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, phòng ngừa rủi ro
kinh doanh cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
 Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Đây được coi như vốn điều lệ của ngân hàng trong quy định về điều kiện
thành lập ngân hàng của pháp luật. Nguồn vồn này là lượng vốn tối thiểu mà ngân
hàng cần phải có để đáp ứng điều kiện thành lập cũng như hoạt động kinh doanh.
Các loại hình ngân hàng khác nhau thì có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác
nhau: Đối với ngân hàng quốc doanh thì nguồn vốn hình thành ban đầu là do ngân
sách nhà nước cấp, nếu là ngân hàng liên doanh thì là do các bên liên doanh đóng
góp, nếu là ngân hàng cổ phần thì các cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần
hoặc cổ phiếu của ngân hàng; nếu là ngân hàng tư nhân thì đó là vốn thuộc sở hữu
tư nhân.
 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có thể gia tăng theo nhiều phương thức khác
nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh
của ngân hàng. Đó bao gồm:
Nguồn từ lợi nhuận: Khi hoạt động kinh doanh tạo ra lợi nhuận thì ngân hàng
có thể chuyển một phần lợi nhuận thành nguồn vốn nhằm tái đầu tư. Lượng vốn tích
lũy tư thu nhập tùy theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng trong thời gian tới
cũng như cân nhắc của chủ ngân hàng về tích lũy và tiêu dùng.
Nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng nhu cầu gia
tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định…Đặc điểm của hình thức huy
động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân hàng có được lượng vốn chủ
sở hữu lớn vào lúc cần thiết.
8
 Các quỹ.

Ngân hàng có nhiều các quỹ khác nhau, mỗi quỹ được sử dụng vào những
mục đích nhất định tùy thuộc vào tình hình kinh doanh của ngân hàng. Các quỹ của
ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu
nhập của ngân hàng. Các quỹ của ngân hàng bao gồm:
- Quỹ bổ sung vốn điều lệ: có mục đích tăng cường số vốn tự có ban đầu.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. Quỹ này được trích lập
hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra.
- Ngoài ra còn có các quỹ đặc biệt khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,
quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ giám đốc,…
Dự phòng rủi ro: Dự phòng rủi ro tín dụng được các NHTM trích lập từ thu
nhập trước hoặc sau thuế (theo quy định của từng quốc gia) theo một tỷ lệ nhất định
nào đó. Khoản trích lập này là quan trọng và cần thiết cho hoạt động Ngân hàng, vì
trong nền kinh tế thị trường không thể tránh khỏi những rủi ro bất khả kháng có thể
xảy ra, khi đó, ngân hàng có thể trích các quỹ để bù đắp.
 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng mà có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn
bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào
nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.1.3.2. Nguồn huy động.
Nguồn huy động không phải là nguồn vốn thuộc sở hữu của ngân hàng
nhưng lại là yếu tố quan trọng trong hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của ngân
hàng,thường thì tiền gửi vào và tiền rút ra không đồng thời hoặc chênh lệch nhau
một lượng nhất định. Ngân hàng sẽ sử dụng lượng vốn tạm thời nhàn rỗi này vào
mục đích cho vay kiếm lời. Nguồn vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, chiếm tỷ
trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm:
 Tiền gửi giao dịch:
Là loại tiền gửi do khách hàng gửi vào nhằm mục đích giao dịch thanh toán,
chi trả các hoạt động mua bán hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi phí phát sinh

9
trong kinh doanh một cách an toàn, thuận tiện. Đặc tính cơ bản của tiền gửi giao
dịch là có thể phát séc, lãi suất thấp và có tính không ổn định.
 Tiền gửi phi giao dịch:
Bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn, chúng có tính ổn định cao,
người gửi được hưởng lãi suất cao nhưng không được phát hành séc.
Bên cạnh đó, NHTM còn có thể huy động vốn thông qua phát hành các giấy
tờ có giá như: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu và trái phiếu. Trong đó chứng chỉ tiền
gửi và kỳ phiếu là loại phiếu nợ ngắn hạn; trái phiếu là loại phiếu nợ trung, dài hạn.
Các loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đợt với mục đích, số lượng
cụ thể và chỉ phát hành khi được sự cho phép của NHTW. Đặc điểm của các loại
giấy nợ này là chúng có lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi và tiền gửi tiết kiệm,
có tính ổn định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác.
1.1.3.3. Nguồn đi vay.
Là nguồn vốn mà ngân hàng phải vay mượn thêm trong trường hợp khả
năng huy động của ngân hàng bị thiếu hụt khi nhu cầu thanh toán, chi trả cho
khách hàng tăng cao. Nguồn đi vay được hình thành dựa trên mối quan hệ vay
mượn của ngân hàng thương mại với ngân hàng trung ương, với các tổ chức tín
dụng khác hoặc giữa các ngân hàng thương mại với nhau.
Ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng trung ương khi khả năng chi
trả của ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu trong thời gian ngắn. Các NHTM
vay vốn của NHTW dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu để bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán, bổ sung vốn dự trữ Để được vay chiết khấu các NHTM phải nộp
cho NHTW các giấy tờ có giá có thời hạn còn lại là ngắn hạn xin chiết khấu như
thương phiếu, chứng khoán của Chính phủ chúng thường là các loại giấy tờ mà
chủ thể phát hành ra chúng có uy tín cao. Lãi suất chiết khấu do NHTW quy định
tùy thuộc vào mục tiêu chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kỳ. Ngân
hàng Nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, ngân hàng thương
mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định.
Để đảm bảo cho việc thanh khoản của mình, các ngân hàng thiếu hụt dự trữ

có nhu cầu vay mượn tức thời các ngân hàng thường vay mượn của nhau và vay các
tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có số dư
10
tiền gửi vượt yêu cầu chưa sử dụng sẽ sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay để tìm
kiếm lãi suất cao hơn. Quy trình vay mượn giữa các ngân hàng rất đơn giản, ngân
hàng đi vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân
hàng đại lí (và có thẻ là ngân hàng nhà nước). Khoản vay có thể có hoặc không cần
đảm bảo, dựa trên cơ sở uy tín của ngân hàng đi vay hoặc mối quan hệ giữa các
ngân hàng với nhau.
Ngoài các hình thức trên ngân hàng có thể vay mượn bằng cách phát hành
các công cụ nợ như: Kì phiếu, trái phiếu, tín phiếu trên thị trường vốn. Các khoản
vay này có ý nghĩa rất quan trọng nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng
nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn, là giải pháp tình thế cho ngân hàng
trong hoàn cảnh khó khăn.
1.2. Vai trò của nguồn vốn huy động đối với ngân hàng thương mại.
Các nguồn vốn huy động được sẽ quyết định quy mô cũng như định hướng
hoạt động của ngân hàng. Nếu nguồn vốn được coi là yếu tố đầu vào trong quá trình
kinh doanh của một NHTM thì nguồn vốn huy động được coi là yếu tố đầu vào
thường xuyên, chủ yếu nhất của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng, đầu tư chủ yếu dựa vào nguồn này.
Nguồn vốn huy động có ảnh hưởng lớn tới kết quả hoạt động kinh doanh của
NHTM. Cụ thể, nếu ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào với chi phí thấp
nó có thể mở rộng được tín dụng đầu tư và thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, với
quy mô hạn chế và chi phí cao thì ngân hàng có thể gặp khó khăn trong hoạt động
kinh doanh của mình. Chi phí huy động vốn của ngân hàng liên quan chặt chẽ với
lãi suất tiền gửi các loại, lãi suất tiền gửi tiết kiệm các loại và lãi suất các công cụ
nợ do ngân hàng phát hành.
Nguồn vốn huy động không những giúp cho ngân hàng bù đắp được thiếu
hụt trong thanh toán, tăng nguồn vốn trong kinh doanh mà thông qua huy động vốn,
ngân hàng nắm bắt được năng lực tài chính của khách hàng có quan hệ tín dụng với

ngân hàng. Qua đó, ngân hàng có căn cứ để xác định mức vốn đầu tư cho vay đối
với những khách hàng đó hoặc có thể phát hiện kịp thời tệ tham ô, trốn thuế, lừa
đảo của các doanh nghiệp làm ăn không chính đáng. Từ đó có biện pháp ngăn chặn
và xử lý kịp thời.
11
Cơ cấu nguồn vốn cũng ảnh hưởng trực tiếp tới cơ cấu cho vay của NHTM.
Vốn tự có của ngân hàng chỉ phát sinh khi nhu cầu thanh toán tín dụng cấp bách
còn ngân hàng cho vay chủ yếu bằng vốn huy động được. Nếu một ngân hàng huy
động được vốn trung và dài hạn thì có thể mở rộng nghiệp vụ tín dụng đầu tư dài
hạn. Nhưng hiện nay việc huy động vốn trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu
cầu đầu tư phát triển kinh tế nên một ngân hàng có thể dùng vốn hoạt động ngắn
hạn để cho vay trung và dài hạn nhưng không được vượt quá một tỷ lệ nhất định vì
điều đó sẽ dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán của ngân hàng.
Bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay hay nguồn vốn ngân hàng huy
động được lại là nguồn để các doanh nghiệp khác đi vay nên công tác huy động vốn
càng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy,
công tác huy động vốn là một mảng hoạt động lớn của các NHTM và nó quyết định
rất lớn đến thành công hay thất bại trong kinh doanh của ngân hàng.
1.3. Các hình thức huy động vốn.
Do NHTM huy động theo phương thức “đi vay để cho vay” mà vốn tự có
của ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn hoạt động. Do
vậy, để có thể tồn tại và phát triển, NHTM phải quan tâm tới các hình thức tạo vốn
để không ngừng mở rộng, phát triển vốn để cạnh tranh trên thị trường. Quá trình tạo
vốn được thực hiện thông qua các hình thức sau:
1.3.1. Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi.
1.3.1.1 Tiền gửi không kỳ hạn.
Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng mà khách hàng không có
thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng phải trả một mức lãi suất thấp
hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này. Bởi vì, tiền gửi không kỳ hạn của
khách hàng rất biến động, khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào, do đó ngân hàng

không chủ động sử dụng số vốn này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền để đảm bảo
có thể thanh toán ngay khi khách hàng có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai
loại:
* Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng để
thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh
12
toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách hàng. Đứng
trên góc độ là khách hàng thì đây là tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để sử dụng
các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt: Séc, thẻ thanh toán, uỷ nhiệm chi Họ
có quyền rút ra bất kỳ lúc nào thông qua công cụ thanh toán. Đứng trên góc độ ngân
hàng thì ngân hàng coi đây là một khoản tiền mà họ phải có trách nhiệm hoàn trả
cho khách hàng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên ngân hàng cần tận dụng loại tiền gửi này
để làm vốn kinh doanh của mình bởi vì trong quá trình lưu chuyển vốn của ngân
hàng do có sự chênh lệch giữa các khoản tiền gửi vào và rút ra giữa các tài khoản
của khách hàng.
* Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách
hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ hạn
thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc nào, ngân
hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thuần
tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán. Mục đích của người gửi tiền là bảo đảm an
toàn vì khách hàng không xác định được thời gian nhàn rỗi cho số tiền của họ và họ
không có nhu cầu sử dụng tiền gửi thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng.
1.3.1.2. Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về
thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi tương đối ổn định vì ngân hàng
xác định được thời gian rút tiền của khách hàng để thanh toán cho khách hàng đúng
thời hạn. Do đó ngân hàng có thể chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích
kinh doanh trong thời gian ký kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều
loại thời hạn từ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng mục đích là tạo cho khách hàng có được
nhiều kỳ hạn gửi phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Chính vì

là loại tiền gửi mà ngân hàng có quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định nên
loại tiền gửi này được trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
1.3.1.3. Tiền gửi tiết kiệm.
Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm hưởng lãi. Khi
khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng cấp cho khách hàng một cuốn sổ,
khách hàng phải quản lý và mang theo mỗi khi đến ngân hàng giao dịch.
13
Xét về bản chất, tài khoản tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của cá
nhân người lao động mà họ chưa đưa vào tiêu dùng, và là một dạng đặc biệt để tích
luỹ tiền tệ thay cho hình thức cất trữ vàng, hàng hoá. Tiền gửi tiết kiệm có ba loại:
* Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ lúc
nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Số
dư tiền gửi này không lớn, nhưng ít biến động, vì vậy đối với loại tiền gửi này các
Ngân hàng thương mại thường trả lãi suất cao hơn với tiền gửi thanh toán.
* Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời
gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn. Loại hình
tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại Việt Nam
thường huy động tiết kiệm với thời hạn phong phú từ ba tháng đến một năm.
* Tiết kiệm dài hạn: Đây là loại tiền gửi phổ biến ở một số nước công
nghiệp. Loại tiết kiệm này có tính ổn định cao bởi vì thời gian gửi tiền từ một năm
trở lên, do đó ngân hàng chủ động sử dụng nguồn vốn này, nó tạo cho ngân hàng có
tính chủ động sử dụng vốn cho mục đích vốn dài hạn. Để thu hút vốn này, ngân
hàng thường phải trả lãi suất cao.
1.3.2 Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá mà các Ngân hàng thương mại dùng để huy động vốn thực
chất là các giấy nhận nợ mà ngân hàng trao cho những người cho ngân hàng vay
tiền xác nhận quyền đòi nợ của khách hàng đối với ngân hàng ở một mức lãi suất và
ngày hoàn trả nhất định.
Việc phát hành giấy tờ có giá của ngân hàng để hình thành vốn sử dụng có
tính ổn định cao, đồng thời nhằm giải quyết những khoản vốn thiếu hụt có tính tình

thế do khả năng thu hút bằng nguồn tiết kiệm hạn chế. Ngân hàng thường sử dụng
các loại giấy tờ có giá dưới các hình thức:
1.3.2.1. Phát hành trái phiếu:
Là một cam kết xác nhận nghĩa vụ trả nợ (cả gốc và lãi) của ngân hàng phát
hành đối với người chủ sở hữu trái phiếu. Mục đích của ngân hàng khi phát hành
trái phiếu là nhằm huy động vốn trung và dài hạn. Việc phát hành trái phiếu, các
Ngân hàng thương mại chịu sự quản lý của Ngân hàng Trung Ương, của các cơ
14
quan quản lý trên thị trường chứng khoán và có thể bị chi phối bởi uy tín của ngân
hàng.
1.3.2.2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi.
Nó là những giấy tờ xác nhận tiền gửi định kỳ ở một ngân hàng. người sở
hữu giấy này sẽ được thanh toán tiền lãi theo kỳ và nhận đủ vốn khi đến hạn. Chứng
chỉ sau khi phát hành được lưu thông trên thị trường tiền tệ.
1.3.2.3. Phát hành kỳ phiếu.
Đây là loại giấy tờ có giá ngắn hạn (trong 1 năm). Nó có đặc điểm giống như
trái phiếu nhưng có thời hạn ngắn hơn trái phiếu vì vậy nó được sử dụng cho mục
đích huy động vốn ngắn hạn của ngân hàng.
1.3.2.4. Giấy tờ có giá khác.
Điển hình là việc phát hành EURO DOLLAR. Đây là hình thức phát hành
phiếu nợ để thu hút vốn ở nước ngoài. Nó có đặc điểm là chỉ dùng huy động vốn
bằng đô la và khi trả lãi và vốn gốc cũng bằng đô la. Đối với loại này ngân hàng sử
dụng để thu hút vốn huy động ngắn hạn (3 tháng). ở các trung tâm tài chính, loại
phiếu nợ này được chấp nhận như là đô la. Quyền phát hành ở một số nước trong đó
có Việt Nam được giới hạn ở một số ngân hàng đặc biệt, như Ngân hàng Ngoại
thương, Ngân hàng xuất nhập khẩu. Các ngân hàng trên được phép phát hành phiếu
nợ này ở trong nước và nước ngoài, còn với các ngân hàng khác chỉ được phát hành
ở nước ngoài.
Huy động vốn dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá các Ngân hàng
thương mại phải trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi. Vì vậy khi phát hành các

Ngân hàng thương mại phải căn cứ vào đầu ra để quyết định đến khối lượng huy
động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động phù hợp.
1.3.3. Vay Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng khác.
Đây là nguồn vốn mà Ngân hàng thương mại có được nhờ thông qua quan hệ
vay mượn giữa Ngân hàng thương mại với Ngân hàng Trung Ương hoặc các Ngân
hàng thương mại với nhau hay với các tổ chức tín dụng khác. Vốn đi vay là nguồn
vốn mà ngân hàng chịu chi phí cao hơn vốn huy động vì vậy chỉ trong trường hợp
15
ngân hàng thiếu vốn khả dụng trong thời gian ngắn nào đó thì ngân hàng mới tìm
đến các Ngân hàng thương mại khác để thoả mãn nhu cầu vốn khả dụng.
Nếu Ngân hàng thương mại không thoả mãn được nhu cầu đó từ phía các
Ngân hàng thương mại khác thì giải quyết tiếp theo là đi vay của Ngân hàng Trung
Ương. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, các Ngân hàng thương mại
có thể vay Ngân hàng Trung Ương các loại vốn: Vốn vay ngắn hạn bổ sung vốn
ngắn hạn còn thiếu của Ngân hàng thương mại hoặc vốn vay để thanh toán giữa các
ngân hàng nhằm bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong thanh toán, hoặc các Ngân
hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến Ngân hàng Trung Ương xin tái chiết
khấu (tái cấp vốn).
Ngân hàng Trung Ương thông qua nhu cầu vay vốn của Ngân hàng thương
mại với Ngân hàng Trung Ương nhằm mục đích phát hành thêm tiền Trung Ương
theo kế hoạch, bổ sung lượng vốn khả dụng cho Ngân hàng thương mại một cách
thường xuyên và là cứu cánh cho vay cuối cùng nhằm cứu nguy cho các Ngân hàng
thương mại khi cần thiết, nếu sự đổ vỡ của các Ngân hàng thương mại có thể gây
ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống ngân hàng.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn.
1.4.1. Những nhân tố khách quan.
1.4.1.1. Tình hình kinh tế- xã hội.
Đây là yếu tố khách quan đối với ngân hàng, yếu tố này ảnh hưởng chung
đến việc huy động và khơi thông nguồn vốn của cả nền kinh tế trong đó có nguồn
vốn của NHTM. Cụ thể trong một nền kinh tế phát triển nguồn tiền gửi, tiền tiết

kiệm gửi vào các NHTM ngày càng nhiều… Ngoài ra với một nền kinh tế phát triển
thì công nghệ ngân hàng được hiện đại hoá, người dân có thói quen sử dụng những
lợi ích do các NHTM cung ứng, các nghiệp vụ thanh toán chủ yếu qua ngân hàng,
ngân hàng thu được càng nhiều khoản vốn, chiếm dụng được vốn trong thanh toán.
Lạm phát là một yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy động vốn của
ngân hàng. Người dân gửi tiền vào ngân hàng hy vọng rằng họ sẽ thu được khoản
tiền lãi nhất định, lạm phát cao hoặc biến động có thể làm trượt giá đồng tiền và họ
sẽ chuyển các tài khoản của họ sang hình thái khác có tính ổn định hơn về giá trị.
16
Bên cạnh đó, các yếu tố như thu nhập của dân cư, thời vụ chi tiêu cũng là các
nhân tố ảnh hưởng tới công tác huy động vốn của các ngân hàng. Tại các thành phố
lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao sẽ hình thành một nguồn tiền
gửi lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của
nguồn tiền, thời vụ chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền.
Ví dụ: vào dịp cuối năm, nguồn tiền gửi tiết kiệm cũng như tiền gửi của các doanh
nghiệp có xu hướng giảm sút đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn
đang phổ biến như nước ta hiện nay.
1.4.1.2. Môi trường pháp lý và các chính sách kinh tế vĩ mô.
Những yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng trong
hoạt động huy động vốn cũng như các hoạt động khác của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại xây dựng các chiến lược kinh doanh cho riêng mình phải
dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước như
chính sách tiết kiệm, chính sách lãi suất, Ngân hàng nhà nước điều hành chính
sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu quả và theo sát thị trường,
phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác thì mới tạo điều kiện và
thúc đẩy phát triển các thị trường tiền tệ cũng như hoạt động của hệ thông ngân
hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng
cũng là một nhân tố quan trọng góp phần tăng cường hiệu quả hoạt động huy động
và sử dụng vốn của các ngân hàng thương mại.
1.4.2. Những nhân tố chủ quan.

1.4.2.1. Lãi suất
Với tư cách là giá vốn, lãi suất có tác động điều tiết trực tiếp đến hoạt động
tín dụng, cho vay và huy động vốn của ngân hàng, tác động đến lợi nhuận khi xem
xét kết quả kinh doanh, tính toán lãi suất chênh lệch đầu ra đầu vào. Khi lãi suất
thay đổi theo diễn biến quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, phản ánh
đúng tín hiệu của thị trường, điều đó khiến ngân hàng phải tìm kiếm, hoạch định
mức lãi suất phù hợp cho mình. Trong trường hợp lãi suất biến động do tác động
của các yếu tố phi vật chất (yếu tố tâm lí, yếu tố cạnh tranh không lành mạnh ) sẽ
có tác động bất lợi đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây là khó khăn đối
17
với các ngân hàng thương mại có quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có và khả năng tài
chính thấp. Trong trường hợp đó là viêc tăng lãi suất huy động, tác động hiệu ứng
đối với toàn bộ hệ thống, buộc các ngân hàng khác cũng phải tăng lãi suất để giữ
khách hàng gửi tiền trong khi đó có thể không thực sự có khó khăn về nguồn vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng kinh tế thường có diễn biến, thay đổi
nhanh. Lãi suất cũng là yếu tố nhạy cảm và thường xuyên thay đổi, gắn liền với sự
thay đổi của quan hệ cung cầu về vốn. Vì vậy, ngân hàng thương mại trong quá
trình hoạt động cần có sự theo dõi sát sao sự biến động đó để có những giải pháp
ứng phó kịp thời nhằm ổn định tình hình kinh doanh của mình.
1.4.2.2. Công nghệ ngân hàng.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng ngày càng có có sự cạnh tranh mạnh
mẽ không chỉ giữa các ngân hàng thương mại trong nước, mà trong tiến trình hội
nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam còn
phải chịu sự cạnh tranh gay gắt với các ngân hàng có nhiều kinh nghiệm và tiềm lực
trên toàn thế giới. Công nghệ ngân hàng cũng là một nhân tố không kém phần quan
trọng quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động huy động vốn của ngân
hàng thương mại. Công nghệ ngân hàng liên quan trực tiếp đến các mặt hoạt động
như thanh toán, giao dịch, kế toán…Một ngân hàng sở hữu công nghệ lạc hậu so
với các ngân hàng khác: hoạt động giao dịch, thanh toán và các dịch vụ còn thực
hiện thủ công dẫn đến chậm trễ trong giao dịch với khách hàng và không đa dạng

hoá được các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng, điều này sẽ làm hạn chế
khả năng thu hút vốn của ngân hàng. Chính vì vậy ngân hàng không cạnh tranh
được với các ngân hàng khác được đầu tư công nghệ hiện đại hơn. Để có thể cạnh
tranh trên thị trường huy động vốn, các ngân hàng phải không ngừng đổi mới công
nghệ, áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến vào các hoạt động giao dịch
thanh toán nhanh với khách hàng, Đối với một ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì
chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được
nhiều vốn hơn. Các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay đang đầu tư mạnh
mẽ cho công nghệ ngân hàng và coi đây như sức mạnh để cạnh tranh trên thị
trường dịch vụ tài chính. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong: ứng dụng lập
mạng thanh toán liên ngân hàng nội bộ tập trung, hệ thống quản lý vốn ngoại tệ tập
18
trung, ứng dụng dịch vụ ngân hàng điện tử, triển khai ứng dụng thanh toán SWIFT,
dịch vụ thẻ ATM đã mở ra nhiều cơ hội hơn cho ngân hàng. Các sản phẩm dịch vụ
dựa trên nền tảng công nghệ thông tin ngày càng đa dạng và phong phú hướng đến
việc tối đa hoá tiện ích và lợi ích của khách hàng.
1.4.2.3. Chiến lược Marketing ngân hàng.
Chiến lược Marketing ngân hàng cần phải được chú trọng đúng mức trong
chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng.
Xây dựng được một chiến lược Marketing hoàn chỉnh sẽ tăng khả năng sinh lợi
trong kinh doanh cũng như tăng cường công tác huy động vốn vốn của ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển, tạo
ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Trong thực tế, để
đạt được điều này không phải là đơn giản vì khi áp dụng marketing vào ngân hàng
thường gặp một số khó khăn như: Với xu hướng phát triển kinh tế, nhu cầu của
khách hàng ngày càng cao. Các ngân hàng cần phải đổi mới nhanh chóng trang thiết
bị, kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ… Thông qua công tác
marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá
cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu,
mong muốn của khách hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng.

Không những thế, công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu
cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng
thêm các khách hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các
thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược
marketing. Dựa trên yếu tố này, các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm
dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được
tập trung vào 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, ngiên cứu, tìm hiểu điều tra.
Thực thi chính sách này cần huy động toàn bộ phương tiện vật chất cần thiết
để thực hiện việc quan sát, phân tích và tổng hợp các lĩnh vực cơ bản có liên quan
đến thị trường của ngân hàng. Từ các thông tin có được ngân hàng sẽ đưa ra các

×