Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC CỦA THUẾ GTGT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.65 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thuế là nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân,
thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước, cạnh tranh
với nước ngoài.
Từ năm 1999 trở về trước, chúng ta đã sử dụng thành công cơ chế thuế cũ, tuy
nhiên trong tình hình mới , do xu hướng toàn cầu hoá chung của thế giới, cơ chế thuế hiện
hành ở Việt Nam đã lộ rõ một số mặt bất cập, dẫn đến khó khăn về quản lý, điều hành
thuế và thất thu Ngân sách quốc gia.
Vì vậy việc áp dụng một số luật thuế mới trong giai đoạn này là hết sức cần thiết.
Trong đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã có những đóng góp quan trọng cho tiến trình cải
cách chính sách thuế của Nhà nước.
Trên thế giới, thuế GTGT (hay còn gọi là VAT) đã có lịch sử lâu đời (bắt đầu xuất
hiện năm 1917) và qua quá trình kiểm nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nó đã thể hiện
được tính ưu việt của mình so với các loại thuế tương đương. Mặc dù vậy một số nước
cũng đã áp dụng không thành công thuế GTGT do chưa chuẩn bị kỹ cơ sở hạ tầng cho
một cơ chế thuế mới cũng như do chưa nắm bắt rõ bản chất loại thuế này.
Chính vì vậy mục đích của bài tiểu luận này là tìm hiểu bản chất của thuế GTGT,
đánh giá tình hình thực hiện ở Việt Nam trong những năm vừa qua và đề xuất những biện
pháp xử lý thuế trong thời gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế ở Việt Nam.
Page 1 of 22
Chương 1
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1. Khái niệm
Thuế giá trị gia tăng (GTGT) là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
2. Đối tượng chịu thuế
Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng (GTGT) là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam.
3. Người nộp thuế
Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh


và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT.
4. Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
4.1. Giá tính thuế
* Đối với hàng hóa, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa
có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế
tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế GTGT.
* Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng (+) với thuế nhập khẩu
(nếu có), cộng (+) với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định
theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu.
4.2. Thuế suất thuế GTGT
* Thuế suất 0%
* Thuế suất 5%
* Thuế suất 10%
Page 2 of 22
5. Phương pháp tính thuế GTGT
5.1. Phương pháp khấu trừ thuế
* Phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng được quy định như sau:
- Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp khấu trừ thuế bằng số thuế giá trị gia
tăng đầu ra trừ số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ.
- Số thuế giá trị gia tăng đầu ra bằng tổng số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ
bán ra ghi trên hoá đơn giá trị gia tăng.
- Số thuế giá trị gia tăng đầu vào được khấu trừ bằng tổng số thuế giá trị gia tăng ghi trên
hóa đơn giá trị gia tăng mua hàng hóa, dịch vụ, chứng từ nộp thuế giá trị gia tăng của
hàng hóa nhập khẩu.
* Phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ
kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và
đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
5.2. Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng
* Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng được quy định như sau:

- Số thuế giá trị gia tăng phải nộp theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng
bằng giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ bán ra nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng.
- Giá trị gia tăng được xác định bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra trừ giá
thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng.
* Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng áp dụng đối với các trường hợp sau đây:
Page 3 of 22
- Cơ sở kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh không có cơ sở thường trú
tại Việt Nam nhưng có thu nhập phát sinh tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế
toán, hoá đơn, chứng từ.
- Hoạt động mua bán vàng, bạc, đá quý.
6. Hoàn thuế GTGT
* Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn
thuế giá trị gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào
chưa được khấu trừ hết.
Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu
trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng
hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại
từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.
* Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia
tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị
gia tăng theo tháng.
* Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn
thuế giá trị gia tăng khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa hoặc
số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.
* Cơ sở kinh doanh có quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng của cơ quan có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Page 4 of 22
7. Hóa đơn, chứng từ

* Việc mua bán hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật
và các quy định sau đây:
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hóa đơn giá trị gia
tăng; hoá đơn phải được ghi đầy đủ, đúng nội dung quy định, bao gồm cả khoản phụ thu,
phí thu thêm (nếu có). Trường hợp bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng mà
trên hóa đơn giá trị gia tăng không ghi khoản thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng
đầu ra được xác định bằng giá thanh toán ghi trên hóa đơn nhân với thuế suất thuế giá trị
gia tăng.
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng sử dụng
hoá đơn bán hàng.
* Đối với các loại tem, vé là chứng từ thanh toán in sẵn giá thanh toán thì giá thanh toán
tem, vé đó đã bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Page 5 of 22
Chương 2
NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC
CỦA THUẾ GTGT ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Những tác động tích cực của thuế GTGT đối với nền kinh tế Việt Nam.
1.1. Vai trò cuả thuế giá trị gia tăng trong lưu thông hàng hoá.
Luật thuế doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp
thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản phẩm qua mỗi
lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu các sản phẩm, hàng hoá
chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước thu cũng tăng thêm qua các khâu nên
việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu
đã chịu thuế ở công đoạn trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Với tính ưu điểm của thuế GTGT là Nhà nước chỉ thu thuế
đối với phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông mà
không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như mô hình thuế doanh thu. Nếu như
không có các sự kiện biến động về tài chính, tiền tệ, sản xuất và lưu thông giảm sút, yếu
kém, kinh tế suy thoái và các nguyên nhân khác tác động thì việc áp dụng thuế giá trị gia
tăng thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến giá cả các sản phẩm tiêu dùng,

mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác hơn vì tránh được thuế chồng lên thuế.
Theo nghiên cứu và thống kê cuả ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng thuế giá trị gia tăng, giá cả
các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay chỉ thay đổi một tỷ lệ không đáng kể và
mức sản xuất cuả các doanh nghiệp, mức tiêu dùng của dân chúng không sút giảm, hay
chỉ sút giảm một tỷ lệ nhỏ trong thời gian đầu, kể cả các trường hợp tăng thuế suất thuế
giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng trong định kỳ điều chỉnh. Như vậy ta có thể kết
luận rằng thuế giá trị gia tăng không phải là một nhân tố gây ra lạm phát, gây khó khăn
trở ngại cho việc phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá mà trái lại, việc áp dụng thuế giá
Page 6 of 22
trị gia tăng đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy
sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu.
1.2. Vai trò cuả thuế giá trị gia tăng trong quản lý nhà nước về kinh tế
Thuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý cuả nhà nước, do đó thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng và được thể
hiện như sau:
• Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi đối với mọi
tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung ứng dịch vụ, nên
tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách nhà nước.
• Thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ nên không phải đi sâu xem xét,
phân tích về tính hợp lý, hợp lệ của các khoản chi phí, làm cho việc tổ chức quản
lý thu tương đối dễ dàng hơn các loại thuế trực thu.
• Ðối với hàng xuất khẩu không những không nộp thuế giá trị gia tăng mà còn được
khấu trừ hoặc được hoàn lại số thuế giá trị gia tăng đầu vào nên có tác dụng giảm
chi phí, hạ giá thành sản phẩm, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất
khẩu có thể cạnh tranh thuận lợi trên thị trường quốc tế.
• Thuế giá trị gia tăng cùng với thuế nhập khẩu làm tăng giá vốn đối với hàng nhập
khẩu, có tác dụng tích cực bảo hộ sản xuất kinh doanh hàng nội địa.
• Thuế giá trị gia tăng thường có ít thuế suất, bảo đảm sự đơn giản, rõ ràng. Với ít

thuế suất, loại thuế này mang tính trung lập, vì về cơ bản không can thiệp sâu vào
mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất, kinh doanh dịch vụ, tiêu dùng, theo
ngành nghề cụ thể; không gây phức tạp trong việc xem xét từng mặt hàng, ngành
nghề có thuế suất chênh lệch nhau nhiều.
• Nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của người nộp
thuế. Thông thường, trong chế độ kê khai nộp thuế giá trị gia tăng, cơ quan thuế
tạo điều kiện cho cơ sở kinh doanh tự kiểm tra, tính thuế, kê khai và nộp thuế. Từ
đó, tạo tâm lý và cơ sở pháp lý cho đơn vị kinh doanh không phải hiệp thương,
Page 7 of 22
thỏa thuận về mức doanh thu, mức thuế với cơ quan thuế. Việc kiểm tra thuế giá trị
gia tăng cũng có mặt thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải nộp và lưu
giữ chứng từ, hoá đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh
doanh từ đó tập trung được nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào ngân sách nhà nước
ngay từ khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra được việc tính thuế, nộp
thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.
• Tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá
đơn chứng từ; việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là biện pháp
kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện tốt hơn chế
độ hoá đơn, chứng từ.
• Việc khấu trừ thuế đã nộp ở đầu vào còn có tác dụng khuyến khích hiện đại hoá,
chuyên môn hoá sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm trang thiết bị mới để hạ giá
thành sản phẩm.
• Thuế giá trị gia tăng được ban hành gắn liền với việc sửa đổi, bổ sung một số loại
thuế khác như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu góp phần làm cho hệ
thống chính sách thuế cuả Việt Nam ngày càng hoàn thiện, phù hợp với sự vận
động và phát triển cuả nền kinh tế thị trường, tương đồng với hệ thống thuế trong
khu vực và trên thế giới, góp phần đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác kinh tế và thu
hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
• Nhìn chung trong các loại thuế gián thu, thuế giá trị gia tăng được coi là phương
pháp thu tiến bộ nhất hiện nay, được đánh giá cao do đạt được các mục tiêu lớn của

chính sách thuế, như tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đơn giản,
trung lập Tuy nhiên, trong thời gian đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng đã phát sinh
một số khó khăn, vướng mắc và Nhà nước ta đã từng bước tháo gỡ những khó
khăn đó trong quá trình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng.
1.3. Khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh
Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình đầu tư xây
dựng cơ bản, giảm khoảng 10% so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của công trình xây
dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình như thuế doanh thu
Page 8 of 22
, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp mua sắm tài sản
cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế.
Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hóa phát triển do
thuế GTGT chỉ thu thêm giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ qua các khâu sản xuất,
lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với 2 phương pháp tính thuế: phương pháp khấu
trừ và phương pháp trực tiếp; đã khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là thuế
chồng lên thuế, đã thúc đẩy công nghiệp hóa , hợp tác sản xuất nhất là trong lĩnh vực sản
xuất cơ khí như sản xuất, lắp ráp xe đạp, xe máy, ô tô , điện tử

1.4. Khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền
kinh tế
Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hóa xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế
suất 0%. Cùng với các biện pháp xuất khẩu như: cho phép các doanh nghiệp sản xuất
trong nước được xuất khẩu trực tiếp, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu…việc thực hiện luật
thuế GTGT có tác dụng rõ nét nhất , trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu
Thuế GTGT đánh vào hàng hóa nhập khẩu đã cùng với thuế nhập khẩu góp phần bảo hộ
có hiệu quả sản xuất trong nước, đây là biện pháp hết sức quan trọng. Việc thực hiện luật
thuế GTGT góp phần cơ cấu lại nền kinh tế được thể hiện rõ nét trên các mặt: hợp lý hóa
và giảm số thuế suất, từ đó đòi hỏi và khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu
quả, đạt và vượt mức lợi nhuận trung bình của xã hội. Không còn đánh trùng thuế như
thuế doanh thu trước đây, khuyến khích việc sản xuất kinh doanh những hàng hóa mà

Việt Nam có thế mạnh như: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ do được khấu
trừ vào một tỷ lệ ấn định từ 5% khi mua những mặt hàng này. Trường hợp nông sản, lâm
sản, hải sản xuất khẩu nếu có thuế GTGT đầu vào cũng được hoàn thuế.
1.5. Tổ chức tốt công tác quản lý hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp
Do yêu cầu của việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã thúc đẩy các doanh nghiệp , kinh
doanh chú trọng tổ chức thực hiện tốt hơn công tác mở sổ sách kế toán, ghi chép quản lý
và sử dụng hóa đơn chứng từ.
Page 9 of 22
1.6. Tăng thu ngân sách tăng cả về quy mô và tỷ trọng
Thuế GTGT sau hơn 10 năm thực hiện, đã chứng tỏ là một sắc thuế quan trọng, nó chiếm
tỷ trọng lớn - khoảng 20% tổng thu thuế và các loại phí trong tổng thu ngân sách. Cùng
với các sắc thuế khác, thuế GTGT đã góp phần hoàn thành dự toán thu ngân sách Nhà
nước, đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên của đất nước.
Bảng tổng hợp tỷ trọng thuế GTGT/tổng thu thuế và các loại phí
(Đơn vị tính: tỷ đồng)
NĂM THU THUẾ GTGT HOÀN THUẾ GTGT TỔNG THU THUẾ+PHÍ TỶ TRỌNG (%)
2004 24,175 10,915 60,890 21.78
2005 29,284 14,830 69,741 20.73
2006 34,582 18,037 80,315 20.60
2007 46,612 24,650 112,065 19.60
Dự toán 2010 65,000 36,000 177,124 16.37
(Bảng phụ lục Quyết toán thu cân đối NSNN theo lĩnh vực của Bộ Tài chính)
2. Tác động tiêu cực, những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân :
2.1. Tác động tiêu cực :
Kể từ khi ban hành cho đến nay, thuế giá trị gia tăng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt
của mọi giới, nhất là các nhà kinh doanh lớn và nhỏ. Tác động tích cực do thuế GTGT
mang lại rất rõ: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh
thu; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng mạnh mẽ, sản xuất nội địa được gia tăng
áp lực bảo hộ. Bên cạnh đó, một hiện tượng tiêu cực khá nghiêm trọng nảy sinh trong quá
trình thực thi thuế GTGT là gian lận và chiếm đoạt tiền thuế.

2.1.1. Mua bán hóa đơn
Hành vi vi phạm pháp luật về thuế của các đối tượng ngày càng liều lĩnh và tinh vi.
Nhưng việc đấu tranh thời gian qua gặp nhiều khó khăn, có vụ phải làm 7 - 8 năm mới
hoàn thành. Bọn tội phạm thường lợi dụng những sơ hở của hệ thống pháp luật, lợi dụng
sự quản lý yếu kém, sự tha hóa của một số cán bộ để thực hiện hành vi phạm tội. Do đó,
cơ quan chức năng đang triển khai nhiều biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn.
Page 10 of 22
Không cần in hóa đơn giả, nhiều phù thủy đã phù phép những chiếc hóa đơn thật để trục
lợi. Chẳng hạn như ở Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 trước đây. Để hợp thức
hóa các khoản chi bất hợp lý, Hoàng Thế Tân (Tổng giám đốc) và Lê Tất Tuận (Kế toán
trưởng) đã cho phép nhân viên mua hóa đơn khống và kê thêm tiền vào hóa đơn GTGT
vận chuyển của Công ty Dịch vụ vận tải Tiến Hưng và Doanh nghiệp tư nhân Khả Di.
Hai doanh nghiệp (DN) này đã xuất cho Công ty cổ phần Dược liệu Trung ương 2 tất cả
440 tờ hóa đơn GTGT có giá trị thanh toán gần 3 tỷ đồng. Vị tổng giám đốc này còn chỉ
đạo các nhân viên mua hóa đơn GTGT khống (chỉ xuất hóa đơn chứ không có mua bán
thật) để hoàn thuế, rút khoảng 288 triệu đồng tiền của nhà nước và cho phép nhân viên kê
thêm 1,9 tỷ đồng vào hóa đơn GTGT để hợp thức hóa một khoản tiền lớn đã chi ngoài sổ
sách. Đó là “chiêu” thường được các DN sử dụng để trục lợi.
Nhưng “cao cơ” hơn là trường hợp của ông Dương Văn Năm (Giám đốc Công ty TNHH
Ngọc Sang) chuyên kinh doanh buôn bán lương thực. Ông này đã lập ra nhiều DN khác
như Công ty TNHH Nguyễn Dương, Công ty TNHH Ngọc Giàu, Công ty CP XNK Giàu
Sang, do những người thân trong gia đình đứng tên, nhưng mọi hoạt động đều do Dương
Văn Năm quản lý, điều hành. Sau đó các DN của Năm đã cấu kết với Lê Văn Tre,
Nguyễn Văn Luật, Lê Văn Cảnh, Trần Phú Ảnh và Đỗ Văn Bạch mua hóa đơn khống của
nhiều DN ở TP.HCM, Đồng Nai… để hợp thức hóa lượng hàng hóa đầu vào, chiếm đoạt
tiền thuế của nhà nước.
Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2007, Năm đã mua hơn 100 hóa đơn để hợp thức hóa số gạo
trôi nổi nhằm trốn thuế GTGT với số tiền hơn 7,8 tỷ đồng. Sở dĩ họ mua hóa đơn ở các
DN tỉnh khác là vì hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế chưa “với tay” kiểm tra tới
các tỉnh, nhưng sự vụ đã bị cơ quan điều tra làm rõ, khởi tố hình sự.

Những chiêu thức như lập nhiều công ty “ma” để mua bán hóa đơn lẫn nhau, sau đó đi
tỉnh khác mua hóa đơn để hợp thức hóa đầu vào và xin hoàn thuế để trục lợi, vừa được
hưởng lợi từ số tiền thuế GTGT được hoàn từ ngân sách nhà nước, vừa tiếp tay cho các
DN khác trốn thuế. Bởi vậy, lập DN “ma” là hoạt động một vốn nhiều lời.
Page 11 of 22
Một cách khác trong việc xuất hóa đơn nữa, là xuất liên 1 khác liên 2. Người mua và
người bán cùng thông đồng để ghi giá trị trên liên 2 cao hơn giá thanh toán trên thực tế để
đơn vị mua tăng số thuế GTGT đầu vào, được khấu trừ sai lệch với thực tế. Bên cạnh đó,
hạ giá trị ghi ở liên 1 thấp xuống để khai báo lỗ, không phải đóng thuế thu nhập doanh
nghiệp.
2.1.2. Lập hồ sơ khống để hoàn thuế VAT
Theo Luật thuế GTGT, đối với hàng hóa xuất khẩu chịu thuế suất là 0% và được khấu trừ
toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đây là một chủ trương nhằm khuyến khích xuất
khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Để được hoàn thuế, doanh nghiệp phải có đầy đủ các
hoá đơn hợp pháp. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của nền kinh tế nước ta, những trường
hợp mua hàng là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất không có hoá
đơn được khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá trị theo bảng kê. Ngoài ra, ta cũng ban hành cơ
chế hoàn trước - kiểm sau, nhằm tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp.
Thực tế cho thấy, việc chiếm đoạt tiền thuế thông qua việc hoàn thuế và khấu trừ theo tỷ
lệ % đã và đang diễn ra ngày càng tinh vi.
Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp. Thông qua hoá đơn hợp pháp,
doanh nghiệp không chỉ khai man trốn thuế, mà còn lợi dụng chủ trương hoàn thuế để
chiếm đoạt tiền thuế, gây thiệt hại cho những doanh nghiệp chân chính. Thống kê qua các
lần thanh tra, kiểm tra và quyết toán thuế, hoàn thuế cho thấy có rất nhiều hình thức gian
lận thuế, chiếm đoạt tiền thuế thông qua hoá đơn, như:
- Sử dụng hoá đơn không do Bộ tài chính phát hành, thực chất là hoá đơn giả.
- Hoá đơn do Bộ tài chính phát hành nhưng nội dung ghi không đúng qui định.
- Các doanh nghiệp liên kết nhau hình thành đường dây “kinh doanh hoá đơn khống”
như: làm hồ sơ xuất khẩu khống
Page 12 of 22

- Một doanh nghiệp cho ra đời nhiều công ty có đăng ký kinh doanh, có mã số thuế,
nhưng không có địa chỉ, nhiều tháng không khai báo thuế, để đi mua hoá đơn.
Lợi dụng chính sách khuyến khích xuất khẩu (hàng hóa xuất khẩu có thuế xuất GTGT là
0%) để được hoàn thuế VAT, một số công ty đã lập hồ sơ xuất khẩu khống (hồ sơ đã xuất
khẩu nhưng thực sự không có hàng hóa), bằng cách lập nhiều DN “ma” làm các hợp đồng
mua bán, rồi xuất các hóa đơn khống để lập bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế.
Trường hợp kê khống hàng nông lâm sản để hoàn thuế như Công ty TNHH Bình Phong ở
đường Hậu Giang, Phường 11, Quận 6 cũng thế. Lợi dụng việc luật thuế cho phép DN lập
bảng kê hàng hóa mua vào nhằm hợp thức hóa số hàng hóa mua vào không có chứng từ,
DN đã lập bảng kê 7,8 tỷ đồng mua hàng nhưng thực tế không mua để nhận hoàn thuế.
Tóm lại, gian lận thuế không chỉ xuất hiện riêng tại Việt Nam và tương đối phức tạp. Hiện
tượng này có nguyên nhân từ khía cạnh đạo đức, trình độ dân trí, trình độ cán bộ nghiệp
vụ, phương tiện kỹ thuật và một phần không nhỏ xuất phát từ kẽ hở của pháp luật. Do đó,
chống gian lận và chiếm đoạt tiền thuế GTGT là một quá trình đòi hỏi tổng hợp nhiều yếu
tố: ý chí kiên quyết, nghiệp vụ tinh thông, lòng kiên nhẫn, sự khôn khéo và tế nhị và công
tác quần chúng thích hợp. Hỗ trợ cho những yếu tố này là hành lang pháp lý rõ ràng, kịp
thời và cứng rắn.
Cùng với hiện tượng thất thoát lớn trong lĩnh vực đầu tư cơ bản, gian lận thuế không chỉ
gây thiệt hại về mặt vật chất mà bào mòn lòng tin của dân chúng đối với Nhà nước và tạo
ra những tiền lệ xấu khiến nhiều kẻ bắt chước. Càng ngày, các vụ gian lận thương mại
càng gia tăng cả về số vụ lẫn quy mô nếu không chống gian lận thuế quyết liệt thì trật tự,
kỷ cương trong lĩnh vực tài chính công khó vãn hồi. Trên ý nghĩa đó, chống gian lận thuế
còn là một khía cạnh của chủ trương lập lại kỷ cương phép nước và phải làm ngay, làm
triệt để.
2.2. Nguyên nhân
2.2.1. Luật thuế VAT còn chồng chéo
Page 13 of 22
Quá nhiều luật thuế sửa đổi, nhiều thông tư ra đời trong khoảng thời gian ngắn, thông tin
đến với doanh nghiệp chậm chạp khiến cho doanh nghiệp không kịp cập nhật dẫn đến tình
trạng doanh nghiệp vi phạm không chủ ý , thậm chí ngay cả cán bộ thuế còn lúng túng

không cập nhật kịp để phổ biến cho doanh nghiệp.
Từ khi ra đời, thuế GTGT đã có 4 luật, 4 nghị định, 2 nghị quyết, 3 quyết định, 31 thông
tư, 282 công văn. Trong đó, chỉ riêng tháng 06/2010 đã có các văn bản sau:
- (17/6) Thông tư số 92/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính v/v hướng dẫn thủ tục gia hạn
nộp thuế và hoàn thuế giá trị gia tăng đối với thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải
chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp.
- (15/6) Công văn số 7664/BTC-TCHQ của Bộ Tài chính v/v chính sách thuế đối với ô tô
mua từ nội địa.
- (3/6) Công văn số 992/BXD-QLN của Bộ Xây dựng v/v chính sách thuế giá trị gia tăng
đối với tiền thuê nhà ở của sinh viên.
- (2/6) Công văn số 1889/TCT-DNL của Tổng cục Thuế v/v hoàn thuế giá trị gia tăng nhà
thầu nước ngoài.
- (1/6) Công văn số 6980/BTC-TCT của Bộ Tài chính v/v bù trừ thuế.
2.2.2. Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt.
Theo Thời báo Tài chính Việt Nam, dẫn nguồn tin từ Tổng cục thuế, mức phạt cao nhất là
100 triệu đồng đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hoá đơn như: lập hoá đơn
chênh lệch giữa các liên; dùng hoá đơn khống, hoá đơn giả và hoá đơn không còn giá trị;
tẩy xoá nội dung các chỉ tiêu của hoá đơn đã sử dụng. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng
hoá đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá
nhân chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không xử phạt quyết liệt thì luật pháp không
còn khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã
được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và
ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
Page 14 of 22
2.2.3. Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế
Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp
tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của
một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực
phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá

cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về
cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
2.2.4. Trình độ nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra của cán bộ thuế còn yếu kém, thiếu sự
phối hợp thông tin
Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có
thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể
xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập
khẩu phải được phối hợp kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa
phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức
thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra
những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra
sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu
máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,
2.2.5. Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói
quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành
Có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh
mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp
tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa
họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy
hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.
Page 15 of 22
2.2.6 Luật thuế vẫn còn quá nhiều kẽ hở, không chặt chẽ và rõ ràng khiến cho các
doanh nghiệp lợi dụng để lách luật và trốn thuế .
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN THUẾ GTGT TRONG THỜI GIAN TỚI
Page 16 of 22
1. Yêu cầu cơ bản để hoàn thiện thuế GTGT
Về triển khai luật thuế GTGT phải đảm bảo những mục tiêu cơ bản:
- Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các cơ sở kinh doanh trong nền

kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động, nâng cao năng lực quản lý,
tạo thêm khả năng cạnh tranh trong và ngoài nước.
- Bảo đảm không ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu của Ngân sách trung ương.
- Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá
cả, đặc biệt là giá cả vật tư, hàng hóa quan trọng cho sản xuất và tiêu dùng thiết
yếu để ổn định sản xuất, không ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân.
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy
2.1. Thuế suất
- Trong tương lai, đề nghị chỉ sử dụng hai mức thuế suất: 0% cho hàng xuất khẩu và 10%
cho tất cả các hàng hóa dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước.
Thuế suất thống nhất sẽ góp phần quản lý thuế dễ dàng hơn và tránh sự lợi dụng để đạt
thuế suất thấp hơn khi xác định thuế suất do qui định không rõ ràng .
2.2. Phương pháp tính thuế
Về giải pháp lâu dài, khi nền kinh tế đã có những bước chuyển biến nhất định, đi kèm
theo đó là sự phát triển và mở rộng quy mô của các cơ sở sản xuất, kinh doanh thì chúng
ta nên thay thế hẳn phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp bằng phương pháp khấu trừ,
chỉ cho tồn tại một phương pháp tính duy nhất cho tất cả các đối tượng, từ đó tiến đến
thống nhất một loại hoá đơn – hoá đơn GTGT. Như vậy tạo ra công bằng cho các đối
tượng tham gia nghĩa vụ thuế, công tác quản lý thuế cũng dễ dàng và thống nhất hơn,
đồng thời phương pháp này cũng phản ánh đúng đắn bản chất và ưu việt của thuế GTGT.
2.3. Hoàn thiện các quy định về khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT và việc xác định đối
tượng chịu thuế GTGT
Page 17 of 22
- Cần xem xét lại một số nhóm mặt hàng không thuộc diện chịu thuế nên chuyển
sang thuộc diện chịu thuế, hay nói cách khác là cần thu hẹp diện không chịu thuế,
để đảm bảo tính liên tục không bị đứt quãng của sự vận hành thuế (được khấu trừ
thuế đầu vào đối với cơ sở sản xuất kinh doanh mua hàng của cơ sở sản xuất kinh
doanh không thuộc diện chịu thuế GTGT).

Trong thời gian tới, đưa dần tất cả các

hàng hóa, dịch vụ vào chịu thuế GTGT. Khi đó việc khấu trừ thuế chỉ được thực
hiện dựa trên một cơ sở duy nhất là hóa đơn chứng từ.
2.4. Phải dự báo được những tác động ở mọi khía cạnh có thể có của việc thay đổi
chính sách và phải công bố những tác động này.
Ví dụ, Bộ Tài chính và Tổng cục thuế phải dự báo bằng những số liệu cụ thể khi nâng
thuế suất của thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô – tô: giá thành và giá bán sản phẩm sẽ
tăng bao nhiêu? Sản lượng cung cấp ra thị trường thay đổi như thế nào? Thuế nhập
khẩu tăng bao nhiêu phần trăm; thuế GTGT, theo đó, cũng tăng thêm bao nhiêu phần
trăm? Đặc biệt hơn cả là phản ứng của các doanh nhân như thế nào trước thay đổi
chính sách? Chính phủ và Bộ Tài chính cần hạn chế tối đa tình trạng văn bản sau phủ
định văn bản trước chỉ trong thời gian ngắn. Điều này không chỉ tạo tâm lý bất an cho
doanh nhân mà tạo kẽ hở sinh ra một hình thức kinh doanh ăn xổi ở thì mới: kinh
doanh chính sách, kinh doanh cơ chế.
3. Giải pháp về công tác tổ chức thực hiện luật thuế GTGT
3.1. Về quản lý chứng từ hóa đơn
Cần xây dựng những quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ hơn nhằm khắc phục tình
trạng sử dụng hóa đơn bất hợp pháp. Cụ thể:
 Áp dụng công nghệ tin học trong hệ thống quản lý thông tin quản lý thuế trên phạm vi
cả nước để có thể kiểm tra theo yêu cầu của doanh nghiệp, phát hiện nhanh nhất hóa
đơn bất hợp pháp, giúp doanh nghiệp không sử dụng hóa đơn bất hợp pháp.
 Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in. Sử dụng các biện pháp kỹ
thuật tiên tiến trong việc in ấn hoá đơn. Biện pháp này tăng cường trách nhiệm của
doanh nghiệp đối với việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và quản lý hoá đơn chứng từ
Page 18 of 22
3.2. Cải cách hành chính thuế
- Một biểu khai thuế cần thống nhất với chế độ kế toán, giúp cho doanh nghiệp có
thể sử dụng ngay số liệu kế toán và báo cáo tài chính để kê khai mà không cần xử
lý lại.
- Thu kịp thời là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo nguồn thu cho ngân sách song
không có nghĩa là thu trước. Thuế GTGT chỉ thu trên phần tăng giá trị, nếu chưa có

gia tăng giá trị không nên thu thuế GTGT, gây thêm khó khăn cho đơn vị vì phải
dùng vốn kinh doanh để nộp thuế làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của các
đơn vị.
- Xây dựng ý thức tự giác, thực hiện nghĩa vụ công dân trong việc nộp thuế. Người
dân cần phải hiểu và thấy được sự cần thiết của việc mua bán lẻ phải có hóa đơn
chứng từ.
- Tiếp tục đào tạo về kiến thức chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lý, đặc biệt là
cán bộ cấp cơ sở. Nâng cao ý thức, trách nhiệm cho cán bộ ngành thuế.
 Công tác kiểm tra và thanh tra thuế GTGT:
- Công tác điều tra lựa chọn các điểm nghi ngờ hoặc chọn mẫu trọng điểm, tập trung
vào các đối tượng có nghi vấn, đối tượng xin hoàn thuế.
- Tổ chức điều tra tổng quát và kết hợp điều tra trọng điểm, khi có dấu hiệu gian dối
cần chú trọng về thuế GTGT của pháp nhân như: đối tượng thực hiện các loại thuế
khóa không tốt, hoạt động kinh doanh áp dụng nhiều loại thuế suất thuế GTGT.
Các doanh nghiệp có hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT.
Tiến hành điều tra thực nghiệm sự tồn tại của doanh nghiệp tránh việc thành lập
công ty ma để mua bán hóa đơn và hoàn thuế .
3.3. Cải tiến quy chế, quy trình quản lý thu thuế, hoàn thuế :
Page 19 of 22
- Tất cả đơn vị kinh doanh phải kê khai đăng ký thuế và được cấp một mã số thuế để có
điều kiện thuận lợi cho việc xử lý thông tin về tình hình hoạt động, khai báo, tính thuế,
thông báo thuế, đảm bảo việc tra cứu, xác định tài liệu được nhanh chóng, chính xác. Cần
có sự quản lý, kiểm tra thường xuyên để phát hiện những cơ sở kinh doanh thực tế có hoạt
động nhưng không chịu kê khai để được cấp mã số.
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học trong công tác quản lý thuế, phối hợp với các địa
phương để kiểm tra tình hình thu thuế và hoàn thuế .
- Để đảm bảo tính thống nhất và công bằng trong việc áp dụng thuế GTGT, trước hết cần
hạn chế đối tượng nộp thuế GTGT theo hình thức khoán, hướng số đối tượng này mở sổ
sách kế toán để tính thuế. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành những chính sách ưu đãi về
thuế cùng với những chính sách hỗ trợ khác để khuyến khích họ mở sổ sách kế toán.

4. Các giải pháp hỗ trợ:
* Hoàn thiện Luật doanh nghiệp theo hướng thông thoáng nhưng chặt chẽ, cụ thể:
- Phải xác định nhân thân của những người xin giấy phép thành lập doanh nghiệp.
- Phải quy định điều kiện của người điều hành doanh nghiệp (về mặt văn hoá, pháp
luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp).
- Phải xây dựng những định chế để giám sát việc tạo vốn và sử dụng vốn của doanh
nghiệp, đặc biệt là số vốn họ đăng ký.
* Cần có Luật tố tụng về thuế, cho phép các cơ quan thuế có quyền điều tra, khởi tố các vụ
án chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước.
* Cần đưa vào chương trình công dân giáo dục học đường kiến thức chấp hành Luật thuế
KẾT LUẬN
Page 20 of 22
Áp dụng thuế GTGT là con đường hoàn toàn đúng đắn. Thuế GTGT tự bản thân nó
là một sắc thuế tiên tiến được áp dụng rộng rãi và thành công ở hơn 100 quốc gia trên thế
giới. Với bản chất là loại thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
nên thuế GTGT được khẳng định như một loại thuế có độ chính xác, hợp lý, khoa học và
công bằng hơn thuế doanh thu, khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế. Đồng thời
thuế GTGT còn khẳng định ưu điểm của mình trong khuyến khích hoạt động xuất khẩu,
khuyến khích đầu tư và góp phần thực hiện công bằng xã hội trong thuế. Tuy còn nhiều
hạn chế và đã tạo cơ hội cho những kẻ lợi dụng để tiến hành những hoạt động phi pháp
cũng như trục lợi cho bản thân nhưng điều đó hoàn toàn có thể khắc phục được. Bằng sự
nỗ lực của toàn xã hội, chúng ta sẽ ngày càng hoàn thiện hơn thuế GTGT để thuế thực sự
đi vào cuộc sống và phát huy hết những mặt tích cực của nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Page 21 of 22
1. Luật thuế Giá trị gia tăng số: 13/2008/QH12 ban hành ngày 03/06/2008
2. Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ban hành ngày 08/12/2008
3. Thông tư số 129 /2008/TT- BTC ban hành ngày 26/12/2008
4. Tạp chí Khoa học Đại học Huế. 2003. Số 19, 2003, trang 12-18. Code: ISNN 1859
– 1388 - Phan Thị Minh Lý & Lại Xuân Thủy- Trường Đại học Kinh tế - Đại học

Huế
5. Phụ lục 03/CKTC-NSNN - Quyết toán thu cân đối NSNN theo lĩnh vực năm 2004,
2005, 2006, 2007 – Bộ Tài Chính.
6. Phụ lục 03/CKTC-NSNN – Dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước 2010 - Bộ
Tài Chính.
Page 22 of 22

×