Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

D:Bệnh tim mạch.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (664.26 KB, 26 trang )

Những bài thuốc dân gian điều trị nóng trong
người
Sử dụng các thảo dược có vị đắng, tính mát (hoặc hàn) tác dụng thanh nhiệt, chống khô khát trong người,
nhuận tràng, giải độc, mát gan như kim ngân, sài đất, cỏ mực, cúc hoa, sắn dây, huyền sâm, sinh địa, rau
má, cỏ tranh, mã đề, râu bắp, râu mèo, rong biển…
Có thể phối hợp 5-6 vị thành một bài, liều lượng 10-12gr (khô) hoặc 30-50gr (tươi) cho mỗi loại, sắc lấy
300-500ml uống trong ngày.
- Dùng bài thuốc “trà tang cúc ẩm” (tang diệp và cúc hoa mỗi loại 10gr) rửa sạch nấu với 300ml nước, lọc
bỏ xác uống trong ngày giúp giải khát, làm mát cơ thể; nếu cảm nắng thì có thể cho thêm bạc hà, lá tre (mỗi
loại 5gr) sắc chung với hai loại trên.
- Bài thuốc “trà song hoa ẩm” gồm kim ngân hoa và cúc hoa mỗi loại 10gr, cũng sắc như trên, có thể hòa
thêm một tí mật cho tăng tác dụng bổ phế tì.

- Bài nước sâm gồm thuốc giòi, mã đề, rễ cỏ tranh, râu bắp, mía lau, lá dứa cho thơm, mỗi loại 100-200gr,
nấu sôi lược lấy nước (1-2 lít) uống cả ngày, có thể dùng cho nhiều người trong gia đình cùng uống.

- Dây lá sương sâm 100gr, khoảng 1 lít nước, hái lá già rửa sạch, vò nát trong nước chín, vắt lấy nước lát
sau sẽ đông đặc thành sương sâm; có thể ăn không hoặc thêm tí đường, vừa thanh nhiệt giải độc, vừa
nhuận trường.

- Nên ăn thêm các món canh như khổ qua, bí đao, bí đỏ, bầu, diếp cá, bồ ngót, mã đề, rau má, rau đay,
mồng tơi.

- Trái cây như dưa hấu, dưa gang, cam, bưởi, thanh long.

- Uống đủ nước để thanh lọc cơ thể và làm trẻ hóa tế bào.

Tuy nhiên, cần chú ý khi người bệnh có sốt cao do nhiễm trùng, hoặc người tì vị yếu hay bị tiêu chảy, lạnh
bụng, cảm lạnh, người già yếu không nên dùng các thuốc mát.
Đông y trị bệnh chảy máu cam
Nguyên nhân gây chảy máu cam thường không chỉ do tổn thương ở mũi mà còn do chức năng hoạt động


các tạng phế, can, thận, tỳ, vị thiếu điều đạt mà sinh bệnh. Có nhiều phương thuốc chữa chảy máu cam,
trong điều trị thường phải kết hợp trị liệu tại chỗ với điều trị toàn thân.
Thuốc tại chỗ:
Khi bị chảy máu cam thường dùng thuốc tại chỗ để chỉ huyết, có thể dùng một trong các phương sau:
- Dùng một củ gừng tươi gọt nhọn, đem nướng qua rồi nhét vào lỗ mũi.
- Sơn chi tử (quả dành dành) hoặc tông lu bì (bẹ móc), đốt cháy tán bột mịn rồi rắc vào lỗ mũi.
- Thanh tương tử (hạt mào gà trắng) sắc đặc nhỏ vào trong mũi sẽ cầm được huyết.
- Ngoài ra có thể dùng một ít tỏi và hồng đơn đồng lượng giã nhừ trộn đều, nếu xuất huyết mũi trái thì đắp
vào lòng bàn tay phải và ngược lại mũi phải thì đắp tay trái, huyết sẽ được cầm

Các thuốc đường uống:

Trong mọi trường hợp khi xuất huyết đường mũi dùng:

- Ngó sen tươi ninh với móng giò lợn, ăn vài lần.
- Ngải diệp tươi 12g, trắc bá diệp 10g, sinh địa 12g sắc uống ngày 1 thang, 2 -3 ngày liền hoặc lấy một nắm
rau muống rửa sạch, giã nát thêm ít đường và pha chút nước sôi vào uống, ngày 1 lần.
Nếu chảy máu cam liên tục dùng một trong các bài sau:

- Vương bất lưu hành 30g, sắc đặc, uống nóng, ngày 1 thang.
- Đăng tâm 40g sao vàng tán bột, hoà với 4g chu sa, chia 2- 3 lần uống với nước cơm.
- Rễ hẹ tươi 30g, rửa sạch sắc với 200 ml nước đến còn phân nửa thêm đường đỏ 10g, uống ngày 1 thang,
chia 2-3 lần. sẽ có tác dụng chỉ huyết.
- Tam thất 6g, (hoặc tông lư bì 6g), tóc người 6g (sao tồn tính), tán bột , mỗi lần uống 3g, ngày 3 lần với
nước sắc trắc bách diệp, ngẫu tiết mỗi thứ 12g.
- Nhân trung bạch (cặn nước tiểu) đem để lên hòn ngói mới cho khô, nghiền nhỏ pha thêm một ít xạ hương,
hoà rượu nóng cho uống.

Trường hợp chảy máu cam do nhiệt


Dùng bài Tứ sinh (bốn loại lá tươi) gồm tiên sinh địa hoàng 24g, ngải cứu tươi 6g, trắc bá diệp tươi 9g, hà
diệp tươi (hoặc bạc hà tươi) 9g, sắc uống
- Hoặc trúc nhự 8g, sinh địa 8g, hoàng cầm 6g, bạch thược 6g, mạch môn đông 8g. Sắc uống ngày một
thang.
- Có thể dùng thiến thảo căn 10g, trắc bách diệp 5g, sinh địa 15g, ngũ vị tử 10g, hoàng cầm 5g, cam thảo
5g. Sắc uống ngày một thang chia 2-3 lần.

Trường hợp đổ máu cam do ảnh hưởng chức năng hoạt động của các tạng trong cơ thể

- Do ăn nhiều thứ cay nóng làm cho vị nhiệt gây nên bệnh dùng thạch cao 24g, thục địa 24g, mạch môn
đông 16g, tri mẫu 12g, ngưu tất 12g, lô căn 12g, mao căn 12g. Sắc uống.
- Trường hợp âm hư hoả vượng gây chảy máu cam dùng thục địa 24g, mạch môn đông 24g, tri mẫu 24g,
ngưu tất 24g, huyền sâm 12g, a giao 12g, thiên môn đông 24g, ngẫu tiết 24g, sắc uống ngày 1 thang chia 2-
3 lần.
- Nếu do can hoả vượng bốc lên dùng bài: sinh địa 16g, đương quy 12g, hoàng cầm 8g, trắc bá diệp 8g,
xích phục linh 10g, cam thảo 6g, xích thược 12g, hương phụ 10g, sơn chi 10g, hoàng liên 6g, cát cánh 10g,
ngưu tất 12g, sắc uống.
- Nếu say sưa quá độ làm thương tổn đến phế mà nục huyết dùng bách thảo sương 20g, hoè hoa 80g, tán
thành bột, mỗi lần uống 8g, ngày 2 lần, chiêu với 60ml nước sắc bạch mao căn
- Trường hợp chảy máu cam do phế nhiệt dùng bạc hà 6g, hoàng kỳ 10g, sinh địa 16g, a giao 8g, mao căn
12g, mạch môn đông 12g, bồ hoàng 6g, bối mẫu 8g, tang bạch bì 10g, cát cánh 10g, cam thảo 6g. Sắc
uống ngày một thang chia 2-3 lần.
Theo Sức khỏe & Đời sống
Món ăn, bài thuốc bổ máu
Ngoài việc sử dụng thuốc còn rất chú trọng sử dụng phối hợp dược phẩm và thực phẩm để tạo thành các
món ăn cho dược thiện tốt, nhằm điều trị hỗ trợ và duy trì một cách tích cực đủ lượng máu nuôi cơ thể.
Sau đây là những món ăn cho thuốc dùng được cả cho người lớn và trẻ em bị thiếu máu. Tuỳ điều kiện mà
lựa chọn sao cho thích hợp, hiệu quả và thuận tiện nhất.
Bài 1: Gà hầm tam thất: Thịt gà 150g, tam thất 10g, gừng tươi 10g. Thịt gà chặt miếng nhỏ, tam thất thái
mỏng, gừng giã nát. Tất cả cho vào bát to, đổ đủ nước, đậy kín miệng rồi đem hấp cách thuỷ trong hai giờ.

Nêm đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Bài 2: Gan lợn xào nấm mèo đen: gan lợn 400g, nấm mèo đen 80g, dưa chuột 100g. Hành, gừng, bột nêm,
bột năng, dầu mè mỗi thứ vừa đủ. Nấm mèo đen ngâm nở, để ráo nước. Gan lợn rửa sạch, bỏ màng, thái
lát. Dùng bột năng, bột nêm trộn đều với gan. Dưa chuột rửa sạch, thái lát xéo, hành cắt đoạn, gừng thái
sợi. Đổ dầu vào chảo, chờ dầu nóng, thêm hành và gừng vào xào thơm. Đổ nấm mèo đen vào xào chín.
Sau đó đổ gan lợn vào đảo đều, thêm bột nêm, dưa chuột, xào lại rồi đổ ít dầu mè lên.
Bài 3: Cháo gan: Gan động vật có thể gan lợn, gà tuỳ thích 50g, rửa sạch, thái miếng nhỏ. Gạo nếp 50g,
cho nước vào nấu thành cháo nhừ cùng gan. Cháo sánh là ăn được.
Bài 4: Cháo gà nấu hoàng kỳ: Gà mái một con khoảng 500g, hoàng kỳ 15g, gạo tẻ 100g (thực đơn cho cả
nhà). Gà mái làm sạch, đun lấy nước đặc. Sắc hoàng kỳ lấy nước riêng. Sau khi trộn hai thứ nước này, nếu
thiếu cho thêm nước, rồi cho gạo vào nấu thành cháo. Ăn nóng vào sáng và tối.
Bài 5: Chè mộc nhĩ đen: Mộc nhĩ đen 15g, hồng táo 20 quả. Mộc nhĩ đen ngâm cho nở. Sau đó cho mộc nhĩ
và hồng táo vào bát to, đường phèn một chút, đem hấp cách thuỷ sau một giờ là được.
Bài 6: Chè đậu xanh táo đỏ: Đậu xanh 50g, táo đỏ 50g, đường vừa đủ. Đậu xanh ngâm nước khoảng hai
giờ, táo đỏ rửa sạch. Bắc nồi lên bếp, thêm nước, đổ đậu xanh và táo đỏ
Bài 7: Chè hà thủ ô trứng gà: Hà thủ ô 50g, trứng gà hai quả rửa sạch vỏ, đường vừa đủ. Cho hà thủ ô và
trứng gà vào nồi đun nhỏ lửa trong 30 phút, sau đó bóc vỏ trứng rồi lại cho vào đun tiếp khoảng 60 - 90
phút, thêm đường vào.
Lưu ý khi chế biến, da gà chứa nhiều chất mỡ, trước khi nấu tốt nhất loại bỏ hay sau khi nấu thì vớt váng
trên bề mặt. Ngoài ra, gan động vật nói chung và gan lợn nói riêng, tuy chứa nhiều chất sắt, giúp tạo ra tế
bào hồng cầu nhưng cũng chứa khá nhiều cholesterol, vì vậy người đang bị tăng huyết áp, mỡ máu, bệnh
mạch vành nên hạn chế sử dụng. Những người nào của tiền sử các bệnh mạn tính khi lựa chọn các bài
thuốc trên phải đến thầy thuốc để được tư vấn.
BS. Võ Thị Thu
Thiên nhiên quanh ta có rất nhiều loài hoa có
công dụng chữa bệnh huyết áp
Bài 1: Kim ngân hoa 15g, cúc hoa 15g, sơn tra 30g, tang diệp (lá dâu) 10g. Tất cả tán vụn, hãm với nước
sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà, mỗi ngày 1 thang, uống liên tục 20 ngày
là 1 liệu trình. Công dụng: sơ phong tán nhiệt, bình can tiềm dương, hạ mỡ máu và hạ huyết áp, dùng thích
hợp cho những trường hợp tăng huyết có kèm theo rối loạn lipid máu. Trong bài, 3 vị cúc hoa, sơn tra và

tang diệp đều có tác dụng hạ huyết áp, sơn tra và cúc hoa còn có khả năng hạ mỡ máu và tăng cường
lượng máu nuôi dưỡng cơ tim.
Bài 2: Cúc hoa thu hái vào mùa thu với lượng tùy ý, đem sấy hoặc phơi khô rồi tán thành bột mịn, đựng
trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày lấy 10 - 15g bột thuốc ninh với 60 - 100g gạo tẻ thành cháo, chia ăn vài
lần trong ngày. Công dụng: sơ phong tán nhiệt, thanh can giáng hỏa, giáng áp, dùng thích hợp cho người bị
tăng huyết áp thuộc thể Can uất hóa hỏa biểu hiện bằng các triệu chứng đau đầu, hoa mắt chóng mặt, mắt
đỏ, mặt đỏ, hay cáu giận, miệng đắng, họng khát, tiểu tiện vàng sẻn, chất lưỡi đỏ
Bài 3: Tề thái hoa (Capsella bursa pastoris (L.) Medic), dã cúc hoa 10g, hòe hoa 10g. Cả 3 vị cho vào bình
kín, hãm với nước sôi sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt
lương huyết, giáng áp và làm sáng mắt, dùng thích hợp cho những người bị tăng huyết áp thuộc thể Can
uất hóa hỏa với các triệu chứng như đã nêu ở trên.
Bài 4: Hoa tam thất 3g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà
trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt, bình can, giáng áp, dùng thích hợp cho người bị tăng huyết áp có kèm
theo hoa mắt, chóng mặt, ù tai Có thể phối hợp thêm với hòe hoa 10g và cúc hoa 10g.
Bài 5: Tân di hoa (còn gọi là ngọc lan hoa) 3 - 6g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì
dùng được, uống thay trà trong ngày, mỗi ngày dùng 2 ấm. Công dụng: ích phế tiêu đàm, khứ phong thông
khiếu, giáng áp, dùng cho người bị tăng huyết áp, viêm mũi, đau đầu do co thắt mạch máu.
Bài 6: Hồng hoa 15g, hòe hoa 15g, 2 vị đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: thanh nhiệt lương huyết, hoạt huyết khứ ứ, giáng áp, dùng
thích hợp cho người bị tăng huyết áp có các biểu hiện ứ huyết như có điểm đau nhói tựa kim châm cố định
ở đầu, chất lưỡi có nhiều điểm ứ huyết và xuất huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn rộng
Bài 7: Cúc bách nhật (còn gọi là thiên nhật hồng, bách nhật hồng) 20g, dã cúc hoa 20g. 2 vị đem sắc kỹ lấy
nước uống thay trà trong ngày. Công dụng: thanh can tán kết, tiêu thũng giải độc, giáng áp, dùng thích hợp
cho người bị tăng huyết áp thuộc thể Can uất hóa hỏa. Bài này nếu gia thêm hạ khô thảo 30g thì hiệu quả
càng tốt.
Bài 8: Sơn tra hoa 6g, sơn tra diệp 6g. 2 vị hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: hạ mỡ máu và giáng áp, dùng rất tốt cho những người bị tăng
huyết có kèm theo rối loạn lipid máu.
Bài 9: Hoa mẫu đơn 9 - 15g, sắc uống mỗi ngày 1 - 2 liều. Công dụng
thanh can tả hỏa, khứ phong hoạt huyết, chỉ thống giáng áp, dùng thích hợp cho những người bị tăng huyết

áp thuộc thể Can uất hóa hỏa.
Bài 10: Ninh điều hoa 12g, tuyền phúc hoa 9g. 2 vị sắc kỹ lấy nước chia uống 2 lần trong ngày. Công dụng:
tư âm dưỡng huyết, lợi khí trục thủy, giáng áp.
Bài 11: Hoa đại (bông sứ) 20 - 30g hãm hoặc sắc lấy nước uống thay trà, có thể phối hợp thêm với hoa hòe
12g, cúc hoa 12g và thảo quyết minh 12g.
Bài 12: Hoa mào gà 3 - 4 bông, đại táo 10 quả, 2 vị sắc kỹ lấy nước uống thay trà. Kết quả nghiên cứu hiện
đại cho thấy, hoa mào gà có tác dụng điều hòa nhịp tim, làm giảm lượng ôxy tiêu thụ của cơ tim và hạ huyết
áp.
Bài 13: Đài hoa hướng dương 60g sắc uống, có thể kết hợp thêm với râu ngô 30g hoặc hạ khô thảo 15g.
Bài 14: Trường xuân hoa (hoa dừa cạn) 6g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày. Cũng có thể cho thêm cúc hoa hoặc hoa hòe mỗi thứ 10g thì càng tốt.
Bài 15: Hoa mai trắng 3g, thảo quyết minh 10g, 2 thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng
được, uống thay trà trong ngày.
ThS. Hoàng Khánh Toàn (SK và ĐS)
Bài thuốc phòng bệnh thiếu máu
Bệnh thiếu máu do nhiều nguyên nhân gây ra, có thể do bệnh mạn tính, giun móc, có thai, suy dinh dưỡng,
chấn thương Biểu hiện của bệnh thiếu máu ngoài huyết sắc tố giảm, còn kèm theo hàng loạt triệu chứng
như: nóng đầu, hoa mắt, ù tai, sắc mặt xanh xao, hay hoảng sợ, tim đập nhanh, ngủ không yên, mệt mỏi rã
rời, móng tay lõm xuống dễ bị nứt nẻ, đầu óc không tập trung, ăn không ngon, nếu là nữ thì kinh nguyệt hay
thất thường (chu kỳ kinh không đều).
Đông y cho rằng, điều trị bệnh thiếu máu, ngoài việc tăng cường dinh dưỡng và bổ máu, cần phải bắt đầu
từ bổ thận, vì tinh hoa trong thận tạo ra máu. Nếu có bệnh xuất huyết mạn tính như xuất huyết nhiều lúc
hành kinh, bệnh giun móc, xuất huyết vì loét dạ dày phải kịp thời điều trị. Trước khi bồi bổ dinh dưỡng
phải chú trọng điều chỉnh khả năng tiêu hóa và hấp thụ thức ăn của dạ dày. Ngoài những thực phẩm bổ
máu như thịt, cá, cần tăng cường vitamin C, và các chất diệp lục có trong các loại hoa quả và rau tươi có
màu sắc như: quýt, cam, táo chua, đào, cà, hồng, rau cần, hạnh đào, nho, sữa ong chúa, nấm mèo đen
Nguyên nhân gây thiếu máu thường gặp nhất là thiếu sắt, ảnh
hưởng đến sự hình thành huyết cầu tố. Ngoài việc dùng thuốc, người bệnh có thể sử dụng một số bài thuốc
sau để hiệu quả cao trong hỗ trợ điều trị chứng thiếu máu.
Bài 1: Bổ huyết có tác dụng điều trị thiếu máu do thiếu sắt, làm cho da trở nên hồng hào khỏe mạnh.

Rau chân vịt tươi: 200 - 300g (để nguyên rễ), gan lợn 150g. Rửa sạch rau chân vịt, thái thành từng đoạn;
gan lợn rửa sạch thái miếng mỏng. Đun sôi nước, cho một ít gừng tươi thái nhỏ cùng với một lượng muối
vừa phải, sau đó cho gan lợn và rau chân vịt vào, tiếp tục đun cho gan chín là được. Có thể dùng làm canh
trong bữa ăn hằng ngày.
Bài 2: Có tác dụng dưỡng can ích huyết, bổ thận cố tinh; sử dụng rất thích hợp cho người gầy yếu, suy dinh
dưỡng, thiếu máu, da xanh, niêm mạc nhợt.
Hồng táo (táo tàu) 12 quả, kỷ tử 30g, gạo nếp cẩm 50g, đường 20 - 30g. Rửa sạch hồng táo, kỷ tử, gạo
nếp, cho tất cả vào xoong và đun lửa to cho sôi, sau đó chuyển sang dùng lửa nhỏ tiếp tục đun cho đến khi
chín nhừ thành cháo. Cho đường vào khuấy đều và chia làm hai phần ăn vào buổi sáng, tối.
Bài 3: Dùng 2 cái xương ống chân dê, 20 trái táo đỏ, một lượng gạo nếp vừa đủ. Đập nát xương dê cho
cùng táo đỏ và gạo nếp vào nấu cháo loãng, mỗi ngày ăn 2-3 lần, mỗi đợt điều trị ăn nửa tháng.
Bài 4: Dùng một con gà mái tơ (chừng 1,5kg), 15g vị thuốc đương quy, 30g đảng sâm. Gà làm sạch bỏ hết
nội tạng, sau đó cho đương quy, đảng sâm, hành, gừng vào trong bụng con gà, cột lại rồi đem ninh với lửa
nhỏ cho đến nhừ, đem ăn.
Những bài thuốc nói trên có thể dùng từ 7 - 10 ngày, nghỉ 10 ngày sau đó lại dùng tiếp cho đến khi đem lại
kết quả.
Bác sĩ Nguyễn Sơn
Đông y điều trị rối loạn nhịp tim
Theo y học cổ truyền, loạn nhịp tim tùy theo triệu chứng lâm sàng có thể phân các thể bệnh sau đây để điều
trị: khí âm lưỡng hư, âm hư hỏa vượng, tâm tỳ lưỡng hư và tỳ thận dương hư. Phương pháp thường dùng
trị liệu là bổ ích khí huyết, điều lý âm dương, hóa đờm địch ẩm, hoạt huyết hóa ứ, dưỡng tâm an thần.
Ngoài việc điều trị bằng thuốc, ăn uống là yếu tố quan trọng để điều trị rối loạn nhịp tim.
Sau đây là một số bài thuốc chữa bệnh
- Với thể khí âm lưỡng hư thì có triệu chứng người mệt mỏi, ra mồ hôi nhiều, hồi hộp, đánh trống ngực, ăn
uống ít, bụng đầy, người bứt rứt, khó ngủ hoặc ngủ hay mơ không ngon giấc. Phép trị là “bổ khí, dưỡng
tâm”, dùng bài thuốc gồm các vị: mạch môn, nhân sâm, sinh địa 12g, huỳnh kỳ (chích mật), tiểu mạch 16g,
chích cam thảo 8g, và 4 trái táo. Nếu có mất ngủ thì thêm sao táo nhân 16-20g, bá tử nhân 12g. Sắc uống
chia 3 lần uống trong ngày, dùng liền 7 ngày.
Hoặc có thể dùng bài thuốc sau: hà thủ ô 10g, táo đỏ 10 trái, đảng sâm 15g, gạo 100g, đường 30g. Hà thủ
ô sấy khô, tán thành bột, táo rửa sạch, bỏ hột; đảng sâm cắt miếng, gạo vo sạch. Bỏ gạo, hà thủ ô, táo vào

nồi, đổ một lượng nước vừa đủ, rồi bỏ đảng sâm vào. Nấu sôi bằng lửa lớn, vặn lửa nhỏ lại nấu thêm 30
phút, rồi bỏ đường vào khuấy đều, nấu cho gạo nở hết thì dùng được. Ngày 1 lần, dùng thay bữa ăn sáng,
mỗi lần ăn 50g cháo.
- Với thể âm hư hỏa vượng có triệu chứng hồi hộp, khó ngủ, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, nhức mỏi lưng
phép trị là “tư âm, giáng hỏa”, bài thuốc thường được dùng các vị: sinh địa, phục thần, bá tử nhân, táo nhân
16g, đảng sâm, đơn sâm, huyền sâm, thiên ma, quy đầu 12g, viễn chí, kiến cánh 8g, mạch môn 20g, ngũ vị
4g. Sắc uống chia 3 lần uống trong ngày, dùng liền 5-7 ngày.
- Với thể tâm tỳ đều hư người mệt mỏi, sắc mặt không tươi, ăn uống ít, hồi hộp, mất ngủ, hay quên, hoa
mắt bài thuốc thường dùng là “quy tỳ thang gia giảm”, gồm các vị: đương quy, bạch truật, nhãn nhục 12g,
đảng sâm, huỳnh kỳ 16g, chính cam thảo 4g, phục thần 10g, viễn chí, táo nhân (sao đen) - 8g, mộc hương
6g, thục địa 20g, sinh khương 5g, và 3 quả táo. Sắc uống chia 3 lần uống trong ngày, dùng liền 5 - 7 ngày.
- Với thể tỳ thận dương hư da khô kém tươi nhuận, phù toàn thân, người mệt mỏi, sắc mặt tái, các khớp
đau nhức, lưng gối đau mỏi, ăn uống kém dùng bài “phụ tứ lý trung thang gia giảm”, với những vị: đảng
sâm, phục linh, bạch truật, bạch thược 12g, phụ thử 10g, chích thảo 8g, nhục quế 4g.
Cách sắc (nấu) những bài thuốc trên như sau: nước thứ nhất cho các vị thuốc vào cùng 4 bát con nấu còn
1 bát, cho nước thuốc ra. Nước thứ 2 cho 3 bát nước vào tiếp nấu còn nửa bát. Hòa hai nước lại chia làm 3
lần dùng trong ngày.
ThS. Nguyễn Sơn
Đông y hỗ trợ điều trị bệnh tim mạch
Xin giới thiệu một số bài thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh tim mạch (tùy theo mức độ bệnh, điều kiện
của từng người có thể áp dụng linh hoạt).
Hỗ trợ điều trị bệnh động mạch vành, giảm mỡ máu, có tác dụng chữa chứng đầy bụng, giảm chất béo, tiêu
đờm: Sơn tra tươi 500g, mật ong 250g. Chế biến như sau: Sơn tra rửa sạch, bỏ cuống và hạt để vào nồi,
thêm vào lượng nước thích hợp, nấu đến sắp chín, nước gần cạn cho mật ong vào, đun lửa nhỏ nấu cho
đến chín chắt lấy nước. Chờ nguội cho vào chai. Uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 20ml.
Đông y trị bệnh đường máu thấp
Nói chung phát bệnh khi đói, trạng thái bệnh từ nhẹ đến nặng, số lần phát cơn từ ngẫu nhiên đền thường
xuyên. Biểu hiện đầu váng, mắt hoa, mất sức, tim hoảng loạn, đổ mồ hôi, sắc mặt màu trắng xanh, lo lắng,
run rẩy, thậm chí co giật, đột nhiên đổ ngã Theo y học cổ truyền, bệnh đường máu thấp thuộc phạm trù
“Hư lão”, “Quyết chứng”. Nguyên nhân cơ chế bệnh sinh dẫn đến bệnh đường máu thấp là do khí huyết

không đầy đủ hoặc khí hư đàm tụ.
Khí huyết không đầy đủ
Nguyên nhân: Tiên thiên bẩm phú không đầy đủ, hậu thiên lao động quá độ, ăn uống thất điều, tư lự quá
mức, sau khi bệnh phát không điều dưỡng chu đáo, dẫn tới khí huyết không đầy đủ, tâm tỳ suy.
Biểu hiện: sắc mặt trắng xanh, đầu váng mắt hoa, tứ chi mệt mỏi mất sức, mồ hôi đầm đìa, tim hồi hộp
phiền loạn.
Phép chữa: Bổ tích khí huyết, dưỡng tâm tinh thần.
Dùng bài Bát chân thang gia giảm: đẳng sâm 30g, bạch truật 9g, phục linh 9g, chích cam thảo 4,5g, sinh địa
30g, thục địa 30g, xuyên khung 9g, bạch thược 9g, đương quy 9g, long nhãn nhục 30g, sơn thù du 9g. Sắc
uống, ngày uống 1 thang, cho vào 1 lít nước sắc kỹ còn 300ml thuốc, chia uống 3 lần trong ngày sau khi ăn
30 phút.
Khí hư đàm tụ
Nguyên nhân: Ăn uống không điều độ, bệnh lâu ngày sau phẫu thuật, tình chí uất, nhiều suy tư, dẫn tới tỳ
mất vận hóa kiện toàn, tích thấp sinh đàm, đàm theo khí thăng, lên che thanh khiếu, do vậy tinh thần lơ mơ
ý loạn; nhiều đàm; đàm trọc ngăn ở trong, gây nôn mửa đàm rãi, không ăn uống được, tứ chi tê dại run rẩy.
Phép điều trị: trừ đàm khai khiếu, bổ khí phù chính.
Dùng bài thuốc: Xương bồ 15g, cam thảo 3g, nam tinh 9g, bán hạ 9g, phục linh 9g, chỉ thực 9g, thục địa
15g, đẳng sâm 10g. Sắc uống ngày 1 thang cho 1 lít nước sắc còn 300ml nước thuốc, chia uống 3 lần trong
ngày sau khi ăn 30 phút.
các yếu tố gây bệnh tim mạch
Theo Trung tâm thống kê sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ, hơn 68 triệu người dân nước này đang có ít nhất một
rối loạn về tim mạch và rất nhiều người khác được cho là có nguy cơ mắc một trong những bệnh lý nguy
hiểm này. Tại Việt Nam, điều tra gần đây có tới trên 20% số người lớn bị tăng huyết áp. Kiểm soát các yếu
tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch là vô cùng quan trọng trong việc giảm tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong do bệnh lý
tim mạch.
Thế nào là yếu tố nguy cơ? Yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch là yếu tố liên quan với sự gia tăng khả năng
mắc bệnh tim mạch. Vậy, yếu tố nguy cơ của tim mạch bao gồm:
Các yếu tố nguy cơ không thể thay đổi được
Tuổi: Hơn nửa số người bị đột quỵ tim mạch và tới 4/5 số người bị chết vì đột quỵ có tuổi cao hơn 65.
Cố nhiên là bạn không thể giảm bớt tuổi đời của mình được nhưng việc ăn uống điều độ và sinh hoạt hợp lý

có thể giúp làm chậm lại quá trình thoái hoá do tuổi tác gây ra.
Giới: Đàn ông có nguy cơ mắc bệnh mạch vành, đột qụy và các bệnh tim mạch khác cao hơn so với nữ
giới. Hiện nay, tuổi thọ của phụ nữ nói chung cao hơn nam giới trung bình 4 - 6 năm.
Yếu tố di truyền: Nếu trong gia đình bạn có người mắc bệnh tim mạch khi còn trẻ (nam dưới 55 tuổi và nữ
dưới 65 tuổi), bạn phải đặc biệt lưu ý tới việc làm giảm ảnh hưởng của bất kì yếu tố nguy cơ nào có thể
kiểm soát được và phải cảnh giác hơn để tránh được cơn đau tim hoặc đột qụy.
Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được
Tăng huyết áp: Tăng huyết áp được xác định nếu con số huyết áp luôn vượt quá 140/90mmHg.
Rất nhiều nghiên cứu cho thấy, điều trị thành công tăng huyết áp làm giảm rõ rệt các nguy cơ của nó. May
mắn thay, hiện tại chúng ta đang có rất nhiều thuốc hạ huyết áp tốt, dễ dàng dung nạp và dùng được lâu
dài.
Tăng cholesterol trong máu và các rối loạn lipid liên quan: Tăng hàm lượng các chất mỡ trong máu
(cholesterol và triglycerid) rất thường gặp. Các nghiên cứu cho thấy, nồng độ cholesterol toàn phần trong
máu là yếu tố dự báo mạnh về nguy cơ mắc bệnh mạch vành và đột qụy. Nồng độ cholesterol toàn phần
trong máu dưới 5,2mmol/dl được coi là bình thường. Khi cholesterol tăng cao sẽ đồng nghĩa với nguy cơ
đột qụy tim mạch tăng cao theo tuyến tính.
Cholesterol toàn phần bao gồm nhiều dạng cholesterol trong đó được nghiên cứu nhiều nhất là cholesterol
trọng lượng phân tử cao (HDL-C) và cholesterol trọng lượng phân tử thấp (LDL-C). Nồng độ LDL-C trên
3,0mmol/dl là yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch. Ngược lại, HDL-C được xem là có vai trò bảo vệ bạn.
Hàm lượng HDL-C trong máu càng cao thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch càng thấp (tối thiểu cũng phải cao
hơn 1,0mmol/dl).
Hút thuốc lá: 30 - 40% trong số khoảng 500.000 trường hợp chết vì bệnh mạch vành hằng năm có nguyên
nhân từ thuốc lá. Các kết quả từ nghiên cứu Framingham đã chứng minh rằng, nguy cơ đột tử cao hơn 10
lần ở nam và 5 lần ở nữ giới có hút thuốc. Thuốc lá là yếu tố nguy cơ số 1 đối với đột tử và bệnh mạch
ngoại vi.
May thay, nguy cơ mắc bệnh sẽ giảm ngay sau khi từ bỏ thuốc lá. Dần dần, mức độ nguy cơ của họ sẽ gần
như tương đương với người chưa bao giờ hút thuốc lá.
Béo phì: Trong một nghiên cứu gần đây trên 100.000 phụ nữ tuổi từ 30 - 55, nguy cơ tim mạch cao gấp 3
lần ở nhóm béo nhất so với nhóm có cân nặng thấp nhất.
Có hai dạng béo phì, ở dạng thứ nhất, mỡ thừa thường tập trung tại vùng bụng và thường gặp ở nam giới

(gọi là "bụng bia" hay người hình quả táo). Dạng thứ hai được đặc trưng bởi sự tích lũy mỡ nhiều ở vùng
mông và đùi, thường gặp ở phụ nữ (người hình quả lê). Kiểu béo phì ở bụng có liên quan với sự gia tăng
nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đặc biệt là bệnh mạch vành và đột qụy. Các nhà khoa học khuyến cáo, nếu
bạn là nam giới, tốt nhất không nên để vòng bụng vượt quá 90% vòng mông, nếu bạn là phụ nữ, hãy cố
gắng duy trì con số này dưới 80%.
Đái tháo đường và kháng insulin: Những người mắc bệnh đái tháo đường, đặc biệt là đái tháo đường xuất
hiện sau 40 tuổi (gọi là type II) có tỷ lệ mới mắc bệnh mạch vành và đột qụy cao hơn người bình thường.
Bệnh cảnh kháng insulin trong máu có thể gây tăng huyết áp và tăng lắng đọng cholesterol vào mảng vữa
xơ động mạch. Hậu quả là thúc đẩy quá trình xơ vữa và các biến chứng của nó.
Lười vận động (lối sống tĩnh tại): Lối sống tĩnh tại được coi là một nguy cơ của các nguy cơ tim mạch. Việc
vận động hằng ngày đều đặn ít nhất 45 phút mang lại lợi ích rõ rệt trong giảm nguy cơ bệnh tim mạch.
Rượu: Nếu sử dụng điều độ, tức không quá 1 - 2 chén mỗi ngày, rượu có thể giúp ngăn ngừa xơ vữa động
mạch và bệnh mạch vành. Nếu uống quá nhiều rượu (nhiều hơn 60ml rượu vang, 300ml bia, hoặc 30ml
rượu nặng) mỗi ngày làm tăng huyết áp, tăng nguy cơ tổn thương gan và biến chứng thần kinh trung ương
cũng như rất nhiều rối loạn khác.
Điều chỉnh các yếu tố nguy cơ tim mạch
- Thực hiện chế độ ăn uống có lợi cho tim, ít mỡ bão hoà và cholesterol, nhiều rau, quả, cá ; Giảm cân
nặng nếu bạn thừa cân; Hạn chế muối đưa vào cơ thể. Đa số chúng ta ăn nhiều muối hơn lượng cơ thể
chúng ta cần. Nhiều thức ăn tự nhiên đã chứa muối hoặc muối đã được thêm vào trong quá trình chế biến.
Đơn giản nhất, bạn hãy hạn chế cho muối vào thức ăn khi nấu nướng; Bắt đầu một chương trình tập luyện
thể dục. Tập luyện đều đặn có lợi cho tất cả mọi người. Bạn hãy chọn một phương pháp phù hợp với sở
thích, thời gian và khả năng của bạn. Luyện tập đều đặn, mỗi ngày ít nhất 45 phút; Nếu bạn hút thuốc, hãy
ngừng ngay; Nếu bạn uống rượu, hãy uống vừa phải; Học cách làm giảm căng thẳng, tránh phản ứng với
các tình huống có thể gây stress bởi nó chỉ làm vấn đề trở nên trầm trọng hơn mà thôi; Đi khám bệnh định
kỳ để đánh giá mức độ nguy cơ của bạn. Một hồ sơ hoàn toàn trong sạch về sức khỏe tại một thời điểm
nào đó không thể suốt đời đảm bảo được rằng bạn không có bệnh tật.
6 loại trà dược cho người viêm gan
Viêm gan thuộc phạm vi các chứng hoàng đản của y học cổ truyền, chủ yếu là chỉ bệnh viêm gan, xơ gan
hay viêm túi mật. Bệnh thường biểu hiện qua các triệu chứng hay mệt mỏi, chán ăn, giảm cân, đau hạ sườn
phải, sốt nhẹ, nước tiểu vàng sẫm, có kèm theo vàng da, vàng mắt. Nếu không được điều trị, bệnh có thể

dẫn đến xơ gan hoặc ung thư gan. Nguyên nhân là do cơ thể suy nhược, ăn uống không hợp lý, tình chí
không thoải mái, can không được sơ tiết thường làm tổn thương tỳ vị. Tỳ vị hư nhược, hàn thấp hoặc thấp
nhiệt uất kết ở trung tiêu lại gặp phải thời khí ôn dịch dễ dẫn đến viêm gan. Để điều trị, Đông y có nhiều
cách chữa hiệu quả. Xin giới thiệu một số bài trà dược tốt cho người viêm gan, giúp tăng cường chức năng
gan, phòng chữa bệnh này.
Bài 1: Phèn đen 120g, chè 120g, táo tàu vừa đủ. Phèn đen và chè tán bột mịn, trộn đều với táo, giã nát, làm
viên 3g. Mỗi lần uống 1 viên, ngày 3 lần, uống với nước chè. Công dụng: thanh nhiệt lợi thấp, trừ hoàng
đản.

Bài 2: Nhân trần 30g, đường cát trắng vừa đủ. Nhân trần nấu nước, lọc bã pha đường, cho vào phích uống
trong ngày. Ngày 1 thang. Nhân trần là vị thuốc hàng đầu thanh nhiệt lợi thấp thoái hoàng, là thứ thuốc hay
để trị viêm gan hoàng đản.

Bài 3: Xa tiền tử 300g, nhân trần 150g, lá liễu tươi 500g. Cho cả 3 thứ vào nấu nước uống. 2 ngày uống 1
thang, liên tục 15 ngày. Công dụng: thanh nhiệt, lợi đởm thoái hoàng. Chữa viêm gan hoàng đản cấp.

Bài 4: Uất kim (tẩm dấm) 10g, cam thảo sao 5g, chè 2g, mật ong 25g. Cho cả 4 thứ vào nồi, đổ 1.000ml
nước đun sôi 10 phút, lọc lấy nước uống. Ngày uống 1 thang. Công dụng: thư can giải uất, lợi thấp. Chữa
viêm gan, xơ gan, gan nhiễm mỡ…

Bài 5: Quả mận tươi 100 – 150g, chè 2g, mật ong 25g. Bổ đôi quả mận cho vào nồi, đổ khoảng 350ml
nước, đun sôi 3 phút. Cho chè và mật ong vào đun sôi lại thì bắc ra lọc lấy nước uống. Ngày 1 thang, chia 3
lần uống. Công dụng: thanh nhiệt lợi thấp, nhu can tán kết. Chữa xơ gan, thủy thũng…

Bài 6: Cỏ lưỡi rắn 25g (tươi càng tốt), cam thảo 10g, chè 3g. Cho cỏ lưỡi rắn và cam thảo vào nồi, đổ ngập
nước đun nhỏ lửa còn lại khoảng 400ml, lọc bỏ bã, đun sôi lại rồi bỏ chè vào pha. Ngày 1 thang, uống nóng
lúc nào cũng được. Công dụng: thanh nhiệt lợi thấp, tán kết giải độc. Chữa viêm gan, xơ gan, ung thư gan.

Lưu ý: Thời gian pha hoặc nấu trà không nên lâu quá, với cách pha thì dùng nước thật sôi, hãm 10 - 15
phút. Uống trà lúc đang nóng thì tốt, không nên uống cách đêm. Các dược liệu phải chọn loại có chất

lượng, tránh mốc.
Lương y Đình Thuấn
thực phẩm cho người bệnh tiểu đường
Khổ qua xào đậu phụ: Khổ qua 150g, đậu phụ 100g. Khổ qua bỏ ruột thái lát, dùng dầu xào to lửa cho chín
tái, cho đậu phụ thái lát và ít muối gia vị, tiếp tục xào to lửa cho chín đều. Cho ăn ngày 1 lần. Dùng thường
ngày cho bệnh nhân tiểu đường
Tim lợn tiềm ngọc trúc: Tim lợn 300g, ngọc trúc 30g, gừng tươi 5g, hành sống 5g. Ngọc trúc nấu lấy nước
bỏ bã để sẵn. Tim lợn thái nhỏ, cho cùng nước gừng, hành, ớt tươi luộc chín, tiếp tục đổ tiếp nước ngọc
trúc vào đun tiếp cho tim lợn chín nhừ. Thêm nước hàng, muối mắm, đường trắng, bột ngọt; đun tiếp tạo
thành nước canh đặc; Đổ lên đĩa, đợi cho nguội và đông, đổ dầu vừng đã đun sôi và để nguội lên là được.
Dùng cho các bệnh nhân có bệnh mạch vành, bệnh tim phổi, tiểu đường, lao phổi.
Vịt hầm sa sâm ngọc trúc: Vịt 1 con, sa sâm 50g, ngọc trúc 50g. Vịt làm sạch, cho cùng sa sâm, ngọc trúc,
thêm nước hầm chín, bỏ bã thuốc, thêm gia vị. Dùng cho các trường hợp âm hư, miệng khô khát nước, táo
bón, bệnh tiểu đường.
Bồ câu hầm hoài sơn ngọc trúc: Bồ câu 1 con, hoài sơn 30g, ngọc trúc 30g. Bồ câu làm sạch, cho cả hoài
sơn, ngọc trúc vào nồi, thêm gia vị, nước sạch, hầm nhừ. Dùng cho các trường hợp tiểu đường, khát nước
uống nhiều, mệt mỏi, hồi hộp thở gấp.
Rùa hầm bắp nếp: Thịt rùa 200g, ngô nếp hoặc ngô tẻ 200g. Thịt rùa chặt nhỏ, ngô tẽ lấy hạt và để cả râu,
thêm gia vị, nước sạch lượng thích hợp, hầm nhừ dạng canh xúp. Dùng cho các trường hợp tiểu đường,
tăng huyết áp.
Trai sò luộc: Sò biển (kể cả sò huyết) luộc chín, ăn với gia vị thường ngày. Tác dụng bổ âm thanh nhiệt, lợi
tiểu tán kết. Dùng cho các trường hợp vàng da phù nề, sưng hạch, bướu cổ, khí hư, huyết trắng, bệnh tiểu
đường.
Biển đậu mộc nhĩ tán: Mộc nhĩ 60g, biển đậu 60g tán bột. Mộc nhĩ, biển đậu sấy khô, tán thành bột. Mỗi lần
uống 9g, ngày 2 - 3 lần. Dùng cho bệnh nhân tiểu đường.
Thịt lợn hầm râu ngô: Thịt lợn nạc và râu ngô liều lượng thích hợp, hầm nhừ, thêm gia vị ăn. Dùng cho
bệnh nhân tiểu đường.
Râu ngô hầm ong non: Râu ngô 30g, ong non 120g, thêm nước nấu chín nhừ, thêm gia vị, cách ngày làm 1
lần. Dùng cho các bệnh nhân cao huyết áp, tiểu đường, viêm thận, viêm gan, viêm túi mật.
Nước sắc thỏ ty tử: Thỏ ty tử 60g. Sắc nước uống. Dùng giải khát cho bệnh nhân tiểu đường khát nước

uống nhiều.
Nước bột đậu xanh: Đậu xanh 200g, thêm nước, nấu chín nhừ, lọc qua vải xô lấy nước uống sáng tối, mỗi
lần Khổ qua xào thịt nạc: Cách làm tương tự, thay đậu phụ bằng thịt lợn nạc. Thực đơn này dùng cho các
trường hợp chảy máu cam, tiểu đường, đau mắt đỏ
Đậu đỏ hầm phổi dê: Phổi dê 1 lá, đậu đỏ 100g. Phổi dê thái lát, đậu đỏ, thêm nước muối, gia vị nấu nhừ.
Dùng cho bệnh nhân tiểu đường, tiểu ít, nước tiểu đỏ đục.
Sữa mạch môn ô mai: Mạch môn 20g, ô mai 12g, sắc kỹ lấy nước, bỏ bã, thêm sữa bò 30ml, khuấy lắc đều
uống. Dùng cho các trường hợp tiểu đường, khô miệng khó nuốt, nuốt đau, khát nước.
Nhựa mận vịt ngọc trúc: Ngọc trúc 50g, sa sâm 50g, vịt 1 con, hành tây 1 củ, gừng tươi 6g. Vịt làm sạch,
nấu với sa sâm, ngọc trúc, đầu tiên đun lửa to cho chín, sau đun nhỏ lửa trong 1 giờ cho chín nhừ, vớt bỏ
bã thuốc, cho gia vị. Dùng cho bệnh tiểu đường, bệnh viêm teo niêm mạc dạ dày, suy nhược, táo bón.
1 chén. Dùng cho bệnh nhân tiểu đường
Nước sắc khổ qua: Khổ qua 1 - 2 quả, tách bỏ ruột, thái lát, nấu sắc lấy nước uống. Dùng cho các trường
hợp tiểu đường, sốt cao mất nước, miệng khô, họng khát.
TS. Nguyễn Đức Quang
Món ăn - bài thuốc dành cho người mỡ máu
Đông y cho rằng chứng bệnh này là do việc trao đổi vận hóa phân bố nước bọt và mồ hôi khác thường, sinh
ra đờm đục trong cơ thể, làm trở ngại sự vận hành, sinh ra và biến đổi của khí huyết. Chức năng của ngũ
tạng có sự mất mát, lách mất đi sự vận động của nó, thận mất đi sự biến đổi, gan mất đi sự sơ thông, phổi
mất đi sự phân bố, tim mất đi vai trò chủ trì. Nên nói chứng bệnh này thuộc gốc hư ngọn thực, phép trị có
thể dùng phương pháp tiêu đờm, tiết đục, vận động kiện toàn, bổ thận, mềm gan hoạt huyết trong đó việc
kết hợp chữa trị bằng ăn uống rất quan trọng.
Nguyên tắc ăn uống
Nên ăn nhiều rau xanh, hoa quả, ăn các loại thịt nạc, thịt thỏ, thịt dê , ăn nhiều đậu và các chế phẩm từ
đậu.
Không ăn mỡ động vật và nội tạng mà thay bằng dầu thực vật.
Thay đổi cách chế biến các món ăn như tăng cường hấp, luộc, ninh, nhúng, chao, hầm; không dùng
phương pháp chế biến rán, hun, quay, nướng
Giảm ăn hoặc kiêng ăn đồ ngọt.
Món cháo thuốc phòng trị mỡ máu

Cháo hải đới đậu xanh: Hải đới tươi hoặc hải đới ngâm nở 100g, đậu xanh 50g, nước 500ml nấu cháo ngày
ăn 1-2 bát, dùng cho người mỡ máu cao, tăng huyết áp, đờm nhiệt nhiều.
Cháo bột ngô gạo tẻ: Quấy bột ngô trong nước lạnh. Gạo tẻ cho nước vừa đủ, nấu thành cháo, cho bột ngô
vào cháo quấy đều, đun sôi thành cháo. Điều trị có hiệu quả bệnh xơ cứng động mạch, bệnh động mạch
vành. Người mắc bệnh mỡ máu cao nên ăn thường xuyên.
Cháo cà rốt gạo tẻ: Cà rốt tươi 2 củ, nấu với gạo tẻ thành cháo, ăn vào hai buổi sáng, chiều. Cháo này có
thể ăn thường xuyên, kéo dài có lợi chữa và phòng bệnh tăng huyết áp, giảm lượng mỡ trong máu, tăng
cường thể lực người cao tuổi. Những người mắc bệnh đái tháo đường dùng bài thuốc này rất tốt.
Cháo gạo tẻ lá sen: Dùng 1 lá sen to, rửa sạch, sắc kỹ bỏ bã lấy nước. Cho 100g gạo vào nước lá sen, một
ít đường phèn, nấu thành cháo. Bài thuốc này chữa bệnh tăng huyết áp, mỡ máu nhiều, chứng bệnh mùa
hè cảm nóng, đầu óc choáng váng quay cuồng, tiểu ít, nước tiểu đỏ rất có hiệu quả, có tác dụng thanh
nhiệt, giảm mỡ.
* Hành tây thêm gia vị xào không hoặc luộc, kiêng dùng mỡ động vật, mỗi ngày ăn 100g, dùng cho người
mỡ máu cao kèm tăng huyết áp, bệnh van tim.
* Lấy phần cuộng dưới rau cần khoảng 20 gốc cả rễ, khoảng 500ml nước, sắc còn 200ml nước đầu uống
hết, cũng như vậy sắc nước thứ hai. Uống lúc đói là tốt nhất. Dùng cho người mỡ máu cao nhất là
cholesterol máu cao, gan dương huyết cao, huyết ứ, đờm ẩm nhiều.
Một số loại nước uống phòng trị mỡ máu
Nước sơn tra pha đường: Mỗi lần dùng 15-30g sơn tra đã phơi khô. Sau khi sơn tra đã sắc kỹ, bỏ bã, lấy
nước cho đường uống thay nước chè hàng ngày, có tác dụng giảm lượng mỡ trong máu.
* Hà thủ ô 15g, thảo quyết minh 30g, linh chi 15g, hổ trượng 30g, lá sen 15g, sơn tra 15g, lá chè 15g hãm
với nước sôi uống thay chè. Uống lâu dài có thể giảm cholesterol, làm mềm mạch máu, phòng bệnh động
mạch vành, bệnh tăng huyết áp , có tác dụng chữa bệnh mất ngủ, tiêu phù nề.
* Sơn tra 10g, hoa cúc 10g, quyết minh tử 10g, sắc nước uống thay trà, dùng cho người mỡ máu cao, thích
ăn cao lương mĩ vị và có kèm tăng huyết áp, gan dương quá mức bình thường.
* Vỏ lạc khô 50-100g rửa sạch, đun nước uống, ngày 1 thang, dùng cho người mỡ máu cao.
* Sơn tra 25g, ngân hoa 25g, cúc hoa 25g nấu nước uống thay nước chè, có tác dụng thông kinh mạch,
giảm mỡ máu.
BS. Thu Hương
(Nguồn Suckhoedoisong)

Trà dược cho người tăng huyết áp
Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến nhất trong các bệnh tim mạch. Theo quan niệm của y học cổ truyền,
tăng huyết áp là hội chứng thuộc phạm vi các chứng huyễn vựng (chóng mặt, hoa mắt), đầu thống (nhức
đầu), thất miên (mất ngủ) do các tạng can, thận, tỳ, bị mất điều hoà mà gây ra bệnh. Ngoài ra còn yếu tố
đàm thấp hay gặp ở những người bệnh tạng béo và cholesterol máu cao.
Gọi là tăng huyết áp khi huyết áp tâm thu (huyết áp tối đa) lớn hơn 140mmHg và huyết áp tâm trương
(huyết áp tối thiểu) lớn hơn 90 mmHg.
Trà tâm sen chữa tăng huyết áp, tim đập nhanh, mất ngủ.
Biểu hiện thường gặp: Người bệnh tăng huyết áp thường có biểu hiện đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai
và thường bị mất ngủ, tính tình hay cáu gắt. Phép chữa của y học cổ truyền là dùng thuốc bình can tiềm
dương, thanh can tả hỏa, hóa đờm tiêu trễ, trong đó trà dược tỏ ra hiệu quả đối với những bệnh nhân tăng
huyết áp nhẹ và vừa (huyết áp tối đa dưới 175mmHg và huyết áp tối thiếu dưới 110mmHg), được nhiều
người sử dụng.
Trà chi tử: chè búp non 30g, chi tử 30g. Hai vị trên cho vào nồi, đổ 800 – 1000ml nước đun còn 400 –
500ml. Ngày uống 1 thang, chia 2 lần sáng chiều, uống nóng. Công dụng: tả hỏa thanh can, mát máu hạ
huyết áp. Chữa tăng huyết áp, đau đầu chóng mặt.
Trà cúc hòe: hoa cúc, hoa hòe, chè xanh mỗi thứ 3g. Cho cả 3 vị vào cốc, đổ nước sôi đậy nắp ngâm 5
phút. Ngày uống 1 thang, uống dần. Công dụng: bình can trừ phong, thanh hỏa hạ huyết áp. Chữa tăng
huyết áp, đau đầu chóng mặt.
Trà thiên ma: thiên ma 6g, chè xanh 3g, mật ong vừa đủ. Cho thiên ma vào nồi, đổ một bát to nước đun sôi
20 phút sau đó cho chè vào, đun thêm mấy phút nữa là được, lọc lấy nước cho mật ong vào uống. Ngày
uống 1 thang, chia 2 lần, uống nóng, có thể ăn thiên ma. Công dụng: bình can tiềm dương, thư phong trừ
thống. Chữa tăng huyết áp, đau đầu.
Trà đỗ trọng: lá đỗ trọng, chè búp xanh loại tốt, lượng bằng nhau. Hai thứ tán bột, trộn đều, đóng thành từng
túi nhỏ bằng giấy lọc, mỗi túi 6g, cất giữ nơi khô ráo. Ngày 1 – 2 lần, mỗi lần 1 túi pha nước sôi 10 phút
uống nóng. Hoặc lấy 10g lá đỗ trọng, 3g chè pha nước sôi 10 phút hoặc đổ nước đun sôi kỹ, ngày uống một
thang, uống nóng. Công dụng: bổ gan thận, cường gân cốt. Chữa tăng huyết áp kèm bệnh tim và đau lưng
sườn.
Trà sơn tra hà diệp: sơn tra 15g, lá sen 12g. Hai thứ thái nhỏ, đổ nước vừa đủ đun sôi hoặc pha nước sôi
uống. Ngày uống 1 thang. Công dụng: tiêu mỡ hóa trễ, hạ áp giảm mỡ. Chữa tăng huyết áp, mỡ trong máu

cao, giảm béo.
Trà nhị diệp sơn tra: lá hồng 10g, sơn tra 12g, chè 3g. Cho ba thứ vào ấm, đổ nước sôi hãm 15 phút. Ngày
uống 1 thang, uống dần trong ngày. Công dụng: hoạt huyết hóa ứ, hạ áp giảm mỡ. Chữa tăng huyết áp, mỡ
trong máu cao.
Trà quyết minh la bố ma: hạt quyết minh sao 12g, la bố ma 10g. Cho hai thứ vào ấm, đổ nước sôi hãm 15
phút. Ngày 1 thang, uống dần. Công dụng: thanh nhiệt bình can, lợi tiểu. Chữa tăng huyết áp, đau đầu
chóng mặt bồn chồn bất an, giảm mỡ trong máu.
Trà tâm sen: tâm sen 3g cho vào cốc, đổ nước sôi ngâm 5 – 10 phút. Ngày uống 1 – 2 lần. Công dụng:
thanh tâm, hạ huyết áp, tỉnh táo, cầm máu. Chữa tăng huyết áp, đau đầu, tim đập mạnh, mất ngủ.
Nước cây lạc: toàn bộ cây lạc khô 50g. Cắt cây lạc thành từng đoạn nhỏ, ngâm rửa sạch, cho vào nồi đổ
nước nấu uống thay chè. Ngày 1 thang, uống lúc nào cũng được. Chữa tăng huyết áp, mỡ trong máu
cao.
Lương y Thái Hòe
Để giảm nguy cơ tai biến tim mạch khi trời rét
Nhiều người bệnh nhập viện vì chủ quan Công việc kinh doanh những ngày cuối năm khiến ông Nguyễn
Đức Dũng, 52 tuổi (Đống Đa – Hà Nội) không còn biết đến thời gian nghỉ ngơi kể cả khi miền Bắc đang
chìm trong giá rét căm căm. Nhưng tất cả những kế hoạch trong phút chốc phải dừng lại đột ngột do ông
Dũng đau thắt ngực dữ dội và huyết áp tăng kịch phát ở mức 220/185mmHg. Gia đình phải đưa ông đến
Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai trong tình trạng cấp cứu. Các bác sĩ vừa phải đặt stent nong động
mạch vành vừa dùng các biện pháp nội khoa tối ưu kiểm soát huyết áp cho bệnh nhân. Được biết, ông
Dũng phát hiện bị tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu cách đây 2 năm, thời gian đầu, ông rất chăm chỉ dùng
thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ nhưng sau một thời gian điều trị, cảm thấy sức khỏe khá ổn định ông tự
ý không uống thuốc và quay lại lối sống như trước đây, đó là hút thuốc lá, thường xuyên dùng rượu bia. Các
bác sĩ cho hay, tình trạng nhập viện của bệnh nhân Dũng rất nguy kịch, nếu không được cấp cứu kịp thời
người bệnh có thể đã tử vong. TS. Tạ Mạnh Cường - Viện Tim mạch cho biết, trong các bệnh lý tim mạch
thì cơn tăng huyết áp (THA) kịch phát là một trong những nguy cơ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm, đe
dọa đến tính mạng. Bệnh thường gặp ở những người thờ ơ với sức khoẻ, không đi khám sức khoẻ định kỳ,
họ bị THA lâu nay nhưng không hề biết hoặc không tuân thủ điều trị, khi cơn THA kịch phát xuất hiện thì đã
quá muộn, người bệnh phải chịu những biến chứng nặng nề như nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não,
phù phổi cấp Bệnh cũng dễ gặp ở bệnh nhân THA đang được điều trị chặt chẽ nhưng gặp phải sang chấn

tinh thần nặng hoặc gặp thời tiết thay đổi đột ngột.
Huyết áp tăng cao và hiện tượng co mạch trong mùa rét dễ dẫn đến tai biến tim mạch.
Tai biến mạch máu não cũng liên quan chặt chẽ đến thời tiết Các chuyên gia tim mạch cho biết, sự biến
thiên của huyết áp trong 24 giờ đã tác động đến sự hình thành bệnh lý tai biến mạch máu não. Người ta
thấy rằng, 3 giờ sáng là lúc huyết áp xuống thấp nhất, nhịp tim giảm và hô hấp cũng giảm. Vào lúc 5 giờ
sáng, huyết áp tăng nhanh, tim đập mạnh và nhịp thở đều. Quãng thời gian từ 18 – 19 giờ cũng là thời điểm
huyết áp tăng cao trong ngày. Những đặc điểm sinh lý trên khi gặp điều kiện thời tiết giá lạnh đột ngột hoặc
kéo dài khiến nhiều người bệnh ngày hôm qua họ còn khoẻ mạnh bình thường nhưng ngày hôm sau đã là
bệnh nhân, nếu không được cấp cứu kịp thời có thể tử vong. Theo PGS.TS. Nguyễn Chương - nguyên Phó
chủ nhiệm Khoa Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai, rối loạn tuần hoàn não gây không chỉ chịu tác động của
thời gian trong ngày mà còn theo mùa. Ở Việt Nam, tại miền Bắc thì bệnh xuất hiện nhiều hơn vào mùa
đông khi có gió mùa Đông Bắc, mưa phùn, trời lạnh ẩm và đặc biệt là từ lúc 4 -10 giờ. Khi huyết áp đang ở
đỉnh cao, gặp nhiệt độ thấp làm mạch máu co lại làm cho tuần hoàn não bị ngừng cung cấp máu đột ngột
gây ra tai biến mạch máu não. Biến chứng tim mạch tăng trong mùa đông PGS.TS. Nguyễn Quang Tuấn -
Viện Tim mạch Việt Nam cho biết, tỷ lệ tử vong do bệnh động mạch vành có mối liên quan chặt chẽ giữa
nhiệt độ trung bình của tháng. Nhiệt độ thấp (thời tiết lạnh) làm tăng tiết các catecholamin dẫn đến co mạch
ngoại biên, làm tăng lượng máu trở về tim và tăng huyết áp, do vậy làm tăng nhu cầu ôxy của cơ tim. Đồng
thời các catecholamin cũng gây co thắt động mạch vành làm giảm cung cấp máu và ôxy cho cơ tim. Nếu
động mạch vành của bệnh nhân đã bị tổn thương có thể sẽ gây ra triệu chứng đau thắt ngực hay gây nhồi
máu cơ tim cấp. Huyết áp về mùa đông tăng cao hơn huyết áp về mùa hè khoảng 5mmHg, sự duy trì liên
tục mức tăng huyết áp này làm tăng tới 21% các biến chứng tim mạch trong mùa đông. Thời tiết lạnh cũng
làm tăng số lượng tiểu cầu, tăng hồng cầu và độ nhớt của máu làm tăng nguy cơ bệnh động mạch vành, tai
biến mạch máu não và bệnh mạch máu ngoại vi. Để hạn chế những tác động xấu của thời tiết với các bệnh
nhân tim mạch, các chuyên gia tim mạch khuyến cáo người bệnh nên có một chế độ sinh hoạt điều độ,
đúng giờ. Giữ ấm vào mùa đông, tránh bị gió lùa và nhiễm lạnh đột ngột. Các bệnh nhân bị tăng huyết áp
nên uống các thuốc hạ huyết áp theo chỉ định của bác sĩ. Các thuốc hạ huyết áp được kê đơn uống vào
buổi sáng thì nên được uống ngay khi ngủ dậy, trước khi làm vệ sinh thân thể hay ăn sáng. Các bệnh nhân
bị tăng huyết áp hay có bệnh động mạch vành nên được theo dõi định kỳ, đặc biệt là khi chuyển mùa, khi
thời tiết thay đổi để có biện pháp phòng ngừa và điều trị kịp thời. LÊ HẢO
Đông Y và các vị thuốc quen thuộc trị cao huyết

áp
Từ trước đến nay dân gian vẫn dùng các vị thuốc Đông Y để điều trị cao huyết áp lâu dài. Mà trong
đó nhiều vị rất quen thuộc
1. Hoa hòe

Đây là vị thuốc Đông Y đặc biệt thông dụng với những bệnh nhân cao huyết áp. Trong hoa hòe có chứa
Rutin, rutin cũng chính là hoạt chất có tác dụng hạ áp và là hoạt chất chính trong nhiều thuốc hạ áp Tây Y.
Rutin còn có tác dụng làm bền thành mạch.

Để có tác dụng hạ áp tốt nhất nên dùng nụ hoa vì trong nụ hoa có chứa nhiều Rutin nhất.
Nếu bạn bị cao huyết áp có thể hàng ngày pha một ấm trà hoa hòe. Chỉ cần một nhúm hoa thơm nồng đã
được sao vàng bỏ vào ấm nước sôi, là bạn sẽ có những cốc trà vị thanh, ấm sẽ rất dễ chịu trong tiết trời
lạnh giá.

Ngoài tác dụng hạ áp, hoa hòe sao cháy còn có tác dụng chỉ huyết chữa ho ra máu, thổ huyết, chảy máu
cam, băng huyết

2. Khổ qua hay còn gọi là mướp đắng

Khổ qua vị đắng, tính mát có tác dụng lợi niệu, hạ áp. Những bệnh nhân cao huyết áp dùng các món ăn về
khổ qua sẽ rất ngon, bổ dưỡng mà còn có tác dụng hạ áp rất tốt.
Khổ qua còn có tác dụng trị rôm sẩy, giải độc. Trẻ em sởn nốt mẩm ngứa, mọc rôm sẩy dùng nước mướp
đắng để tắm sẽ có tác dụng rất tốt.

3. Cúc hoa

Hoa cúc không chỉ là loài hoa dùng để trang trí làm đẹo mà nó còn có tác dụng bình can hạ huyết áp. Cúc
hoa thường dùng để phối hợp với hoa hòe, hoa kim ngân, đinh lăng tạo thành chè hạ áp.

Cúc hoa còn có tác dụng thanh can sáng mắt và chữa cảm mạo phong nhiệt chữa sốt cao, đau đầu mắt đỏ.


Ngoài ra, cúc hoa có khả năng ức chế nhiều loại vi khuẩn như tụ cẩu, liên cầu…

4. Ngưu tất

Tác dụng làm giảm cholesterol máu vì vậy ngưu tất còn có tác dụng làm giảm mỡ máu phòng chống xơ vữa
mạch máu phòng và điều trị cao huyết áp.

Ngưu tất có tác dụng to lớn là bổ can thận mạnh gân cốt chữa đau mỏi khớp, đau lưng, mỏi gối…

5. Tang chi, tang kí sinh

Hẳn các bạn sẽ thấy trong rất nhiều các thang thuốc chữa cao huyết áp thường có hai vị thuốc liên quan
đến cây dâu này. Tang chi là cành của cây dâu non, còn tang ký sinh là thân cây tầm gửi sống trên cây dâu.
Bạn chú ý nhé nếu khi mắt có màng mộng thì không nên dùng tang ký sinh.

6. Râu ngô
Ngay cả những râu ngô rất bình dị mà mọi người thường bỏ đi mỗi khi sử dụng bắp ngô lại là vị thuốc hạ áp
rất hữu hiệu. Râu ngô có tác dụng tăng lượng nước tiểu từ 3 đến 4 lần nên có tác dụng hạ áp rất tốt.

Râu ngô còn làm tăng sự bài tiết của mật và làm giảm lượng bilirubin trong máu nên có tác dụng lợi mật.

7. Tâm sen

Người cao huyết áp thường đau đầu, mất ngủ. Tâm sen có chứa nucifera có tác dụng dưỡng tâm an thần
chữa mất ngủ. Tâm sen hay dùng để hãm chè uống buổi tối dành cho người mất ngủ giấc ngủ sẽ sâu và
ngon hơn.

8. Ý dĩ


Hay còn gọi là hạt bo bo. Bạn có nhớ nó là loại hạt cứu đói trong thời kỳ bao cấp?
Ý dĩ vị ngọt, nhạt, tính hơi hàn. Ý dĩ còn dùng kèm trong các vị thuốc để hỗ trợ điều trị cao huyết áp. Ý dĩ
sao vàng còn có tác dụng kiện tỳ rất tốt dùng khi cơ thể mệt mỏi, tiêu hóa kém

Trong Đông Y còn rất nhiều vị thuốc điều trị cao huyết áp tốt nhưng ngoài ra bạn cần rèn cho mình một thói
quen ăn uống, sinh hoạt khoa học để thu được hiệu quả tốt nhất.

Thùy Trang-Dantri
Đông y chữa bệnh tiểu đường
Khái niệm

Biểu hiện chủ yếu của tiểu đường người xưa gọi là “tam đa, nhất thiểu”, nghĩa là ăn nhiều, uống nhiều, đái
nhiều và sút cân nhanh. Về trị liệu, cổ nhân thường lấy biện chứng “tam tiêu” làm cơ sở, nghĩa là phân chia
thành 3 thể: thượng tiêu (phần trên cơ thể, gồm tâm và phế), trung tiêu (phần giữa cơ thể, gồm tỳ và vị) và
hạ tiêu (phần dưới của cơ thể, gồm can, thận, tiểu trường, đại trường và bàng quang).
Nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh
Theo cổ nhân, tiêu khát phát sinh chủ yếu do các nguyên nhân như bẩm thụ tiên thiên bất túc, ẩm thực bất
điều (ăn uống bất hợp lý), tình chí thất điều (yếu tố tâm thần kinh), ngoại cảm lục dâm (yếu tố môi trường,
nhiễm khuẩn), cửu phục đan dược (dùng thuốc bất hợp lý), trường kỳ ẩm tửu, phòng lao bất điều (tửu sắc
và lao lực quá độ)… Các nguyên nhân này tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm rối loạn công năng các
tạng phủ, trong đó đặc biệt là ba tạng: tỳ, phế và thận, từ đó mà phát sinh tiêu khát.
Nguyên tắc trị liệu
- Điều trị toàn diện, nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm chỉnh thể, coi nhân thể là một khối thống nhất.
Toàn diện nghĩa là: (1) trong trị liệu phải luôn luôn chú ý xem xét và điều chỉnh công năng tạng phủ bị bệnh
trong mối quan hệ ràng buộc và tác động qua lại với tất cả các tạng phủ khác; (2) sử dụng tổng hợp các
biện pháp: dùng thuốc và không dùng thuốc, thuốc và chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện khí công dưỡng
sinh…


- Biện chứng luận trị, nghĩa là phải căn cứ vào bệnh

cảnh lâm sàng cụ thể và giai đoạn bệnh, đặc điểm về
thể chất, giới tính, tuổi tác… của từng người bệnh mà
lựa chọn thuốc và các biện pháp trị liệu cho phù hợp.
- Chú ý vận dụng các liệu pháp có tính tự nhiên như
dược thiện (món ăn – bài thuốc), trà dược, xoa bóp, bấm huyệt, khí công, dưỡng sinh… Nguyên tắc này
dựa trên quan điểm “thiên nhân hợp nhất”: con người và tự nhiên là thống nhất, con người khởi nguồn từ tự
nhiên, dựa vào tự nhiên, phát triển cùng với tự nhiên.
Phương pháp cụ thể
Có thể chia làm hai biện pháp lớn là dùng thuốc và không dùng thuốc
Dùng thuốc: Thường theo 3 phương thức biện chứng luận trị, chuyên bệnh chuyên phương và vận dụng
kinh nghiệm dân gian.
- Biện chứng luận trị: Tùy theo từng thể bệnh mà lựa chọn các vị thuốc và bài thuốc cho phù hợp. Ví như:
với thể táo nhiệt thương phế biểu hiện bằng các triệu chứng phiền khát, uống nhiều, ăn nhiều, họng khô
miệng táo, tiểu tiện nhiều lần, đại tiện táo, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng khô… thì chọn dùng bài thuốc Tăng dịch
thừa khí thang gia giảm; với thể thận âm khuy hư biểu hiện bằng các triệu chứng người gầy, tiểu tiện nhiều
lần, đầu choáng mắt hoa, tai ù, tai điếc, hay có cảm giác sốt nóng về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng,
đổ mồ hôi trộm, họng khô, miệng khát, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ không có rêu… thì chọn dùng bài thuốc Tả
quy hoàn gia giảm, với thể tỳ hư đàm trệ biểu hiện bằng các triệu chứng người béo trệ, hay chướng bụng,
ăn kém, chậm tiêu, đầu nặng, tay chân rã rời, lưỡi bệu có vết hằn răng… thì chọn dùng bài thuốc Hoắc
phác hạ linh thang gia giảm…
Mướp đắng.
- Chuyên bệnh chuyên phương: Là phương pháp sử dụng một bài thuốc cố định dùng chung cho tất cả
các thể bệnh, cũng có thể gia giảm nhưng số lượng không nhiều. Ví như: Ở Trung Quốc, các nhà y học cổ
truyền đã nghiên cứu và xây dựng hàng chục phương thuốc trị liệu tiểu đường khác nhau như: tiêu khát
linh, thủy điệt tam hoàng thang, giáng đường tụy phúc khang, phức phương tam tiêu thang, ích khí tư thận
thang, sinh tân ngọc dịch cao, giáng đường kháng niêm phương, bối qua ẩm, ích nhân đường, giáng đường
ẩm II… Thực chất, đây là phương pháp trị liệu theo phương thức “biện bệnh luận trị”.
- Vận dụng kinh nghiệm dân gian: Đây là phương pháp trị liệu thường rất đơn giản, dễ kiếm, dễ dùng, rẻ
tiền và có hiệu quả ở các mức độ khác nhau. Kinh nghiệm trị liệu tiểu đường trong dân gian là rất phong
phú nhưng chưa được chú ý đúng mức và khai thác hết. Ví như: dùng lá ổi, rễ cây dâm bụt, rễ cây dâu tằm,

Hải sâm.
mướp đắng, thiên hoa phấn, củ mài, hoàng liên… sắc uống; dùng dưa hấu, cà rốt, lê, dưa chuột, bí đao,
mướp đắng… ép lấy nước uống hằng ngày; dùng con gián hoặc cương tàm sao vàng tán bột uống…
Không dùng thuốc: Là sử dụng các liệu pháp tự nhiên như châm cứu, bấm huyệt, xoa bóp, dược thiện, trà
dược, cháo thuốc, dán thuốc vào huyệt, tắm thuốc, tập luyện khí công dưỡng sinh… Ví như, chế độ ăn nên
trọng dụng các loại thực phẩm như râu ngô, các chế phẩm của đậu tương và đậu đen, xích tiểu đậu, bạch
biển đậu, mướp đắng, bí đỏ, bí đao, dưa hấu, tỏi, hoài sơn, hành tây, rau cần, cà rốt, củ cải, măng, hẹ, ngân
nhĩ, hải tảo, tụy lợn, cá quả, cá trạch, hải sâm…; thường xuyên dùng các loại trà dược như khổ qua trà,
nam qua phấn giáng đường trà, ngọc mễ tu trà, la hán quả trà, mạch môn hoàng liên trà, hoàng tinh ngọc
trúc trà, mạch đông sinh địa tiêu khát trà, cát phấn ngọc tuyền trà, dương sâm hoa phấn tiêu khát trà…; có
thể dùng các loại cháo thuốc như cháo tụy lợn, cháo khổ qua, cháo nhị phấn trư đỗ, cháo địa cốt bì ngọc
mễ tu, cháo đông qua dĩ nhân…
ThS. Hoàng Khánh Toàn – suckhoedoisong.vn
Ngâm chân phòng chống cao huyết áp
Một số công thức nước ngâm
- Từ thạch, thạch quyết minh, đẳng sâm, hoàng kì, đương quy, tang chi, chỉ xác, ô dược, mạn kinh tử, bạch
tật lê, bạch thược, đỗ trọng, ngưu tất, mỗi vị 6g, độc hoạt 18g, sắc lấy nước ngâm chân trong 60 phút.
- Câu đằng 20g và một chút băng phiến, sắc lấy nước ngâm chân 2 lần trong ngày, mỗi lần 30 – 45 phút, 10
ngày là một liệu trình.
- Câu đằng 30g, cúc hoa 15g, hạ khô thảo 15g, quyết minh tử 30g, ngưu tất 20g, bạch truật 20g, bạch
cương tàm 20g, hồng hoa 15g, sắc lấy nước ngâm chân trong 30 phút, mỗi ngày 2 lần.
- Hạ khô thảo 30g, câu đằng 20g, tang diệp 15g, cúc hoa 20g, sắc lấy nước ngâm chân mỗi ngày 2 lần, mỗi
lần 30 phút.
- Ngô thù du 15g, hoàng bách 20g, tri mẫu 20g, sinh địa 20g, ngưu tất 20g, sinh mẫu lệ 40g, sắc lấy nước
ngâm chân, mỗi ngày 2 lần.
- Tang chi 20g, tang diệp 15g, sung uý tử 20g, sắc lấy nước ngâm chân 2 lần trong ngày, mỗi lần 45 phút.
- Có thể dùng nước ấm bình thường hoặc nước khoáng nóng.
Cách ngâm chân
Dụng cụ: Tốt nhất là dùng chậu ngâm điện (loại nhập từ Trung Quốc, có bán tại các siêu thị), loại chậu này
tiện lợi cho việc giữ nhiệt độ một cách tự động, ít phải chế thêm nước nóng rồi lại phải thử độ nóng làm

cách quãng việc ngâm chân. Nếu không có thì nên dùng chậu gỗ vì loại chậu này giữ được nhiệt lâu, không
độc và an toàn.
Nhiệt độ nước ngâm: Tuỳ theo tính chất địa lí, khí hậu, lứa tuổi, tình trạng bệnh lí, phản ứng của từng cá
thể… mà lựa chọn nhiệt độ nước ngâm cho phù hợp. Nói chung, về cơ bản, nên chọn nhiệt độ trung bình từ
38 đến 43 độ C. Cơ sở xác định là, sau khi ngâm chân cơ thể cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái và huyết áp
được cải thiện rõ rệt.
Tư thế: Chọn tư thế ngồi trên ghế tựa, chậu ngâm có độ cao từ 20 cm trở lên, độ rộng có thể chứa đủ hai
chân là được.
Thời gian ngâm chân: Mỗi ngày nên ngâm 2 lần, tốt nhất là vào lúc 10 giờ sáng và tối trước khi đi ngủ.
Ngoài việc điều chỉnh huyết áp, việc ngâm chân vào buổi tối sẽ giúp giấc ngủ ngon và sâu hơn. Dân gian có

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×