Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BÁO CÁO THỰC TẬP-Vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.36 KB, 25 trang )

1
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
MỤC LỤC
Lời mở đầu 2
Chương 1: Sơ lược về công ty cổ phần 3
1.1. Công ty cổ phần 3
1.2. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty cổ phần 4
Chương 2: Vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị trong công ty cổ
phần 9
2.1. Vai trò của Hội đồng quản trị 9
2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị 10
Chương 3: Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát và Tổng giám
đốc/Giám đốc trong công ty cổ phần 19
3.1. Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát 19
3.2. Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị với Tổng giám đốc/Giám đốc 21
Kết luận và kiến nghị 24
Tài liệu tham khảo 25
2
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
LỜI MỞ ĐẦU
Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ năm 1991 đến nay, ở nước ta có rất nhiều công ty
cổ phần được thành lập. Sự tồn tại và phát triển của chúng trong những năm qua đã chứng
tỏ rằng sự hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, một xu
hướng phù hợp với thời đại.
Trong cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần – theo quy định của luật pháp - Hội đồng
quản trị là một bộ phận không thể thiếu. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty – cơ
quan quản trị cao nhất - hoạch định những chiến lược, giám sát hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty. Hiểu rõ vai trò và chức năng, nhiệm vụ cũng như mối quan hệ của Hội
đồng quản trị với các bộ phận khác trong công ty cổ phần có ý nghĩa thực tiễn trong việc
cải tiến, nâng cao hiệu quả hoạt động của nó trong các công ty cổ phần nói chung.


Trong điều kiện nền kinh tế biến động, vận mệnh công ty cũng thay đổi rất nhanh,
Khi ấy, vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị càng cần phải được làm rõ.
Để có một cái nhìn tổng quan về vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị
cũng như mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát và Tổng giám đốc/Giám
đốc trong công ty cổ phần dưới góc độ pháp lý từ những quy định của Luật doanh nghiệp
năm 2005 và một số văn bản pháp luật có liên quan, nhóm 7 đã quyết định chọn đề tài
“Vai trò và chức năng, nhiệm vụ Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần. Mối quan
hệ của Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát, Tổng giám đốc/Giám đốc” để làm tiểu
luận cho môn Luật kinh tế.
 Mục tiêu nghiên cứu: giúp hiểu rõ hơn bản chất thông qua đi sâu phân tích vai trò,
chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ của Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc/Giám đốc trong công ty cổ phần.
 Phạm vi nghiên cứu: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Tổng giám đốc/Giám đốc
trong công ty cổ phần.
 Kết cấu bài tiểu luận: bài tiểu luận bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Sơ lược về công ty cổ phần.
- Chương 2: Vai trò và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng quản trị trong công ty cổ
phần.
- Chương 3: Mối quan hệ giữa Hội đồng quản trị với Ban kiểm soát và Tổng giám
đốc/Giám đốc trong công ty cổ phần.
Xin chân thành cảm ơn thầy TS. LS. Bùi Xuân Hải đã gợi ý và hướng dẫn cho nhóm
trong suốt quá trình học môn Luật kinh tế và quá trình làm bài tiểu luận này.
3
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Chương I
SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. CÔNG TY CỔ PHẦN:
Công ty cổ phần được hiểu là một dạng pháp nhân có trách nhiệm hữu hạn, được
thành lập và tồn tại độc lập đối với những chủ thể sở hữu nó. Vốn của công ty được chia
nhỏ thành những phần bằng nhau gọi là cổ phần và được phát hành huy động vốn tham gia

của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Theo những quy định của pháp luật hiện hành thì không có một định nghĩa cụ thể
nào về công ty cổ phần nhưng chúng ta có thể nhận biết những dấu hiệu đặc trưng của
công ty cổ phần theo những quy định tại điều 77 của Luật doanh nghiệp năm 2005 như
sau:
- Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn
chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn
Như vậy, công ty cổ phần được xem đồng nghĩa với công ty đại chúng bởi cấu trúc,
mục tiêu và tính chất của nó. Quy định trong một số bộ luật, trong đó có Luật Việt Nam
ghi rõ công ty cổ phần cần có tối thiểu 3 cổ đông, bất kể đó là pháp nhân hay thể nhân.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị
trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần tạo ra
các công cụ để có thể huy động vốn với quy mô lớn và hiệu quả cao. Nhờ phát hành cổ
phiếu và trái phiếu, công ty cổ phần có thể huy động được những nguồn vốn nhỏ lẽ nhàn
rỗi nằm tản mạn trong xã hội để đầu tư vào những công trình đòi hỏi ngững nguồn vốn lớn
4
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
và dài hạn mà từng cá nhân hoặc từng doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ được. Huy
động vốn trong dân vừa là giải pháp cấp bách vừa là giải pháp cơ bản trong chiếc lược tạo
vốn của từng doanh nghiệp.

1.2. CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN
Theo điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005, cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần gồm có
Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; đối với công
ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty thì phải có Ban kiểm soát.
Hình 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức công ty cổ phần
Cơ quan tối cao của các công ty cổ phần là Đại hội đồng cổ đông. Các cổ đông sẽ
tiến hành bầu ra Hội đồng quản trị với Chủ tịch Hội đồng Quản trị, các Phó Chủ tịch và
thành viên (kiêm nhiệm và không kiêm nhiệm). Sau đó, Hội đồng quản trị sẽ tiến hành
thuê, bổ nhiệm Giám đốc (Tổng giám đốc) và/ hoặc Giám đốc điều hành. Hội đồng này
cũng có thể tiến hành thuê, bổ nhiệm các Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) hoặc ủy
quyền cho Ban Giám đốc (công ty) làm việc này
Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện
theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty.
1.2.1. Đại hội đồng cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định
cao nhất của công ty cổ phần.
Đại hội đồng cổ đông có các quyền và nhiệm vụ được quy định cụ thể tại khoản 2
Điều 96 Luật doanh nghiệp Việt Nam:
a) Thông qua định hướng phát triển của công ty;
5
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
b) Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán;
quyết định mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần, trừ trường hợp Điều lệ công ty có
quy định khác;
c) Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm
soát;
d) Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không
quy định một tỷ lệ khác;

đ) Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, trừ trường hợp điều chỉnh vốn điều lệ
do bán thêm cổ phần mới trong phạm vi số lượng cổ phần được quyền chào bán quy định
tại Điều lệ công ty;
e) Thông qua báo cáo tài chính hằng năm;
g) Quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại;
h) Xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại
cho công ty và cổ đông công ty;
i) Quyết định tổ chức lại, giải thể công ty;
k) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
1.2.2. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại
hội đồng cổ đông.
Chỉ trong cơ cấu tổ chức của Công ty Cổ phần mới có Hội đồng quản trị. Trong công
ty cổ phần thì Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty, tiếp đến mới là
Hội đồng quản trị.
Hội đồng quản trị có các quyền và nhiệm vụ được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều
108 Luật doanh nghiệp Việt Nam:
a) Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng
năm của công ty;
b) Kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại;
c) Quyết định chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán
của từng loại; quyết định huy động thêm vốn theo hình thức khác;
d) Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty;
6
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
đ) Quyết định mua lại cổ phần theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Luật này;
e) Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo
quy định của Luật này hoặc Điều lệ công ty;
g) Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp

đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ
hơn quy định tại Điều lệ công ty, trừ hợp đồng và giao dịch quy định tại khoản 1 và khoản
3 Điều 120 của Luật này;
h) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định;
quyết định mức lương và lợi ích khác của những người quản lý đó; cử người đại diện theo
uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định
mức thù lao và lợi ích khác của những người đó;
i) Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều
hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty;
k) Quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập
công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh
nghiệp khác;
l) Duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp Đại hội đồng cổ đông, triệu tập
họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định;
m) Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Đại hội đồng cổ đông;
n) Kiến nghị mức cổ tức được trả; quyết định thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử
lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh;
o) Kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty;
p) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: "Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị theo quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp Hội
đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch được bầu trong số thành viên
Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác."
Chủ tịch Hội đồng Quản trị có các quyền và nhiệm vụ được quy định cụ thể tại
khoản 2 Điều 111 Luật doanh nghiệp Việt Nam:
a) Lập chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng quản trị;
7

Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
b) Chuẩn bị hoặc tổ chức việc chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu phục vụ cuộc
họp; triệu tập và chủ toạ cuộc họp Hội đồng quản trị;
c) Tổ chức việc thông qua quyết định của Hội đồng quản trị;
d) Giám sát quá trình tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị;
đ) Chủ toạ họp Đại hội đồng cổ đông;
e) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của Luật này và Điều lệ công ty.
1.2.3. Tổng giám đốc/Giám đốc:
Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp Điều lệ công ty không quy định Chủ tịch Hội đồng
quản trị là người đại diện theo pháp luật thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của công ty.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc kinh doanh hằng ngày
của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và chịu trách nhiệm trước Hội đồng
quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nhiệm vụ được quy định cụ thể tại
khoản 3 Điều 116 Luật doanh nghiệp Việt Nam:
a) Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty
mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị;
b) Tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị;
c) Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
d) Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty;
đ) Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty, trừ các
chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng quản trị;
e) Quyết định lương và phụ cấp (nếu có) đối với người lao động trong công ty kể cả
người quản lý thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
g) Tuyển dụng lao động;
h) Kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
i) Các quyền và nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty và quyết
định của Hội đồng quản trị.

8
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
1.2.4. Ban kiểm soát:
Ban kiểm soát là cơ quan có thẩm quyền thay mặt Đại hội đồng cổ đông giám sát Hội
đồng quản trị, Tổng Giám đốc/Giám đốc trong quản lý và điều hành công ty.
Ban kiểm soát chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông trong việc thực hiện các
nhiệm vụ được giao, cụ thể là trong kiểm tra, giám sát tính hợp lý, hợp pháp trong việc
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; việc thực hiện các quy chế quảm lý nội bộ đã
được ban hành của Công ty; việc ghi chép sổ kế toán và báo cáo tài chính; việc thực hiện
kế toán quản trị nhằm bảo vệ lợi ích của Công ty và cổ đông của Công ty.
Ban kiểm soát hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc công ty và
sẽ báo cáo với Đại hội đồng cổ đông.
Ban kiểm soát có các quyền và nhiệm vụ được quy định cụ thể tại Điều 123, Điều
124 Luật doanh nghiệp Việt Nam. Bao gồm một số quyền và nhiệm vụ cơ bản sau:
- Kiểm soát toàn bộ hệ thống tài chính và việc thực hiện các quy chế của công ty:
Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều
hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài
chính.Thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính theo các định kỳ của
công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông
tại cuộc họp thường niên.
- Xem xét sổ kế toán và các tài liệu khác của Công ty, các công việc quản lý, điều
hành hoạt động của Công ty bất cứ khi nào nếu xét thấy cần thiết hoặc theo quyết định của
Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông.
- Kiểm tra bất thường: Khi có yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông, Ban Kiểm
soát thực hiện kiểm tra trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày kết thúc kiểm tra, Ban kiểm soát phải báo cáo
giải trình về những vấn đề được yêu cầu kiểm tra đến Hội đồng quản trị và cổ đông và
nhóm cổ đông có yêu cầu .
- Can thiệp vào hoạt động công ty khi cần: Kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại Hội
đồng Cổ đông các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành

hoạt động kinh doanh của công ty.
- Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng Cổ đông, Tổng
Giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty phải thông báo ngay bằng văn bản
với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có
giải pháp khắc phục hậu quả.
9
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Chương II
VAI TRÒ VÀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
2.
2.1. VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Về pháp lý, Hội đồng quản trị được quy định là "Cơ quan quản lý công ty", có quyền
nhân danh công ty thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ của công ty, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Trên thực tế, trong hầu hết các công ty cổ phần,
thành viên Hội đồng quản trị là các cổ đông lớn, hoặc đại diện các cổ đông lớn của công ty.
Thêm vào đó, các thành viên Hội đồng quản trị đều tham gia trực tiếp điều hành hoạt động
kinh doanh của công ty. Do đó, trong các công ty nói trên, không những không có sự tách
biệt rõ nét giữa sở hữu và quản lý, mà cả quản lý và điều hành. Chủ tịch Hội đồng quản trị
thường kiêm Giám đốc điều hành và là người đại diện theo pháp luật của công ty.
Trong cơ cấu nói trên, rõ ràng vai trò vị thế thực tế của Hội đồng quản trị bị xem
nhẹ; và ngược lại, Hội đồng quản trị lại không thực hiện được đầy đủ vai trò của mình
trong quản trị công ty. Các thành viên Hội đồng quản trị đã phải tập trung nhiều hơn vào
công tác điều hành; và ít hoặc thậm chí không chú ý tới vai trò định hướng chiến lược và
giám sát, đảm bảo công ty phát triển phù hợp với chiến lược. Thêm vào đó, các thành viên
Hội đồng quản trị thường chịu ảnh hưởng nhiều bởi chính lợi ích của cổ đông lớn hơn là
phụ vụ cho lợi ích của công ty và những người khác có liên quan. Trong điều kiện nói trên,
yêu cầu phải có thành viên độc lập hay thành viên không điều hành trong Hội đồng quản trị
còn hết sức xa lạ, đối với các công ty niêm yết.
Chưa có tiêu chí và cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của Hội đồng quản trị nói

chung và từng thành viên Hội đồng quản trị nói riêng, hiệu quả hay kết quả hoạt động của
Hội đồng quản trị chưa được đánh giá. Điều đó góp phần làm cho chế độ trả lương và lợi
ích khác đối với thành viên Hội đồng quản trị chưa rõ ràng, chưa cụ thể và hợp lý. Đây có
lẽ là một trong các nguyên nhân làm cho các thành viên Hội đồng quản trị chưa sẵn sàng
tách ra không công tác điều hành để chuyên trách vào các vấn đề chiến lược và kiểm soát.
Ngoài ra, cách quản lý theo lối thuận tiện, thay vì quản lý theo khoa học đã làm cho
vai trò của Hội đồng quản trị và cả năng lực quản lý đã yếu lại càng yếu thêm. Đặc điểm cơ
bản của quản lý thuận tiện là chọn, bổ nhiệm người quản lý và giao việc trên cơ sở niềm tin
vào cá nhân. Điều này có nghĩa là mối quan hệ thân quen và tin cậy cá nhân là tiêu chí cơ
bản để bổ nhiệm và giao việc cho một người nào đó. Chính vì vậy, những người được bổ
10
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị và những người quản lý khác, kể cả trong công ty
quản lý nhà nước, thường không phải là quản lý chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn và
kinh nghiệm nghề nghiệp tương ứng với nội dung và yêu cầu của công việc mà họ phải
làm. Trong cách quản lý nói trên, thì ngay cả khi người quản lý chuyện nghiệp được tuyển
dụng thì họ cũng không phát huy được năng lực của mình. Bởi vì, việc áp dụng các quy
trình, thủ tục để giải quyết các công việc được sắp xếp hợp lý lại trở nên bất tiện.
2.2. CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Quyền và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị được được quy định cụ thể tại khoản 2
Điều 108 Luật doanh nghiệp Việt Nam. Tổng quan tập trung trong 4 nhóm chức năng,
nhiệm vụ sau đây:
2.2.1. Chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh công ty:
Hội đồng quản trị đóng vai trò then chốt trong việc quyết định chiến lược, kế hoạch
phát triển trung hạn, dài hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty.
Sau khi Tổng giám đốc hoặc giám đốc điều hành trình lên Hội đồng quản trị và
Đại hội đồng cổ đông những phương hướng nhiệm vụ phát triển công ty và kế hoạch hàng
năm của công ty. Hội đồng quản trị có trách nhiệm xem xét kĩ lưỡng và ra quyết định cuối
cùng cho chiến lược và kế hoạch phát triển kinh doanh của công ty.
Vai trò của Hội đồng quản trị là vô cùng quan trọng trong công ty, chiến lược và kế

hoạch của công ty nếu không được Hội đồng quản trị thông qua thì cũng không được thực
thi. Ngược lại, nếu Hội đồng quản trị không thực hiện tốt vai trò đôn đốc, định hướng rà
soát lại chiến lược thì cũng không đạt được một chính sách chiến lược và kế hoạch tốt cho
sự phát triển của công ty. Vì vây, có thể nói Hội đồng quản trị có nhiệm vụ là trung tâm
quyết định chiến lược phát triển cho công ty.
a) Quyết định chiến lược kế hoạch phát triển của công ty:
Chiến lược là phương thức mà các công ty sử dụng để định hướng tương lai nhằm
đạt được và duy trì lâu dài những thành công của nó. Mục tiêu tối thiểu của chiến lược là
phải làm sao tiếp tục tồn tại được, nghĩa là phải có khả năng thực hiện được các nghĩa vụ
một cách lâu dài, có thể chấp nhận được. Quyết định chiến lược đặt ra mục tiêu cho toàn
bộ công ty, giữ cho tất các bộ phận trong công ty phối hợp với nhau hướng về mục tiêu
chung.
Ví dụ: Xem xét tới trường hợp của Công ty cổ phần cao su Đà nẵng, được thành lập tháng
12 năm 2005 với vốn điều lệ 49 tỷ đồng.
Mục tiêu phấn đấu của Hội đồng quản trị là chỉ đạo, quản lý Công ty đạt các chỉ
tiêu đã cam kết trước Đại hội đồng cổ đông, đặc biệt là chỉ tiêu lợi nhuận.
11
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Một phần quan trọng trong công tác của Hội đồng quản trị là hoạch định hướng
phát triển trung và dài hạn của Công ty. Về trung hạn, để dự phòng thiếu hụt sản phẩm khi
Thành phố Đà nẵng thu hồi khu đất Bắc mỹ an, tại Đại hội cổ đông thường niên năm 2008
đã lập kế hoạch đầu tư sản xuất 500.000 lốp ôtô/ năm tại Liên chiểu. Khi lạm phát tăng cao
và nắm chắc thông tin Thành phố chưa thu hồi một lần toàn bộ khu đất Bắc mỹ an, Hội
đồng quản trị đã quyết định dãn tiến độ thực hiện Dự án để tập trung nguồn lực cho sản
xuất kinh doanh. Và quyết định trở nên cực kỳ chuẩn xác nếu so sánh với tình hình kinh tế
xã hội hiện nay.
Trong dài hạn, từ đầu năm 2006 Hội đồng quản trị đã vạch ra hướng phát triển
chiến lược đầu tư sản xuất lốp radial. Theo đó, từ năm 2010-2015 xây dựng nhà máy sản
xuất lốp radial theo công nghệ tiên tiến mang thương hiệu DRC. Đến nay đã hoàn thành
Báo cáo đầu tư Dự án sản xuất lốp radial trình Đại hội cổ đông kỳ này triển khai các bước

tiếp theo theo trình tự quy định
b) Quyết định phương án, dự án đầu tư, giải pháp phát triển thị trường:
Hội đồng quản trị có vai trò quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư, giải pháp
phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và
hợp đồng khác.
Hội đồng quản trị cần phối hợp chặt chẽ vói ban giám đốc và cần cùng nhau đánh
giá lại phương án đầu tư, nhận dạng các rủi ro. Hội đồng quản trị cần lắng nghe những lo
ngại của ban giám đốc về sự khác biệt trong định hướng chiến lược của công ty để trên cơ
sở đó có sự điều chỉnh kịp thời, hay cần phải thay đổi những điểm nào để ứng phó với môi
trường kinh doanh hiện tại.
Ví dụ: Trở lại với công ty cổ phần cao su Đà Nẵng. Hội đồng quản trị xác định đầu tư là
công tác đặc biệt quan trọng, quyết định đến tăng trưởng và phải chi tiêu lớn nên trong tất
cả các phiên họp đều dành thời gian thích đáng để bàn thảo về công tác này. Những vấn đề
nảy sinh được trao đổi trên tinh thần tất cả vì hiệu quả kinh doanh của Công ty. Nhờ đó,
các quyết định đầu tư đưa ra đúng thời điểm, phù hợp với khả năng tài chính và nhu cầu thị
trường. Kết quả là các dự án đầu tư đưa vào khai thác đã góp phần vào kết quả sản xuất
kinh doanh chung của Công ty.
Năm 2006-2008. Thị trường trong nước và quốc tế có nhu cầu lớn về lộp đặc
chủng. Do vậy, hội đồng quản trị sau nhiều lần nhóm họp và sau khi xem xét đã quyết
định Công ty tập trung sẽ vào các dự án sản xuất lốp đặc chủng. Đến nay Công ty cổ phần
cao su Đà nẵng là doanh nghiệp duy nhất ở Đông nam á sản xuất được lốp đặc chủng đến
cỡ vành -35”; -49” và -51”. Riêng trong năm 2007 đã tiêu thụ được gần 13 ngàn bộ lốp đặc
chủng với doanh thu hơn một trăm tỷ đồng chiếm gần 9% doanh thu của Công ty. Lợi
12
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
nhuận bình quân trên doanh thu toàn Công ty là 6,03%, riêng mặt hàng lốp đặc chủng là
18,72%. Điều đó cho thấy việc đầu tư của Công ty cho mặt hàng lốp đặc chủng là hướng đi
tích cực.
2.2.2. Tổ chức cơ cấu ban điều hành và quy mô hoạt động của công ty:
Hội đồng quản trị có quyền hạn và nhiệm vụ: Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký

hợp đồng, chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý
quan trọng khác do Điều lệ công ty quy định; quyết định mức lương và lợi ích khác của
những người quản lý đó; cử người đại diện theo uỷ quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần
hoặc phần vốn góp ở công ty khác, quyết định mức thù lao và lợi ích khác của những
người đó; - Đây thuộc nhóm quyền quyết định chọn nhân sự của Hội đồng quản trị. Trong
thực tế tại các công ty cổ phần hiện nay, việc bổ nhiệm Ban giám đốc thường là chủ tịch
hội đồng quản trị giữ chức vụ Tổng giám đốc, các phó giám đốc là thành viên Hội đồng
quản trị công ty.
Việc kết hợp hai vị trí trong Hội đồng quản trị và trong Ban giám đốc, nhất là Chủ
tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc có thể sẽ hỗ trợ tốt cho việc ra quyết định, đặc
biệt là trong hoàn cảnh cấp bách, và giúp ban quản trị nắm tốt hơn về thông tin của công
ty. Hội đồng quản trị khi lập chiến lược thường không lường hết được các yếu tố của thực
tế vận hành. Khi Ban Giám đốc lãnh đạo bộ máy điều hành thực hiện các chiến lược đã
được Hội đồng quản trị thông qua, một khi cần thay đổi để phù hợp với những biến động
và thay đổi của thực tế thị trường, thường phải mất nhiều thời gian để trình bày và chờ phê
duyệt, làm mất đi nhiều cơ hội. Ở góc độ dung hòa các mong đợi giữa nhóm cổ đông và
các bên hữu quan khác, Tổng giám đốc nếu kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị sẽ
nhanh chóng hơn trong việc thống nhất các mong đợi khác nhau, vì Tổng giám đốc hiểu rõ
tất cả các nhóm lợi ích. Việc tách biệt vai trò Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc
là cần thiết để kiểm soát quyền lực của Tổng giám đốc, nhưng nó cũng có thể dẫn đến
nguy cơ làm cho Tổng giám đốc chỉ tập trung vào những mục tiêu ngắn hạn, nhất là khi
việc đánh giá kết quả hoạt động và chế độ lương, thưởng được căn cứ vào kết quả đạt được
những mục tiêu mà Hội đồng quản trị đề ra.
Trong công ty cổ phần Hội đồng quản trị đại diện cho quyền lợi của chủ sở hữu là
các cổ đông, trong khi Tổng giám đốc và những người quản lý khác trực tiếp điều hành
công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, hơn nữa tổng giám đốc và những người quản
lý khác có thể không phải là cổ đông của công ty mà chỉ là những người làm thuê, do đó để
công ty họat động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển, mang lại lợi ích ngày càng
nhiều cho chủ sở hữu thì Hội đồng quản trị phải tăng cường công tác giám sát, chỉ đạo
Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của

13
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
công ty. Hội đồng quản trị có quyền đình chỉ các quyết định của Tổng giám đốc nếu thấy
cần thiết và chịu trách nhiện trước Đại hội đồng cổ đông và pháp luật về quyết định đó.
Hội đồng quản trị quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết
định thành lập công ty con, lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ
phần của doanh nghiệp khác. Hội đồng quản trị chọn mô hình phù hợp với chức năng
nhiệm vụ kinh doanh của công ty, đảm bảo mô hình tối ưu, gọn nhẹ và hiệu quả, phù hợp
với qui mô công ty và định hướng chiến lược phát triển kinh doanh.
Trong quá trình thực hiện chức năng giám sát của mình, khi công ty bị lâm vào vào
tình trạng khó khăn về tài chính, kinh doanh thua lỗ, Hội đồng quản trị kiến nghị việc tổ
chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty lên Đại hội đồng cổ đông. Kiến nghị Tổ
chức lại công ty bao gồm : chia, tách,sáp nhập công ty cùng loại, hợp nhất công ty cùng
loại.
2.2.3. Quan hệ cổ đông, minh bạch thông tin và quyết định tài chính:
Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của Hội đồng quản trị là thực hiện những hoạt
động liên quan đến việc lên kế hoạch cũng như ra các quyết định cho các công việc nhằm
thu hút vốn đầu tư, tạo ra nguồn lực tài chính phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Muốn thực hiện được những hoạt động đó thì Hội đồng quản trị phải thực hiện
tốt nhiệm vụ quan hệ với cổ đông, minh bạch thông tin và quyết định tài chính của công ty.
a) Quan hệ với cổ đông:
Cổ đông là cá nhân hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn
bộ phần vốn góp (cổ phần) của một công ty cổ phần. Về bản chất, cổ đông là thực thể đồng
sở hữu công ty cổ phần chứ không phải là chủ nợ của công ty đó do vậy quyền lợi và nghĩa
vụ của họ gắn liền với kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Cổ đông đóng một vai trò hết
sức quan trọng trong công ty cổ phần. Để công ty cổ phần có thể hình thành, tồn tại và phát
triền thì cần có sự góp vốn của nhiều cổ đông.
Chính vì vậy, vấn đề quan hệ cổ đông của Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần là
rât cần thiết. Điều đó đươc thể hiện ở điểm l và m khoản 2 điều 108 Luật Doanh Nghiệp
2005.

Thứ nhất, Hội đồng quản trị có trách nhiệm duyệt chương trình, nội dung tài liệu
phục vụ họp Đại hội đồng cổ đông, triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến để
Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định. Chủ tịch Hội đồng quản trị là người chịu trách
nhiệm điều khiển cuộc họp trừ trường hợp ủy quyền cho người khác.
Thứ hai, trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên đại hội đồng cổ đông. Chủ
tịch hội đồng quản trị là người chịu trách nhiệm về tính trung thực và hợp lý của các báo
14
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
cáo tài chính, mặc dù ông ta không phải là người trực tiếp lập. Có rât nhiều người sử dụng
báo cáo tài chính. Chia theo sự liên quan của lợi ích ta có thể chia thành hai loại chính: Cổ
đông và những người có lợi ích liên quan . Cổ đông hơn ai hết cần biết công ty của họ hoạt
động thế nào, hiệu quả ra sao, qua đó xác đinh được giá trị đầu tư của họ trong doanh
nghiệp được tăng lên như thế nào và liệu thù lao trả cho ban giám đốc doanh nghiệp có
tương xứng với lợi ích mà ban giám đốc mang lại cho chủ sở hữu doanh nghiệp hay không.
Ban lãnh đạo (ban giám đốc) công ty là người làm thuê cho chủ công ty, nhận được
thù lao, và thù lao ấy phụ thuộc vào hiệu quả của việc lãnh đạo công ty, và hiệu quả của
việc lãnh đạo công ty, đối với cổ đông, được thể hiện chủ yếu bằng các chỉ tiêu tài chính,
thể hiện trên các báo cáo tài chính.
FPT duy trì các kênh thông tin tới các cổ đông và nhà đầu tư thông qua Đại hội đồng
Cổ đông thường niên, Đại hội đồng Cổ đông bất thường, họp thông báo kết quả kinh doanh
định kỳ hàng quý, các phương tiện truyền thông đại chúng và thông qua Bộ phận Quan hệ
nhà đầu tư. Trong năm 2010, FPT đã thực hiện các hoạt động chính về quan hệ cổ đông và
nhà đầu tư như sau:
l . Về công bố thông tin:
- Tuân thủ các yêu cầu về thực hiện công bố thông tin theo quy định một cách đầy
đủ, chính xác, kịp thời.
- Trong năm 2010, FPT đã tiến hành công bố thông tin định kỳ về kết quả kinh doanh
hàng tháng, báo cáo tài chính quý, năm, và công bố thông tin về các quyết định của Đại hội
đồng Cổ đông; Hội đồng Quản trị liên quan đến chiến lược, kế hoạch phát triển trung - dài
hạn cũng như kế hoạchkinh doanh và hoạt động trong năm.

2. Về tổ chức các sự kiện cổ đông:
- Tổ chức Đại hội đồng Cổ đông thường niên FPT, thu hút đông đảo cổ đông tham
gia và đóng góp ý kiến cho hoạt động của Công ty.
3. Về hoạt động tiếp xúc nhà đầu tư và các cổ đông:
- Tổ chức 3 cuộc gặp mặt thông báo kết quả kinh doanh hàng quý với các Công ty
chứng khoán và cổ đông lớn với mục đích tạo ra một diễn đàn trao đổi cởi mở, minh bạch
giữa Ban Điều hành FPT với cộng đồng nhà đầu tư.
- Tham dự diễn đàn Vietnam Gateway - diễn đàn giới thiệu về cơ hội đầu tư vào các
doanh nghiệp Việt Nam cho các nhà đầu tư.
- Trong năm 2010, FPT đã tiếp đón trên 50 nhà đầu tư là các công ty chứng khoán,
ngân hàng đầu tư, quỹ đầu tư trong nước và nước ngoài. Công ty đã tiếp nhận các ý kiến
15
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
của nhà đầu tư, giải đáp các thắc mắc và cung cấp thông tin, số liệu liên quan đến kết quả
hoạt động kinh doanh, tài chính.
b) Minh bạch thông tin:
Một trong những chức năng quan trọng của Hội đồng quản trị là thay mặt cổ đông
giám sát hoạt động của Công ty. Hội đồng quản trị một mặt có trách nhiệm hỗ trợ, tư vấn
cho Giám đốc công ty trong các quyết định quan trọng, mặt khác có trách nhiệm phát hiện
và ngăn ngừa những hành vi đi ngược lại lợi ích của cổ đông. Vì vậy, Hội đồng quản trị
chính là một cơ chế kiểm soát quan trọng ngăn ngừa việc bóp méo thông tin tài chính
nhằm lừa gạt các nhà đầu tư
Nói đến tính minh bạch trước hết người ta thường nói đến tính minh bạch trong
quản trị công ty, doanh nghiệp. Việc minh bạch trong hoạt động quản trị sẽ đảm bảo cho
doanh nghiệp hoạt động ổn định và tăng trưởng vững chắc. Một doanh nghiệp có hệ thống
quản trị tốt và minh bạch bao giờ cũng có các chính sách quản trị rủi ro thích hợp.
Có quan điểm cho rằng sự minh bạch của doanh nghiệp là một thứ tài sản rất có giá
trị đối với bản thân doanh nghiệp. Một khi doanh nghiệp đã tạo được niềm tin với các nhà
đầu tư, các đối tác kinh doanh sẽ tạo điều kiện tốt cho việc huy động vốn đầu tư, tìm kiếm
đối tác kinh doanh, vay vốn ngân hàng thuận lợi hơn; mặt khác cũng nâng cao được

thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường.
Không minh bạch, khó tạo được niềm tin với các đối tác làm ăn. Không minh bạch,
các cổ đông và các nhà đầu tư sẽ không tin tưởng vào doanh nghiệp trong việc quản lý
đồng vốn của họ ngân hàng sẽ khó quyết định cho doanh nghiệp vay vốn. Nói tóm lại, sự
minh bạch của doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để phát triển bền vững, làm gia tăng giá
trị của các doanh nghiệp nói chung. Muốn phát triển mạnh và bền vững, doanh nghiệp
cũng như ngân hàng đều cần phải đề cao tính minh bạch.
Ví dụ: Tổng công ty tài chính cổ phần dầu khí Việt Nam - Thường niên công ty sẽ công bố
báo cáo tài chính vào cuối mỗi quý I, II, III và báo cáo tài chính cả năm để thông báo cho
toàn thể cổ đông về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh của công ty nhằm mục đích
giúp cho cổ đông công ty có thể nắm bắt được thông tin về việc vốn của họ đã được công
ty quản lý, sử dụng và sinh lợi như thế nào. Nội dung báo cáo tài chính gồm có: Báo cáo
của ban giám đốc, Báo cáo kiểm toán, Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.
c) Quyết định tài chính:
Tài chính doanh nghiệp là một lĩnh vực đặc biệt của ngành tài chính, liên quan đến
việc đưa ra các quyết định về mặt tài chính của một doanh nghiệp, các công cụ cũng như
phân tích được sử dụng để đưa ra các quyết định này. Mục đích chủ yếu của tài chính
16
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
doanh nghiệp là nhằm nâng cao giá trị doanh nghiệp đồng thời tránh được các rủi ro đáng
tiếc về mặt tài chính.
Các nguyên tắc đối với tài chính doanh nghiệp có thể chia dựa trên kĩ thuật sử dụng
và quyết định đưa ra là dài hạn hay ngắn hạn. Các quyết định đầu tư vốn dài hạn dựa trên
các lựa chọn dài hạn về dự án đầu tư, đầu tư theo phương thức góp cổ phần hay cho vay
nợ, khi nào và liệu có nên trả cổ tức cho các cổ đông hay không? Các quyết định tài chính
doanh nghiệp trong ngắn hạn thường được gọi là hoạt động quản lý vốn lưu động, chủ yếu
giải quyết vấn đề cân đối nợ ngắn hạn và tài sản ngắn hạn, trọng tâm là quản lý tiền mặt,
hàng tồn kho, vay ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Đối với Công ty cổ phần thì các quyết định liên quan đến cổ phần, cổ đông và cổ

tức được xem là những quyết định quan trọng nhất trong các quyết định về tài chính của
Hội đồng quản trị. Đối với việc kiến nghị loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào
bán, mua lại cổ phần của từng loại thì phụ thuộc vào điều kiện, cơ cấu vốn, mục tiêu phát
triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty mà Hội đồng quản trị có thể có những đề
xuất sao cho phù hợp nhất.
Ví dụ:
Cơ cấu cổ phần của FPT năm 2009:
Loại cổ phần Cổ phần %
Mệnh giá
(VND)
Quyền
biểu quyết
Cổ phần phổ thông 142.649.197 99,18% 10.000 1:1
Cổ phần ưu đãi nhân viên 878.815 0,61% 10.000 1:1
Cổ phiếu quỹ 303.955 0,21% 10.000 1:0
Tổng 143.831.967 100,00%
Nguồn: Báo cáo thường niên của FPT năm 2009
2.2.4. Giám sát ban điều hành công ty và hoạt động kinh doanh của công ty:
Theo cơ cấu quản trị công ty, Hội đông quản trị thực hiện việc quản trị, đặc biệt tập
trung vào việc lựa chọn và quyết định các chiến lược và kế hoạch phát triển công ty còn
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thực hiện việc điều hành, thực hiện chiến lược. Tuy nhiên
việc điều hành của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có thực sự đúng theo định hướng chiến
lược của công ty không? Có tuân theo điều lệ và lợi ích chung của công ty không? Điều
này còn phụ thuộc vào năng lực và ý thức của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chính vì
vậy việc giám sát và chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong
17
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty là một nhiệm vụ quan trọng và cần
thiết của Hội đồng quản trị.
Điểm i khoản 2 Điều 108 Luật doanh nghiệp năm 2005 có nêu rõ Hội đồng quản trị

có quyền và nhiệm vụ: Giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý
khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty.
Tuy nhiên việc giám sát, chỉ đạo Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý
khác trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty là việc không đơn giản
và nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố và nhiều trường hợp cụ thể khác nhau.
Chúng ta xét đến các trường hợp và yếu tố như sau:
• Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc kiêm nghiệm hoặc tách biệt.
• Yếu tố văn hóa và lịch sử cũng như kinh nghiệm quản lý của các quốc gia.
Trường hợp Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Giám đốc do một
người kiêm nghiệm. Nếu xét trong trường hợp này thì việc chỉ đạo và giám sát của Hội
đồng quản trị đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong điều hành công việc kinh doanh
hàng ngày của công ty sẻ là một việc làm tương đối đơn giản. Có quan điểm cho rằng việc
tách biệt hai vai trò sẽ kém hiệu quả trong việc kết nối chiến lược công ty và quá trình thực
hiện. Hội đồng quản trị khi lập chiến lược thường không lường hết được các yếu tố của
thực tế vận hành. Khi Giám đốc hoặc Tổng giám đốc lãnh đạo bộ máy điều hành thực hiện
các chiến lược đã được Hội đồng quản trị thông qua, một khi cần thay đổi để phù hợp với
những biến động và thay đổi của thực tế thị trường thường phải mất nhiều thời gian để
trình bày và phê duyệt, đánh mất nhiều cơ hội. Ở góc độ dung hòa các mong đợi giữa
nhóm cổ đông và các bên hữu quan khác, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc nếu kiêm nhiệm
Chủ tịch Hội đông quản trị sẽ nhanh chóng hơn trong việc thống nhất các mong đợi khác
nhau vì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc hiểu rõ tất cả các nhóm.
Dưới góc độ kiểm soát, nếu Giám đốc hoặc Tổng giám đốc kiêm nhiệm Chủ tịch
Hội đồng quản trị, ban điều hành công ty sẽ dễ bị lôi kéo và dễ có khả năng che giấu thông
tin (mà thường là thông tin không tốt) khỏi Hội đồng quản trị, do đó làm giảm khả năng
kiểm soát các hoạt động của công ty. Với cơ cấu quản trị công ty như vậy, dường như
không ai có thể kiểm soát Giám đốc hoặc Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị,
ngoại trừ chính ông ta.
Như vậy tuy là nhiệm vụ chỉ đạo và giám sát của Hội đồng quản trị đối với Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc trong trường hợp này tương đối đơn giản, tuy nhiên nó còn phụ thuộc
vào nhiều yếu tố khác đặc biệt là phụ thuộc vào ý thức và năng lực của người vừa là Giám

đốc hoặc Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị.
18
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Một ví dụ nhỏ, minh chứng cho việc kiêm nhiệm có lợi cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, để chúng ta cùng tham khảo: Có một công ty làm ăn có hiệu quả, được Nhà nước tặng
Huân chương Độc lập hạng Hai, vị đứng đầu kiêm một lúc 3 chức: Chủ tịch Hội đồng quản
trị, Tổng giám đốc, Bí thư Đảng ủy và năm 2008 được phong danh hiệu Anh hùng Lao
động và tặng thưởng nhiều Huân chương Vừa qua, vị này đã quyết định mua vật tư lúc
giá thấp, nên dù nay có thay đổi tỷ giá VNĐ/USD và tăng giá vật tư, thì Công ty đó vẫn
hoạt động bình thường được trong năm 2011. Lý giải cho thành công này, người đứng đầu
công ty đã cho biết: đó là do tập trung quyền lực nên đã nhanh nhạy “chớp” thời cơ, mà
không phải họp “bộ tứ, bộ tam”. Nếu họp bàn và đi đến nhất trí thì mất hết cơ hội. Mình
nhỏ, nên muốn tồn tại phải nhanh nhạy.
Trường hợp Chủ tịch hội đồng quản trị và Tổng giám đốc hoặc Giám đốc tách biệt.
Trong trường hợp này việc chỉ đạo và giám sát của Hội đồng quản trị đối với Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc trong điều hành công việc kinh doanh hàng ngày là một việc làm cần
thiết, nhằm kiểm soát và điều chỉnh kịp thời những sai lầm có thể mắc phải của Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc trong công việc điều hành kinh doanh. Tuy nhiên ngay trong trường
hợp này cũng tồn tại những khó khăn, bất cập và những quan điểm trái chiều.
Quan điểm phổ biến ở nhiều nước, sự tách biệt giữa vai trò Chủ tịch Hội đồng quản
trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là tất yếu và nhiệm vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị
và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là khác nhau và thậm chí có thể đối lập nhau. Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc điều hành doanh nghiệp, Chủ tịch Hội đông quản trị chịu trách nhiệm
điều hành Hội đồng quản trị - mà một trong những nhiệm vụ của Hội đồng quản trị là chỉ
đạo giám sát Tổng giám đốc.
Như vậy nhiệm vụ của Hội đông quản trị trong việc thực hiện chỉ đạo và giám sát
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong công việc kinh doanh hàng ngày của công ty trong
trường hợp này là rất cần thiết. Tuy nhiên để thực hiện được nhiệm vụ này Hội đồng quản
trị sẻ phải tốn rất nhiều thời gian và đôi khi lại ảnh hướng tới những quyết định cấp bách
của ban Giám đốc.

19
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Chương III
MỐI QUAN HỆ GIỮA HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VỚI BAN KIỂM SOÁT VÀ TỔNG
GIÁM ĐỐC/GIÁM ĐỐC TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN
Công ty cổ phần chính là mô hình kinh tế tiến bộ của xã hội văn minh loài người
hiện nay, để hiểu một cách đơn giản nhất thì chúng ta hiểu công ty cổ phần chính là một
“Nhà nước” thu nhỏ và ở đó Đại hội đồng cổ đông công ty đóng vai trò như là “cơ quan
lập pháp”, là cơ quan quyết định phương hướng phát triển và những vấn đề trọng đại khác
của công ty; Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc được coi là “cơ quan hành pháp”, cơ quan
điều hành hoạt động kinh doanh hàng ngày của Công ty; còn Ban kiểm soát đóng vai trò
của “cơ quan tư pháp”, cơ quan có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động của Hội đồng
quản trị và Ban Giám đốc công ty.
3.1. MỐI QUAN HỆ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VỚI BAN KIỂM SOÁT
Với các chức năng được quy định trong Luật Doanh nghiệp và điều lệ của công ty,
Ban kiểm soát thực hiện việc giám sát Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc/Giám đốc trong
việc quản lý và điều hành công ty, kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức
độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế
toán, thống kê và lập báo cáo tài chính cũng như thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh,
báo cáo tài chính hàng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý
của Hội đồng quản trị.
Như đã nêu ở trên, với chức năng là một “cơ quan tư pháp” trong một “nhà nước thu
nhỏ”, để có thể giám sát Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc, Ban kiểm soát cần phải độc
lập. Sự độc lập này cần được thể hiện trong việc thành lập và hoạt động của Ban kiểm soát.
Thông qua việc thực hiện chức năng của mình, Ban kiểm soát sẽ đảm bảo rằng các quyết
định của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc là phù hợp với pháp luật, với các nghị quyết
của Đại hội đồng cổ đông và bảo vệ lợi ích của các cổ đông. Chính vai trò bảo vệ cổ đông,
bảo vệ nhà đầu tư là lý do cho sự ra đời, tồn tại và hoạt động của Ban kiểm soát.
Trong một công ty hoạt động minh bạch, hoặc có mong muốn hoạt động minh
bạch, Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc công ty luôn nhìn nhận Ban kiểm soát

dưới góc độ vừa là người “thổi còi”, giúp Hội đồng quản trị ngừng ngay các sai phạm, để
không đi quá xa; vừa là người hỗ trợ tích cực cho các hoạt động cải tiến, đặc biệt trong các
lĩnh vực “nhạy cảm” như quản lý tài chính, quản lý đầu tư, quản lý quan hệ cổ đông… Thế
nhưng, ở không ít các công ty, Ban kiểm soát chỉ đóng vai trò như “con bù nhìn”, được
chính Hội đồng quản trị và các cổ đông lớn dựng lên cho có và hoàn toàn bị vô hiệu hóa,
thậm chí còn được xem là lực lượng hậu thuẫn, đứng sau, tiếp tay cho Hội đồng quản trị,
20
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
Tổng giám đốc/Giám đốc dấn sâu vào những hoạt động sai phạm, xâm phạm lợi ích các cổ
đông nhỏ lẻ.
Luật Doanh nghiệp, mặc dù có biện pháp bảo vệ cổ đông nhỏ thông qua điều khoản
quy định tiêu chuẩn và điều kiện làm thành viên Ban kiểm soát, nhưng các ràng buộc trong
luật lại khá lỏng lẻo, còn nhiều kẽ hở.
Điều 122, Luật Doanh nghiệp, (khoản 1, mục a) quy định thành viên Ban kiểm soát
không được là “vợ hoặc chồng, cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, con, con nuôi, anh, chị, em
ruột của thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc/giám đốc và người quản lý khác”.
Tuy nhiên, mối quan hệ thân thiết với các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám
đốc/giám đốc không chỉ là các thành phần trên mà còn nhiều quan hệ khác như chú, bác,
cô, dì ruột, anh, em nhà chú bác, cô, dì, anh, em vợ (chồng)… Nhiều công ty đã lợi dụng
kẽ hở này để đưa người thân vào ban kiểm soát nhằm có thêm tiếng nói ủng hộ hơn là để
kiểm soát.
Khoản 2, điều 122 cũng quy định: “Thành viên ban kiểm soát không được giữ các
chức vụ quản lý công ty”. Sự ràng buộc này càng không có ý nghĩa khi Hội đồng quản trị,
Tổng giám đốc/Giám đốc đưa nhân viên cấp thấp vào làm thành viên ban kiểm soát để dễ
bề sai khiến.
Mặt khác, nếu không phải là người bà con họ hàng hay nhân viên trong công ty, Hội
đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc vẫn có thể vô hiệu hóa Ban kiểm soát thông qua
việc không bỏ phiếu cho những người có khả năng và dũng khí để làm công tác kiểm soát.
Với số phiếu áp đảo, các thành viên Hội đồng quản trị (thường là các cổ đông lớn) có
quyền đề cử và bỏ phiếu cho người cùng phe cánh với mình vào Ban kiểm soát và loại bỏ

những người không cùng phe cánh với mình ra ngoài.
Trong các trường hợp trên, sự hiện diện của Ban kiểm soát sẽ chỉ thêm tốn tiền của
cổ đông (vì phải chi trả thu nhập cho các thành viên Ban kiểm soát) mà không đem lại lợi
ích gì. Không ngạc nhiên khi hầu hết các báo cáo của Ban kiểm soát trong các cuộc họp
Đại hội cổ đông đều khen Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc/Giám đốc, chứ không mấy
khi thấy chê.
Nếu toàn bộ quyền lực trong công ty cổ phần đều tập trung vào Hội đồng quản trị và
Ban giám đốc, thì không ai dám khẳng định rằng họ không lạm quyền và khi đó cổ đông sẽ
không được bảo vệ. Ban kiểm soát là một cơ chế phù hợp để cổ đông tự bảo vệ mình.
Muốn như thế, hoạt động của Ban kiểm soát cần được điều chỉnh bởi một khung pháp lý rõ
ràng hơn, đồng thời chính cổ đông phải hiểu rõ và sử dụng vai trò của Ban kiểm soát một
cách thông minh và phù hợp. Ngoài ra, khi được cổ đông tin tưởng và trao quyền, Ban
kiểm soát phải có đủ khả năng và dũng khí thực thi nhiệm vụ, các báo cáo của Ban kiểm
21
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
soát phải thể hiện được tính độc lập và chính xác. Chỉ có như vậy quyền lợi của cổ đông
mới được bảo vệ và xã hội mới tránh được những thiệt hại từ sự sụp đổ của các công ty cổ
phần.
Cơ chế nào để ban kiểm soát thực sự là một tổ chức độc lập, làm đúng chức năng
giám sát và kiểm soát mà không bị vô hiệu hóa hoặc được dựng lên như bù nhìn để hậu
thuẫn sau lưng Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc?
Cơ chế đơn giản và hiệu quả nhất là các thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám
đốc/Giám đốc không được quyền đề cử và không được quyền bỏ phiếu bầu thành viên ban
kiểm soát. Điều này là hợp lý, bởi lẽ Ban kiểm soát không tham gia quản lý, điều hành
doanh nghiệp, không có vai trò trong việc làm cho doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hay
kém hiệu quả, mà chỉ đóng vai trò giám sát hoạt động quản lý điều hành doanh nghiệp của
Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc/Giám đốc.
Thành viên Ban kiểm soát phải là người có năng lực, phải am hiểu điều lệ công ty,
phải am hiểu Luật Doanh nghiệp và một số luật liên quan khác như Luật Chứng khoán,
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng…; và có những hiểu biết nhất

định về tài chính, kế toán, về hệ thống quản lý và các nguyên tắc quản trị công ty.
Quan trọng nhất, thành viên Ban kiểm soát phải có đủ dũng khí và bản lĩnh để đương
đầu với sức ép và cả sự mua chuộc bằng nhiều cách, từ Hội đồng quản trị, Tổng giám
đốc/Giám đốc đang cố ý làm trái.
Đằng sau các thành viên Ban kiểm soát chân chính luôn có sự ủng hộ của Điều lệ
công ty (thường theo đúng chuẩn mực luật pháp) và các quy định của luật pháp. Nếu tiếng
nói cảnh báo, ngăn chặn chính đáng của mình bị coi thường hoặc bỏ qua, thành viên Ban
kiểm soát có quyền nêu vấn đề một cách độc lập (không phụ thuộc vào ý kiến của các
thành viên khác trong ban kiểm soát) ra Đại hội đồng cổ đông, ra các cơ quan quản lý nhà
nước và cơ quan pháp luật, thậm chí có quyền khởi kiện ra tòa.
Thiết tưởng, một cơ chế chặt chẽ hơn để hạn chế sự lũng đoạn cố tình của Hội đồng
quản trị, Tổng giám đốc/Giám đốc và các cổ đông lớn trong các công ty cổ phần là hết sức
cần thiết trong bối cảnh hoạt động của Ban kiểm soát, nhìn chung, chỉ mang nặng tính hình
thức mà không mấy hiệu quả.
3.2. MỐI QUAN HỆ HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VỚI TỔNG GIÁM ĐỐC/GIÁM ĐỐC
Theo quy định của luật doanh nghiệp, Tổng giám đốc/Giám đốc công ty là người
điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về
việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Tổng giám đốc/Giám đốc công ty cổ
phần không chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông mà trước Hội đồng quản trị, cơ
quan quản lý trực tiếp của công ty. Việc chịu trách nhiệm trực tiếp của Hội đồng quản trị
22
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa cơ quan quyền lực cao nhất của công ty và cơ quan điều
hành công ty, không đặt Tổng giám đốc/Giám đốc ở trong tình trạng luôn phải trả lời chất
vấn của bất kỳ cổ đông nào. Ngoài các nhiệm vụ được quy định trong luật và điều lệ công
ty, Tổng giám đốc/Giám đốc công ty còn có thể có các quyền và nhiệm vụ khác theo quyết
định của Hội đồng quản trị. Điều này nêu bật sự liên quan và phục tùng trực tiếp của Tổng
giám đốc/Giám đốc với Hội đồng quản trị.
Thông thường, Ban giám đốc và Hội đồng quản trị luôn xác định ranh giới làm việc.
Sự xác định này thể hiện bằng văn bản, tránh được sự chồng chéo, lạm quyền. Đặc biệt,

trong các công ty cỡ vừa, người ta bắt đầu phải dựa vào các nguyên tắc của cơ chế quản trị
công ty (corporate governence) để phân định rõ ranh giới của hai bên cả về quyền hạn và
trách nhiệm. Hội đồng quản trị không được và không nên can thiệp vào hoạt động hàng
ngày của Ban giám đốc, song trong nhiều trường hợp việc này vẫn xảy ra. Hội đồng này có
thể lấn quyền Ban giám đốc và cũng có thể làm thay Ban giám đốc. Điều này thường diễn
ra ở các công ty nhỏ, công ty gia đình, công ty hoạt động không đúng nề nếp cần có cũng
như các công ty thiếu tính minh bạch trong quản trị. Ngược lại, có không ít trường hợp các
Hội đồng Quản trị quá yếu kém nên quyền hành hoàn toàn nằm trong tay Ban giám đốc.
Tại Việt Nam, trong các công ty nhà nước, vài trò của Hội đồng Quản trị cũng luôn
lu mờ, thậm chí chỉ là hình thức do họ thường chỉ được chỉ định để đại diện cho phần vốn
của nhà nước chứ không thực sự là các ông chủ của công ty.
Khi Hội đồng quản trị là đại diện của chủ sở hữu thì Ban giám đốc thường là đại diện
của những người làm thuê cao cấp nhất của một công ty. Ban giám đốc có thể bị thay bởi
Hội đồng quản trị bất kỳ lúc nào; trừ khi bản Điều lệ công ty quy định khác đi. Về lý
thuyết quản trị doanh nghiệp, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc
là những người lãnh đạo trong doanh nghiệp. Theo cơ cấu quản trị, Hội đòng quản trị thực
hiện việc quản trị, đặc biệt tập trung vào hoạch định chiến lược, còn Tổng giám đốc/Giám
đốc thực hiện việc điều hành, thực hiện chiến lược.
Ở một số nước trong Liên minh châu Âu, có hai ban lãnh đạo riêng biệt, một ban
lãnh đạo phụ trách công việc kinh doanh hằng ngày và một ban giám sát phụ trách việc
định hướng cho công ty (được bầu ra từ các cổ đông). Trong trường hợp này, Tổng giám
đốc chủ trì ban lãnh đạo còn Chủ tịch Hội đồng quản trị chủ trì ban giám sát và hai lực
lượng này sẽ được tổ chức bởi những con người khác nhau. Điều này đảm bảo sự độc lập
giữa việc điều hành của ban lãnh đạo với sự cai quản của ban giám sát và phân ra một ranh
giới rõ ràng về quyền lực. Mục đích là để ngăn ngừa xung đột về lợi ích và tránh việc tập
trung quá nhiều quyền lực vào một cá nhân. Luôn có một sự song hành về quyền lực trong
cấu trúc cai trị của công ty, điều mà hướng tới một sự biệt lập giữa khối định ra chính sách
và khối điều hành công ty.
23
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải

Hiện nay, các doanh nghiệp thành công trên thế giới đang áp dụng cả hai mô hình:
kiêm nhiệm (Mỹ) và tách biệt (châu Âu). Cụ thể: 100% các công ty ở Đức & Hà Lan, Nam
Phi, Anh 95%, Úc 90%, Canada 65%, Bỉ và Singapo 57%, Mỹ 20% và Pháp 18%. Qua
thống kê trên chúng ta cũng thấy, ngay cả giữa Anh và Mỹ, hai nước vẫn được xếp loại
thuộc cùng nhóm Anglo-Xăcxông cũng có sự khác biệt rất rõ ràng. Ở Anh, khoảng 95%
trên tổng số 350 công ty trên Sàn giao dịch chứng khoán Luân Đôn tuân thủ nguyên tắc
Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc phải là hai người khác nhau.
Ngược lại, ở Mỹ trong vòng 15 năm qua, gần 80% trên tổng số 500 công ty trong danh
sách của Standard & Poor’s (S&P500) đã kết hợp hai vị trí này làm một. Còn ở châu Á, chỉ
57% các doanh nghiệp ở Singapore tách biệt hai vai trò Tổng giám đốc/Giám đốc và Chủ
tịch Hội đồng quản trị. Theo một thống kê thì hiện nay, khoảng 20% doanh nghiệp trong
nhóm 500 doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam (VNR 500) tách biệt vai trò Chủ tịch Hội
đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám đốc, trong khi đa số doanh nghiệp còn lại, một
người thường kiêm luôn hai nhiệm vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc/Giám
đốc.
Quá trình cổ phần và đại chúng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam tuy chỉ ở giai
đọan khởi đầu, nhưng đã có không ít sự kiện tai tiếng về quản trị công ty. Những vụ việc
đã từng xuất hiện khá dày đặc trên các phương tiện truyền thông đại chúng trong thời gian
qua, đặc biệt mới đây là Vinashin và trước kia là Bông Bạch Tuyết hay Đường La Ngà
cũng là xuất phát từ sự nhọc nhằn giữa vai trò niệm vụ của Hội đồng quản trị và Ban điều
hành công ty. Tuy nhiên, đây mới chỉ là khởi đầu của vấn đề quản trị doanh nghiêp mà cụ
thể hơn là việc giải quyết và kiềm chế các xung đột lợi ích trong bản thân doanh nghiệp.
24
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ thực tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển của nền
kinh tế thị trường . Do đó ,việc hình thành các công ty cổ phần là tất yếu đối với quá trình
phát triển mạnh của nền kinh tế thị trường. Mô hình công ty cổ phần đang ngày càng phát
triển ở Việt Nam. Sự phát triển của nó cũng là một tất yếu trong quá trình hội nhập phát
triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hội đồng quản trị trong công ty cổ phần có vai trò và nhiệm vụ rất lớn, và là “trung
tâm” quyền lực của công ty, bao quát hết tất cả các lĩnh vực hoạt động của công ty từ chiến
lược phát triển, kế hoạch kinh doanh, vốn , nhân lực chủ chốt cho đến công khai hóa, minh
bạch hóa và kiểm tra, giám sát. Tuy nhiên, quyền lực đó được thực hiện một cách có hiệu
quả hay không lại phụ thuộc nhiều vào quy mô, cơ cấu của Hội đồng quản trị, vị thế và
năng lực của từng thành viên Hội đồng quản trị, cũng như phương thức và cơ chế làm
việc, ý thức và thái độ làm việc của từng thành viên nói riêng và của Hội đồng quản trị nói
chung.
Nếu như ví công ty cổ phần như là một “con tàu” thì Hội đồng quản trị của công ty
chính là “vị thuyền trưởng”. “Vị thuyền trưởng” này mang trên mình một trọng trách nặng
nề đó là phải lèo lái làm sao để “con tàu” có thể tìm đến con đường đi thuận lợi nhất, an
toàn nhất, ngắn nhất và đặc biệt là đi đúng hướng với mục đích cuối cùng là “con tàu” sẽ
cập bến an toàn. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc
điều hành hoạt động của một công ty không phải là một việc đơn giản, trách nhiệm của Hội
đồng quản trị là cực kì lớn, mỗi một quyết định của Hội đồng quản trị mang tính quyết
định sống còn đối với công ty. Thực trạng hoạt động và mối quan hệ giữa các cơ cấu tổ
chức của công ty cổ phần hiện nay ở Việt Nam cũng như những quy định pháp lý xung
quanh vấn đề này còn nhiều bất cập. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự tác động của
rất nhiều yếu tố về: trình độ luật pháp, về cơ sở kinh tế, về tư duy quản lý v.v…Trên thực
tế thì loại hình công ty cổ phần ở nước ta cũng chỉ mới phát triển mạnh trong thời gian gần
đây, cho nên trong quá trình hình thành và phát triển có bộc lộ những vấn đề là điều hoàn
toàn có thể hiểu được. Thiết nghĩ, cần hoàn thiện hơn những quy định pháp luật về công ty
cổ phần, làm rõ hơn vai trò, vị trí, nhiệm vụ của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị,
Ban giám đốc, Bam kiểm soát để trách xảy ra tình trạng không tách bạch rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ đồng thời tránh chồng chéo quyền hạn giữa các bộ phận này. Cần có
những quy định chặt chẽ hơn đối với Ban kiểm soát của công ty cổ phần để bộ phận này có
thể thực hiện tốt chức năng giám sát, kiểm tra một cách độc lập đồng thời hỗ trợ cho Hội
đồng quản trị và Ban giám đốc thực thực hiện tốt vai trò của mình.
25
Tiểu luận môn Luật kinh tế GVHD: TS. LS. Bùi Xuân Hải

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005.
2. Nghị định số 102/2010/NĐ-CP - Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật
Doanh nghiệp.
3. ThS. Nguyễn Việt Khoa & ThS.Từ Thanh Thảo, Luật kinh tế, NXB Phương Đông,
2009.
4. TS. Nguyễn Hợp Toàn, Giáo trình pháp luật kinh tế, NXB Đại học Kinh tế Quốc Dân,
Hà Nội, 2008
5. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Luật doanh nghiệp tình huống – Phân tích – Bình luận,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009

×