Tải bản đầy đủ (.doc) (161 trang)

BÀI BÁO CÁO-SÁCH KINH TẾ Y TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 161 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Y tế công cộng là một chuyên ngành, đã được phát triển từ nhiều năm nay trên thế
giới. Ở Việt Nam chúng ta cũng đã có nhiều cơ sở đào tạo về Y tế công cộng, cả với đối
tượng đại học và sau đại học. Trong các chương trình đào tạo Y tế công cộng, Kinh tế y tế
là một trong những môn học quan trọng. Tuy nhiên việc ra đời sách giáo khoa chính thức
về Kinh tế y tế lại chưa được thực hiện. Với mục đích cung cấp cho sinh viên Cử nhân y tế
công cộng một tài liệu học tập chính thức về Kinh tế y tế, các giảng viên Bộ ôn Kinh tế Y
tế, Trường đại học Y Hà Nội đã biên soạn giáo trình Kinh tế y tế. Nội dung giáo trình này
được xây dựng dựa trên khung chương trình môn học Kinh tế Y tế dành cho đối tượng Cử
nhân y tế công cộng đã được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và đào tạo phê duyệt, gồm 3 phần
chính:
Một số khái niệm cơ bản về Kinh tế y tế. Phần này bao gồm các bài Giới thiệu về
Kinh tế y tế; Sức khoẻ và phát triển; Phân tích chi phí.
Các phương pháp đánh giá Kinh tế y tế. Phần này có các bài: Khái phân tích chi
phí - hiệu quả; Phân tích chi phí-Lợi ích; Phân tích chi phí - Thoả dụng; Khái niệm về
QALY, DALYs
Tài chính y tế : Phần này bao gồm các bài : Các mô hình tài chính y tế, Viện phí và
bảo hiểm y tế.
Mặc dù các giảng viên của Bộ môn Kinh tế y tế đã có nhiều cố gắng trong việc biên
soạn cuốn sách này nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi
chân thành cảm ơn các ý kiến phê bình, góp ý của các em học sinh, của các đọc giả để lần
tái bản sau được hoàn thiện hơn.
Hà Nôi, 11/2005
Thay mặt các tác giả
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
DELL
1
MỤC LỤC
DELL
2
TT Tên bài Tác giả


Trang
1 Giới thiệu về kinh tế và kinh tế y tế
PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
2 Sức khỏe và phát triển
PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
3 Phân tích chi phí
ThS. Nguyễn Thị Bạch Yến
4 Phơng pháp đánh giá gánh nặng bệnh tật
ThS. Hoàng Văn Minh
GS.TS. Trơng Việt Dũng
5 Phân tích chi phí hiệu quả
ThS. Hoàng Văn Minh
PGS.TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
6 Phân tích chi phí lợi ích
PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
7 Phân tích chi phí thoả dụng
PGS. TS. Nguyễn Thị Kim Chúc
8 Tài chính y Từ
ThS. Nguyễn Xuân Thành PGS.TS.
Nguyễn Thị Kim Chúc
9 Bảo hiểm y tế
DELL
3
ThS. NguyÔn Xu©n Thµnh PGS.TS.
NguyÔn ThÞ Kim Chóc
10 PhÝ kh¸m ch÷a bÖnh
ThS. NguyÔn ThÞ B¹ch YÕn
GIỚI THIỆU VỀ KINH TẾ VÀ KINH TẾ Y TẾ
MỤC TIÊU
Sau khi học bài này, sinh viên có thể:

1. Trình bầy một số khái niệm cơ bản về kinh tế học: Chi phí cơ hội, kinh tế
vi mô, kinh tế vĩ mô, kinh tế thực chứng, kinh tế chuẩn tắc.
2. Trình bầy khái niệm “cung ”và ”cầu”. Các yếu tố ảnh hưởng đến “Cung”,
Cân bằng “cung-cầu”.
3. Trình bầy một số khái niệm của kinh tế y tế: Hiệu quả và công bằng.
4. Phân tích sự khác nhau giưã thị trường và thị trường chăm sóc sức khoẻ.
1. KINH TẾ
1.1. Định nghĩa
Hàng ngày, chúng ta đều phải đưa ra các quyết định kinh tế. Là người tiêu
dùng, chúng ta muốn đạt được sự thoả mãn cao hơn khi chi tiêu mỗi đồng tiền-tức là
chúng ta muốn thu được giá trị tối đa từ những đồng tiền của mình. Là nhà sản xuất,
chúng ta tìm cách tối đa hoá lợi nhuận thu được. Là Chính phủ, chúng ta muốn đảm
bảo sự tăng trưởng kinh tế ổn định cho thế hệ chúng ta và các thế hệ tương lai. Kinh
tế học giúp chúng ta thoả mãn những mục tiêu này và lựa chọn được những giải
pháp hợp lý.
Kinh tế là một bộ môn khoa học nghiên cứu hành vi của con người với tư
cách là mối liên hệ giữa nhu cầu vô hạn và nguồn lực có hạn, có thể sử dụng theo
nhiều cách khác nhau. Nhu cầu của con người bao gồm nhu cầu về hàng hoá, dịch
DELL
4
vụ và những điều kiện mà con người muốn có. Nguồn lực là những thứ được sử
dụng để sản xuất hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nêu trên.
Định nghĩa trên chỉ ra hai vấn đề chính mà kinh tế học quan tâm. Trước hết,
nó khẳng định một điều hiển nhiên rằng cái mà chúng ta muốn là vô hạn (không thể
thoả mãn hết), nhưng cái mà chúng ta có thể đáp ứng được những nguyện vọng này
không chỉ khan hiếm mà còn có thể sử dụng vào những mục đích khác nhau. Ví dụ,
tất cả chúng ta đều muốn có một toà nhà lớn nhưng đất đai lại khan hiếm và đất đai
này này không những có thể sử dụng để xây dựng nhà, mà còn có thể sử dụng để
xây dựng nhà máy. Ngoài không khí là thứ để chúng ta thở ra, có rất ít hàng hoá tự
do. Phần lớn những thứ xung quanh ta là hàng hoá kinh tế, tức là hàng hoá có nhiều

cách sử dụng. Do vậy sự lựa chọn là cần thiết. Lựa chọn những gì? Thứ nhất, vì
không thể có mọi thứ nên chúng ta phải lựa chọn cái gì mình muốn nhất. Thứ hai, vì
các nguồn lực mà chúng ta có là hạn chế nên chúng ta phải lựa chọn cách làm thế
nào để có cái mà chúng ta muốn. Thứ ba, vì không phải bất cứ ai cũng có thể có
được mọi thứ mà xã hội sản xuất ra, nên chúng ta phải lựa chọn ai là người được
hưởng những cái mà xã hội sản xuất ra.

Khái niệm hữu ích nhất được sử dụng trong lý thuyết lựa chọn là khái niệm
chi phí cơ hội. Đây là một ý tưởng đơn giản, nhưng được vận dụng hết sức rộng rãi
trong cuộc sống, nếu chúng ta hiểu rõ khái niệm này, thì ta có được công cụ để xử lý
một loạt vấn đề kinh tế khác nhau, một loạt tình huống khác nhau xảy ra trong hoạt
động kinh tế. Nguồn lực là có hạn, nên nếu chúng được phân bố cho một mục đích
này thì không thể phân bố cho mục đích khác. Đối với một người nông dân, đất đai
có hạn, đã sử dụng để trồng loại cây này rồi thì không thể sử dụng để trồng loại cây
khác. Một doanh nghiệp, chỉ có một số vốn nhất định, nếu đã đầu tư cho hoạt động
này thì không đầu tư cho hoạt động khác được nữa. Lợi ích mang lại từ hàng hoá
không được sản xuất là chi phí cơ hội của hàng đã được sản xuất ra.
Đôi khi có một yếu tố sản xuất khan hiếm nhất, khi đó, người ta phải tập
trung vào nguồn lực khan hiếm này-nó là giới hạn ràng buộc, hạn chế khả năng lựa
chọn. Đối với một nhà triệu phú, tiền có thể không là giới hạn ràng buộc khi tiến
hành lựa chọn các mặt hàng tiêu dùng, thời gian quan trọng hơn. Ngược lại, đối với
người thất nghiệp, thời gian có thể là thứ rất sẵn nhưng tiền lại rất kham hiếm.

Minh hoạ 1. Chi phí cơ hội
1 phi cơ chiến đấu hiện đại = 40 tỷ Đôla
= Chi phí để sủa chữa 240 000 chiếc cầu ở Mỹ.
1 phi cơ ném bom B52 = 532 triệu Đôla
= Chi phí để mua 1 toà nhà cho 8000 gia đình.
DELL
5

1 xe tăng M-1 = 2,6 triệu Đôla
= Chi phí cho 50 sinh viên tu nghiệp trong 4 năm.
1 tên lửa Phượng hoàng không đối không = 1 triệu Đôla
= Chi phí 1 trạm an dưỡng 35 người già.
Chú ý, khái niệm "chi phí cơ hội" không bao hàm sự chi trả tiền. Nó chỉ đơn
giản là sự thể hiện lợi ích (có thể qui ra tiền) của những cơ hội bị bỏ qua.
DELL
6
1.2. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
Kinh tế học thực chứng (positive economy) giải thích sự hoạt động của nền
kinh tế một cách khách quan hoặc một cách khoa học. Mục tiêu của kinh tế học thực
chứng là giải thích xã hội quyết định như thế nào về tiêu thụ, sản xuất và trao đổi
hàng hoá. Sự khảo sát nhằm hai mục đích: (1) để giải thích nguyên nhân vì sao nền
kinh tế lại hoạt động như nó đang hoạt động và (2) để có cơ sở cho việc dự đoán
xem nền kinh tế sẽ phản ứng như thế nào với những thay đổi của hoàn cảnh.
Kinh tế học chuẩn tắc (normative economy) đưa ra các chỉ dẫn hoặc các
khuyến nghị dựa trên những đánh giá theo tiêu chuẩn của cá nhân.
Trong kinh tế học thực chứng, chúng ta hy vọng sẽ hành động như những nhà
khoa học không thiên vị. Dù chính kiến của chúng ta có thể thế này hay thế khác, dù
quan điểm của chúng ta về những điều mà chúng ta muốn nó xảy ra hoặc những cái
chúng ta cho là tốt, có thể khác nhau, thì trước tiên chúng ta phải quan tâm đến là
thực tế thế giới này hoạt động như thế nào. Chúng ta quan tâm đến những giả thuyết
có dạng: nếu cái này bị thay đổi thì cái gì sẽ xảy ra. Về khía cạnh này kinh tế học
thực chứng tương tự như các môn khoa học tự nhiên như vật lý học, địa chất học
hoặc thiên văn học.
Kinh tế học chuẩn tắc dựa trên có sở những ý kiến đánh giá chủ quan chứ
không dựa vào sự tìm tòi thực tế khách quan nào cả. Thí dụ, trong câu "Người già
phải chi tiêu cho bệnh tật rất nhiều so với người trẻ, vì thế nhà nước nên trợ cấp tiền
thuốc cho người già". Phần đầu của giả thiết-câu khẳng định rằng người già phải chi
tiêu cho sức khoẻ nhiều hơn người trẻ, là một phát biểu trong kinh tế học thực

chứng. Đó là phát biểu về thế giới này hoạt động như thế nào và chúng ta có thể
tưởng tượng một ra nghiên cứu có thể xác định phát biểu này đúng hay sai. Nói
chung phát biểu này là đúng. Phần thứ hai của giả thiết khuyến khích nhà nước nên
làm gì-không chứng minh được đúng hay sai bằng công trình nghiên cứu khoa học
vì đây chỉ là một ý kiến đánh giá chủ quan dựa vào cảm xúc của người phát biểu. Có
thể có nhiều người tán thành ý kiến này, một số người không tán thành mà vẫn có lý.
Số người không tán thành có thể cho rằng vấn đề quan trọng hơn là nên dành các
nguồn lực khan hiếm của xã hội để cải thiện môi trường.
Trong kinh tế học, không có cách nào để chứng minh rằng ý kiến chuẩn tắc
này là đúng, ý kiến chuẩn tắc kia là sai. Tất cả đều phụ thuộc vào ý thích, mức độ ưu
tiên của cá nhân hoặc xã hội khi phải thực hiện sự lựa chọn đó. Nhưng chúng ta có thể
sử dụng kinh tế học thực chứng để giải thích chi tiết về sự lựa chọn này hay sự lựa
chọn khác. Chẳng hạn, chúng ta có thể chứng minh rằng nếu không có trợ cấp tiền
thuốc cho người già thì những người trung niên có thể sẽ đi khám bệnh nhiều một
cách không cần thiết trước khi việc chữa bệnh trở nên quá đắt đỏ. Xã hội có thể sẽ
phải tăng nguồn lực để trang bị cho việc khám chữa bệnh và do đó nguồn lực dành
DELL
7
cho viêc cải thiện môi trường sẽ bị giảm đi so với dự định. Có thể sử dụng kinh tế học
thực chứng làm rõ các phương án mà trong số đó xã hội phải tiến hành sự lựa chọn
cuối cùng mang tính chuẩn tắc.
1.3. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
1.3.1. Kinh tế học vĩ mô
Định nghĩa: Kinh tế học vĩ mô là môn khoa học kinh tế tổng quát, nghiên
cứu các qui luật hoạt động kinh tế và khoa học hành vi-ứng xử trong quản lý kinh tế
ở phạm vi quốc gia, quốc tế.
Các quyết định ở tầm kinh tế vĩ mô xử lý các vấn đề liên quan đến nền kinh
tế quốc dân, các biến động kinh tế tổng quát như chính sách quốc gia về định hướng
đầu tư và sản xuất, cung ứng tiền tệ, chi tiêu của chính phủ, chính sách thuế, lạm
phát, thất nghiệp Trên phạm vi toàn xã hội, hàng loạt quyết định liên quan tới

việc lựa chọn các nguồn lực hiếm hoi được tạo ra từ sự quan sát nền kinh tế trên
phạm vi tổng thể.
Những nhóm người như các thành viên chính phủ, đại biểu quốc hội là những
người xây dựng chính sách (policy-maker). Họ chịu trách nhiệm ra quyết định về
các chính sách điều hành một bộ phận của nền kinh tế quốc gia và chính sách sử
dụng các nguồn lực quốc gia. Thông thường họ hy vọng phân phối các nguồn lực
nhằm mục tiêu mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Sự lựa chọn vĩ mô này đại loại như
sau:
- Lựa chọn giữa việc tăng thuế để cung cấp tiền cho những công trình công
cộng như xây dựng đường sá, nhà máy thuỷ điện; hoặc giảm thuế để khuyến khích
sản xuất hàng tiêu dùng như ô tô, TV
- Lựa chọn giữa việc sử dụng nguồn lực để sản xuất tên lửa, máy bay hoặc
xây dựng nhà ở rẻ tiền cho dân chúng.
- Lựa chọn giữa việc giảm biên chế hành chính và quân lực để cắt giảm chi
tiêu ngân sách hoặc tiếp tục lạm phát để bù đắp thâm thủng ngân sách.
Những câu hỏi về phương pháp ra quyết định lựa chọn không phải chỉ dành
riêng cho các "policy-maker". Kiến thức về kinh tế vĩ mô giúp các nhà hoạch định
chính sách ra các quyết định lựa chọn. Còn những người dân thì biểu thị sự lựa chọn
của họ thông qua lá phiếu bầu, để chọn người sẽ ủng hộ quan điểm của cử tri về
phúc lợi xã hội, thuế thu nhập, chi phí quốc phòng và trợ giúp cho giáo dục. Kiến
thức về kinh tế vĩ mô càng phổ cập trong các tầng lớp xã hội thì các quyết định lựa
chọn nêu trên càng chính xác.
DELL
8
Trong kinh tế học vĩ mô, có 2 khái niệm thường được sử dụng là tổng sản
phẩm quốc nội (GDP-Gross Domestic Products) và tổng sản phẩm quốc dân (GNP-
Gross National Products).
Tổng sản phẩm quốc nội là chỉ số đo lường kết quả hoạt động của nền kinh
tế, đó là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuôí cùng được sản
xuất ra trên phạm vi lãnh thổ của 1 nước trong một thời kỳ (thường là trong 1 năm).

Tổng sản phẩm quốc dân cũng là một chỉ tiêu đo lường kết quả sản xuất của
nền kinh tế. Sự khác nhau của GDP và GNP là :
GNP = GDP + Thu nhập yếu tố từ nước ngoài chuyển vào trong nước
- Thu nhập yếu tố từ trong nước chuyển ra nước ngoài
Tuỳ từng nơi, từng lúc, người ta sử dụng khái niệm GDP hay GNP. Nhưng cả
hai chỉ số này này đều mang tính vĩ mô của một nền kinh tế, chúng ảnh hưởng đến
mọi khía cạnh trong bất kể một xã hội nào. Thí dụ, để so sánh nền y tế hay hệ thống
y tế giữa các nước, người ta không chỉ đưa ra các chỉ số về tỷ lệ tử vong của trẻ em
dưới 5 tuổi, hay tỷ lệ chết mẹ, mà các con số này thường được so sánh kèm với
GDP hay GNP/đầu người. Đơn vị tiền tệ của GDP và GNP thường là đô-la Mỹ
(USD).
Tuy nhiên, giá trị của mỗi đô la Mỹ rất khác nhau giữa các quốc gia nên
người ta đã sử dụng một đơn vị tiền tệ khác để tính GDP, GNP đó là đô la Quốc tế.
Đơn vị tiền tệ này có sức mua tương đương đối với các quốc gia khác nhau
(Purchasing Power Parity-PPP).

1.3.2. Kinh tế học vi mô

Định nghĩa: Kinh tế học vi mô nghiên cứu chi tiết các quyết định cá nhân về
các hàng hoá cụ thể.
Ví dụ chúng ta có thể nghiên cứu tại sao các gia đình lại thích xe máy hơn xe
đạp và người sản xuất quyết định như thế nào trong việc lựa chọn sản xuất xe máy
hay xe đạp. Sau đó chúng ta tổng hợp quyết định của tất cả các gia đình và của tất cả
các công ty để biết được tổng sức mua và tổng sản lượng xe máy. Trong nền kinh tế
thị trường chúng ta có thể bàn về thị trường xe máy và thị trường xe đạp. bằng cách
so sánh thị trường xe máy với thị trưòng xe đạp, chúng ta có thể giải thích được giá
tương đối của xe máy và xe đạp và sản lượng tương đối của hai mặt hàng này.
DELL
9
0 10 20 30 40 50 Số lượng

5














1
0














1
5












2
0











2
5


G
i
á

Hình 1: Đường cầu
:
Đ
ư

n
g

c

u

1.4. Thị trường
1.4.1.Khái niệm
Thị trường là sự biểu hiện phân công lao động xã hội, ở đâu có sản xuất hàng
hoá thì ở đó có trị trường. Thị trường là tổng hợp các quan hệ kinh tế hình thành
trong hoạt động mua và bán. Theo nghĩa hẹp nhất, thị trường là nơi diễn ra các hoạt
động mua, bán hàng hoá/dịch vụ. Thị trường có thể được tổ chức dưới các dạng :
- Chợ: Người mua-người bán trực tiếp đàm phán về giá cả
- Siêu thị: Số lượng người bán ít, không có sự đàm phán về giá cả giữa người
mua và người bán.
- Đấu giá: Người mua tự định giá, người bán đóng vai trò thụ động.
- Thị trường chứng khoán: Người mua người bán giao tiếp gián tiếp qua Fax,
điện thoại,. . .
Tóm lại, thị trường là một quá trình, trong đó người mua và người bán một
thứ hàng hoá/dịch vụ nào đó, tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và số

lượng hàng hoá/dịch vụ.
Điều chung nhất đối với các thành viên tham gia vào thị trường là tìm cách
tối ưu sự lựa chọn của mình:
Bán hàng hoá/dịch vụ
Người sản xuất : Tối đa lợi nhuận (Profit)
Mua hàng hoá/dịch vụ
Người tiêu dùng: Tối đa hoá lợi ích (Utility)
Trong hệ thống thị trường, cái gì cũng có giá, biểu hiện bằng những dạng (từ
ngữ) khác nhau:
Hàng hoá/dịch vụ : Giá cả
Lao động : Tiền lương
Vốn : Lãi suất
Đất đai : Thuế
1.4.2. Cơ chế thị trường: Giá cả thị trường được định ra
giữa người mua và người bán là do qui luật cung cầu.

"Cung" và "cầu" là những phạm trù kinh tế lớn nhất
bao trùm lên thị trường. Khi thị trường có "cầu" thì sẽ có
"cung".
DELL
10
1.4.3. Cầu (Demand-D)
1.4.3.1. Lượng cầu: Là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và
sãn sàng mua ở một mức giá cụ thể trong một thời gian nhất định, với giả thiết các
yếu tố khác như thị hiếu, thu nhập, và giá của các hàng hoá khác, là giữ nguyên
(Giả thiết Ceteris Paribus-CP).
1.4.3.2. Cầu: Là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà người mua có khả năng và sẵn
sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định (với giả thiết CP).
"Cầu" không phải là con số cụ thể mà là sự mô tả toàn diện về lượng hàng
hoá/dịch vụ mà người mua sẵn sàng và có thể mua ở mọi giá. Nói cách khác, "cầu"

là mối quan hệ hàm số giữa "lượng cầu" và "giá cả" của hàng hoá.
"Cầu" (Demand) khác "mong muốn" (Want) và "Cần" (Need): "Mong muốn"
là những nguyện vọng hầu như vô hạn của con ngưòi, không mang tính chuyên
môn. Vì nguồn lực bao giờ cũng khan hiếm làm cho không phải mong muốn nào
cũng được thoả mãn. "Cần", trong y tế là mang tính chuyên môn, cần phải xử lý, sử
dụng một hình thức dịch vụ nào đó để phục vụ việc chăm sóc sức khoẻ. Trong khi
đó "Cầu" là sự sẵn sàng mua và có khả năng mua (chi trả).
1.4.3.3. Cầu thị trường: Là tổng số hàng hoá, dịch vụ mà mọi nguời sẵn sàng và có
khả năng mua ở các giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định (với giả
thiết CP).
Cầu thị trường = tổng cầu cá nhân

1.4.3.4. Biểu cầu: Là một bảng thể hiện mối quan hệ giữa lượng cầu của một loại
hàng hoá và giá cả của chính nó (với giả thiết CP).
1.4.3.5. Hàm số cầu: Qd = f(P): Đặc điểm của đường cầu là nghiêng xuống dưới về
phía phải, phản ánh mối quan hệ tỷ lệ nghịch có tính phổ biến giữa giá (P) và số
lượng hàng hoá (Q).
1.4.3.6. Luật cầu: Khi giá của một mặt hàng tăng lên (giảm xuống), lượng cầu về
hàng hoá đó sẽ giảm đi (tăng lên).
- Nếu hạ giá hàng hoá, kích thích người tiêu dùng mua nhiều lên (Với giả
thiết CP).
- Nếu giá tăng, buộc người tiêu dùng thay thế bằng hàng hoá khác rẻ hơn,
giảm lượng cầu của hàng hoá này.
DELL
11
Cú trng hp ngoi l: Khụng tng giỏ vn gim tiờu th (nc ỏ vo mựa
ụng); tng giỏ vn khụng gim tiờu th (qun ỏo ang mt).
1.4.3.7. Cỏc yu t quyt nh n cu: Biu cu v lut cu ch cp n nh
hng ca giỏ c n lng cu ca hng hoỏ ú vi gi thit CP. Khi gi thit CP
b vi phm thỡ cú nhng yu t no nh hng n xu hng vn ng ca cu?

- Thu nhp (Income):
+ i vi hng hoỏ bỡnh thng:
* Thu nhp tng:
Khi Q tng, ng cu
(D) dch phi ( mi mc
giỏ u tng tiờu th).
* Thu nhp gim: Q
gim, ng cu (D) dch
trỏi ( mi mc giỏ u
gim tiờu th).
+ i vi hng hoỏ th cp:
+ Thu nhp tng:
Khi Q gim, ng cu
(D) dch trỏi ( mi mc
giỏ u gim tiờu th) vỡ
ngi tiờu dựng chuyn
sang mua hng hoỏ tt
hn.
+ Thu nhp gim:
Khi Q tng, ng cu (D)
dch phi ( mi mc giỏ
u tng tiờu th).
Hỡnh 3. ng cu thay
i khi thu nhp tng
(i vi hng
hoỏ th cp)
DELL
12
D1
D

P
O
Q
2
Q
0
Q
1
Q
D2
(Hàng hoá bình th ờng)
< <
I
I
Hình 3
:
Đ ờngcầuthayđổikhith unhập
tăng
(Đối với hàng hoá bình th ờng)
Hỡnh 2. ng cu thay i khi thu nhp tng
(i vi hng hoỏ bỡnh thng)
D1
D
P
O
Q
2
Q
0
Q

1
Q
D2
(Hàng hoá thứ cấp)
< <
I
I
- Quy mô của thị trường (số lượng người mua): Khi số lượng người mua tăng 2
lần thì cầu về hàng hoá cũng tăng khoảng 2 lần.
- Giá cả và tình trạng sẵn có của những hàng hoá khác:

+ Hàng hoá không có liên quan (hàng hoá độc lập):Ví dụ rau xanh và xe Toyota:
Sự thay đổi giá của một mặt hàng này không làm ảnh hưởng đến cầu hàng hoá kia.
+ Hàng hoá có thể thay thế được cho nhau: Ví dụ Điện-Than-Gaz; Tiffy-
Decolgen: Nếu giá (P) một mặt hàng tăng/giảm thì cầu (D) của hàng hoá kia tăng/giảm
thuận chiều.
+ Hàng hoá bổ sung: Xăng-xe máy: Nếu giá (P) một mặt hàng tăng/giảm thì cầu
(D) của hàng hoá kia giảm/tăng.
- Thị hiếu (mốt, quảng cáo): Với một loại hàng hoá nhất định khi có chiến lược
quảng cáo tốt có thể tăng lượng cầu mặc dù giá không thay đổi hoặc thậm chí tăng.
1.4.4. Cung (Supply-S)
1.4.4.1. Lượng cung: Là số lượng hàng hoá/dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn
sàng bán ở 1 mức giá cụ thể trong một thời gian nhất định, với điều kiện khác như công
nghệ, giá, yếu tố đầu vào, chính sách nhà nước, là không thay đổi.
1.4.4.2. Cung: Là lượng hàng hoá/dịch vụ mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở
các giá khác nhau trong một thời gian nhất định, với giả thiết CP.
Như vậy, "cung" khác với "lượng cung": "Cung" không phải là một số lượng cụ
thể mà là sự mô tả toàn diện mối quan hệ giữa giá cả và "lượng cung" hàng hoá. "Cung"
là một hàm số thể hiện hành vi của người bán ở các mức giá khác nhau.
1.4.4.3. Biểu cung: Là bảng thể hiện mối quan hệ giữa lượng cung của một hàng hoá và

giá trị của chính nó.
1.4.4.4. Hàm số cung: Qs = g(P)
1.4.4.5. Đường cung: Đặc trưng cơ bản của đường cung (S): Nghiêng lên trên về phía
phải, thể hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận có tính phổ biến giữa P và Q.
5
10
15
20
25
15 30 45 60
(S)
P
Q
Hình 4. Đường cung

1.4.4.6. Luật cung: Với giả thiết các yếu tố khác không đổi, khi giá một mặt hàng tăng
thì lượng cung tăng và ngược lại. Vì:
- Nếu giá tăng, có thể đưa lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp, khiến họ bán ra
một lượng hàng hoá/dịch vụ lớn hơn; hoặc sẽ có thêm nhà doanh nghiệp về hàng hoá/dịch vụ
này tham gia vào thị trưòng.
- Nếu giá giảm, có thể đưa làm lợi nhuận thấp đi, khiến doanh nghiệp bán ra một
lượng hàng hoá/dịch vụ nhỏ hơn; hoặc sẽ có thể rút ra khỏi ngành đó.
Một số ngoại lệ trái luật cung: khi gía một mặt hàng tăng, nhưng do có lạm phát
nên doanh nghiệp vẫn không bán hàng.
1.4.4.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung:
- Công nghệ:
P
O
Q
2

Q
0
Q
1
Q< <
P
o
S
o
S
2
= S
o
- Tech S
1
= S
o
+ Tech
Hình 5. Yếu tố công nghệ ảnh hưởng đến cung
- Giá các yếu tố đầu vào:
+ Khi giá đầu vào tăng sẽ làm cho lợi nhuận giảm. Khi đó ở mọi mức giá, Qs
giảm sẽ làm đường cung (S) dịch trái.
+ Khi giá đầu vào giảm thì lợi nhuận tăng; ở mọi mức giá, Qs tăng sẽ làm đường
cung (S) dịch phải.
- Số lượng người sản xuất (hãng /doanh nghiệp trong thị trường): Với giả thiết
CP, số lượng người sản xuất tăng 2 lần, cung về hàng hoá sẽ tăng khoảng 2 lần.
- Chính sách điều tiết của Nhà nước: Nhà nước có thể thay đổi lượng cung bằng
cách áp dụng các chính sách nhất định. Ví dụ, tăng thuế hay bao cấp cho một loại hàng
hoá nào đó sẽ làm giảm hoặc tăng lượng cầu của hàng hóa đó.
P

O
Q
0
Q
1
Q<
P
o
S
o
S
1
= S
o
+ Tax

Hình 6. Chính sách của Nhà nuớc ảnh hưởng đến cung
1.4.5. Cân bằng cung cầu
1.4.5.1. Trạng thái cân bằng của thị trường:
- Cung, Cầu là sự khái quát 2 lực lượng cơ bản của thị trường, đó là người mua
và người bán:
+ Cầu phản ánh hành vi nguời mua.
+ Cung phản ánh hành vi người bán.

- Giá cân b ng: L m c giá t i ó s l ng h ng hoá/d ch v m ng i mua mu nằ à ứ ạ đ ố ượ à ị ụ à ườ ố
mua úng b ng s l ng h ng hoá/d ch v m ng i bán mu n bán. Nói cách khác, s cânđ ằ ố ượ à ị ụ à ườ ố ự
b ng th tr ng t c khi l ng c u b ng l ng cung.ằ ị ườ đạ đượ ượ ầ ằ ượ
- Đặc điểm quan trọng của mức giá cân bằng là nó không được xác định bởi từng
cá nhân riêng lẻ mà hình thành thông qua hoạt động của tập thể của người mua và người
bán. Đây là cách định giá khách quan của cơ chế thị trường.

Thí dụ: Trong thị trường đánh máy chữ: tại mức giá 200đ/trang là mức giá cân
bằng trên thị trường, 39 trang là sản lượng cân bằng.
Bảng 1. Cân bằng cung cầu
Giá một trang (đ) Lượng cung Tình trạng thị trường Lượng cầu
500
450
400
148
140
130 Dư thừa thị trường
5
8
11
350
300
250
114
90
62
16
22
30
200 39 Cân bằng 39
150
100
20
10
Thiếu hụt thị trường
47
57

1.4.5.2. Sự dư thừa và thiếu hụt:
- Sự dư thừa của thị trường (thặng dư -Surplus) là kết quả của việc “cung” lớn
hơn “cầu” ở một mức giá cụ thể.
- Sự thiếu hụt của thị trường (thặng dư cầu-Shortage) là kết quả của việc “cầu”
lớn hơn “cung” ở một mức giá cụ thể.
Bất cứ lúc nào giá cả thị trường cao hơn hoặc thấp hơn mức giá cân bằng thì sẽ
xuất hiện tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt. Để khắc phục tình trạng mất cân bằng này
thì cả người mua và người bán đều phải thay đổi hành vi của mình để thị trường đạt
được mức giá cân bằng.
0
100
200
300
400
500
600
0 20 40 60 80 100 120 140 160
CÇu thÞ tr êng
Cung thÞ tr êng
Gi¸
P
Thõa
Gi¸ c©n b»ng
ThiÕu
Sè l îng (trang)
Q
Hình 7. Cân bằng cung cầu
1.4. 6. Thị trường hoàn hảo
Một thị trường được gọi là hoàn hảo khi:
- Không có hàng rào vào và ra đối với người cung ứng;

- Các loại hàng hoá tự điều chỉnh điểm cân bằng;
- Không hạn chế, không khuyến khích việc tiêu dùng và sản xuất;
- Hàng hoá không mang tính "Công cộng".
1.4.7. Các hệ thống kinh tế
Hệ thống kinh tế mà các nước sử dụng để giải quyết các vấn đề kinh tế như sản
xuất cái gì, như thế nào và cho ai có thể được phân loại thành:
1.4.7.1. Hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung: Trong đó, tất cả các quyết định lựa chọn
về việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai đều do Nhà nước đưa ra.
Những người lãnh đạo của Chính phủ đưa ra quyết định cơ bản về việc sản xuất bao
nhiêu cho tiêu dùng, bao nhiêu cho đầu tư, cũng như ngành nào cần mở rộng và ngành
nào bị cắt giảm. Sau đó, các đơn vị và các cơ quan cấp dưới quyết định làm thế nào để
đáp ứng được các mục tiêu sản xuất. Sự lựa chọn của người tiêu dùng bị giới hạn bởi
những chỉ thị phải sản xuất như thế nào của nhà nước. Giá được đặt ra theo hệ thống
hành chính: các nhà sản xuất hoạt động trên cơ sở giá được qui định từ trước cho những
nguồn lực mà họ cần cho sản xuất, và người tiêu dùng phải chấp nhận giá cố định của
hàng hoá tiêu dùng mà họ mua.
1.4.7.2. Hệ thống kinh tế thị trường: Trong đó, người tiêu dùng lựa chọn mua sản
phẩm gì thông qua lá phiếu bằng tiền của anh ta, các xí nghiệp tư nhân quyết định sản
xuất như thế nào vì mục đích lợi nhuận của họ, trong khi thu nhập quyết định hàng hoá
sản xuất ra sẽ phân phối cho ai. Cơ sở triết học của nền kinh tế thị trường là ở chỗ: Việc
cá nhân quyết định mua những gì mà họ thích sẽ dẫn đến thực tế là “có một bàn tay vô
hình” thực hiện những điều đem lại lợi ích cho cả xã hội một cách một tổng thể. Trong
mọi trường hợp, cơ chế giá cả đều giữ một vai trò quan trọng trong việc đưa ra những
quyết định nêu trên.
1.4.7.3. Hệ thống kinh tế hỗn hợp: Một số lựa chọn là do các cá nhân thực hiện, còn một
số lựa chọn khác là do nhà nước đưa ra. Cả hai điều đó tác động qua lại để giải quyết
các vấn đề của kinh tế. Ví dụ, chính phủ quyết định hình thức đầu tư nước ngoài để
khuyến khích, nhưng không can thiệp vào các chức năng của khu vực tư nhân. Hiện
nay, có rất ít ví dụ về một nền kinh tế kế hoạch hoặc là tập trung hoặc là thị trường một
cách thuần tuý. Hầu hết các nước đều có một hệ thống kinh tế hỗn hợp, cho dù có một

số nước gần với hệ thống kế hoạch hoá tập trung hơn và một số nước khác gần với hệ
thống kinh tế thị trường hơn.

2. KINH TẾ Y TẾ
2.1. nh ngh a Đị ĩ
Tất cả mọi người sống trên thế giới này đều có khi đau ốm, và tất cả mọi nguồn
lực trên thế giới đều được sử dụng để cho mọi người sống tốt đẹp hơn. Vấn đề kinh tế y
tế quan tâm là: Mối quan hệ giữa sức khoẻ và nguồn lực được sử dụng để tăng cường
sức khoẻ. Nguồn lực không chỉ là tiền, mà còn là con người, trang thiết bị và cả thời
gian nữa. Tất cả những nguồn lực này đều có thể dùng cho những việc khác nữa ngoài
tăng cường sức khoẻ. Có điều cần nhấn mạnh ở đây là, nhu cầu con người là vô hạn,
không phải chỉ có sức khoẻ, mà còn có thức ăn, nhà ở, giải trí, và vô vàn những nhu cầu
khác, trong khi đó thì nguồn lực lại hữu hạn để thoả mãn những nhu cầu của con người.
Chính vì vậy mà người ta phải lựa chọn, từng cá nhân lựa chọn, từng nhóm người lựa
chọn: Nhu cầu nào là quan trọng nhất và sử dụng nguồn lực thế nào cho hợp lý. Kinh tế
y tế là môn học giải thích sự lựa chọn này.
Vì vậy, kinh tế y tế sẽ trả lời các câu hỏi sau:
- Sức khoẻ là gì? Nên đầu tư vào sức khoẻ như thế nào và đầu tư bao nhiêu?
- Bằng cách nào đo lường sức khoẻ?
- Giá trị của sức khoẻ như thế nào?
- Cách thức để tăng cường sức khoẻ, kể cả trong và ngoài ngành y tế?
- Làm thế nào phân bố kinh phí một cách tổng thể?
- Những tiêu chí nào định hướng cho hoạt động của chúng ta?.
Những câu hỏi trên dường như mang tính lý thuyết. Còn về thực tế, những nhà
kinh tế y tế quan tâm đến vấn đề phân bổ kinh phí trong lĩnh vực y tế một cách tổng thể
và cách thức để lý giải sự thành công của các chính sách. Để làm được điều đó thì họ lại
phải trả lời những câu hỏi trên. Những nhà kinh tế y tế còn phải quan tâm đến những
hoạt động nằm ngoài lĩnh vực y tế nhưng lại có ảnh hưởng đến tình trạng sức khoẻ.
- Hệ thống y tế tổng thể của chúng ta thế nào?
- Chúng ta dành bao nhiêu kinh phí cho y tế?

- Kinh phí như vậy đã hợp lý chưa?
- Chúng ta thu được gì từ số kinh phí đó?
- So sánh hệ thống y tế của ta với các nước khác?
- So sánh tình trạng sức khoẻ của ta với các nước khác?
Vấn đề cốt lõi của kinh tế y tế là làm thế nào cho chăm sóc sức khoẻ có hiệu quả
cao. Người ta phân biệt hai loại hiệu quả: Hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ.
Hiệu quả kỹ thuật là thực hiện được nhiều hoạt động hơn với cùng một nguồn
lực hoặc thực hiện cùng số hoạt động với nguồn lực ít hơn. Điều kiện cơ bản của đánh
giá hiệu quả kỹ thuật là chất lượng của hoạt động không được thay đổi. Nếu chất lượng
giảm và số lượng hoạt động tăng lên thì cũng không được gọi là tăng hiệu quả kỹ thuật
mà chỉ được gọi là tăng hoạt động.
Hiệu quả phân bổ là đưa nguồn lực vào các hoạt động có năng suất cao hơn.
Trong y tế, điều này có nghĩa là sử dụng nguồn lực nhất định để tăng sức khoẻ cho số
đông người hơn. Thí dụ, một bệnh viện có thể có hiệu quả kỹ thuật cao khi bệnh viện này
sử dụng nguồn lực tối thiểu để tạo ra một khôí lượng hoạt động nào đấy, nhưng bệnh viện
này về hiệu quả phân bổ lại không đạt vì sử dụng nguồn lực cho kỹ thuật cao, không phục
vụ được đông đảo quần chúng mà chỉ phục vụ được một số nhỏ người có tiền.
2.2. Sức khoẻ, mục tiêu công cộng và kinh tế y tế
Nếu chúng ta đo lường chi phí và lợi ích của một chiến lược chăm sóc chăm sóc
sức khoẻ nào đó, chúng ta phải hiểu rõ về mục tiêu chung cũng như các chỉ số để đánh sự
thành công của chiến lược đó. Phần này sẽ thảo luận về các loại hình khác nhau của
những mục tiêu công cộng và cách thức để có thể đo lường các loại hình đó.
Nói chung, các nhà kinh tế cho rằng mục tiêu công cộng là tối đa hoá phúc lợi xã
hội. Điều đó có nghĩa là tối đa hoá tổng sản phẩm (hay là hiệu quả, theo nghĩa rộng)
nhưng còn là phân bổ kinh phí theo cách nào đó để sản xuất được nhiều phúc lợi nhất (khi
đó là tiến tới sự công bằng). Ví dụ, đối với phúc lợi của một cá nhân thì sức khoẻ tốt sẽ
đóng góp tỷ lệ như thế nào so với đồ ăn, áo mặc và nhà ở? Và còn câu hỏi khác nữa, bằng
cách nào chúng ta đo lường và tổng hợp những phúc lợi cá nhân?
Nếu như chúng ta đặt mục tiêu là tối đa hoá sức khoẻ thì câu hỏi sẽ là, lĩnh vực
nào, biện pháp can thiệp nào có thể đưa lại kết quả tốt nhất cho sức khoẻ ở mức giá thấp

nhất và theo cách thức mà xã hội chấp nhận là công bằng.
Trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, chúng ta cũng có những câu hỏi như vậy
nhưng chúng ta cũng quan tâm những lợi ích khác của chăm sóc sức khoẻ. Để có sức
khoẻ tốt hơn có thể do tăng đáng kể dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, nhưng cũng còn có
những giá trị khác, như sự bền vững của xã hội tăng lên. Sự phân bố thành quả đối với
các thành viên của xã hội thường có thể có ý nghĩa hơn là tổng thành quả. Người ta biết
rằng sự sẵn có dịch vụ y tế đáp ứng ngay được chăm sóc trong trường hợp thập tử nhất
sinh được coi là quan trọng hơn những can thiệp y tế có giá thành hiệu quả cao. Chúng
ta phải xem xét các tiêu chuẩn khác nhau để đánh giá sức khoẻ một cách tổng thể (thí dụ
như, liệu chúng ta sẵn sàng chi bao nhiêu để chất lượng sức khoẻ, cuộc sống được cải
thiện). Tương tự như vậy, khi khi đánh giá một biện pháp can thiệp chăm sóc sức khoẻ,
chúng ta cần xem xét không chỉ đầu ra về sức khoẻ mà còn cả việc làm giảm đau, giảm
ưu buồn, sự yên tâm cho những người thân của bệnh nhân và cả hậu quả của chính quá
trình chăm sóc sức khỏe (những điều đó có đựơc thông báo không? hay người bệnh cảm
thấy rắc rối, không đường hoàng, ).
Đối với các nhà kinh tế y tế, để đơn giản hoá, người ta cho rằng mục tiêu tổng thể
là cải thiện sức khoẻ của cả cộng đồng. Công việc của họ là đo lường mục tiêu và đo
lường các chiến lược để đạt mục tiêu đó. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong mỗi một
ngữ cảnh nhất định thì người ta lại thảo luận và thống nhất mục tiêu là gì và đưa ra càng
xa càng tốt các ảnh hưởng có thể có được của mỗi một hình thức can thiệp (cả mặt âm
và mặt dương).
2.3. Công bằng
Trong kinh tế y tế, nhiều khi người ta cho "Công bằng" là một mục tiêu quan
trọng. "Công bằng" cũng còn là một tiêu chuẩn để đánh giá sự thành công của những
chính sách trong lĩnh vực y tế. Nhưng công bằng là gì? và cần phải áp dụng khái niệm
này thế nào?
"Công bằng" là không thiên vị, không khác biệt. Không khác biệt đối với tất cả
mọi khía cạnh trong cuộc sống. Con người là sinh vật mang tính xã hội và đánh giá sự
việc một cách tương đối: Chúng ta chỉ biết chúng ta có cái gì khi nhìn thấy cái mà nhà
hàng xóm có. Điều này ảnh hưởng đến cách đánh giá của chúng ta về vị trí của chúng ta

trong thứ bậc xã hội, về mong ước và cuối cùng về hạnh phúc của chúng ta. "Không
khác biệt", tuy nhiên, chỉ là khái niệm cơ bản, và đặc biệt nó được áp dụng trong lĩnh
vực sức khoẻ, một lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong phúc lợi của chúng ta.
Có một số cách giải thích "công bằng" như sau :
(1). Ngang bằng về nguồn lực/sử dụng dịch vụ (Equal resources/use of
services): Mọi người đều đựợc nhận những loại dịch vụ giống nhau hay có cùng một
nguồn lực như nhau để sử dụng cho chăm sóc sức khoẻ, điều này ít thuyết phục vì theo
quan điểm hiệu quả, thì nhu cầu về sức khoẻ của người ta rất khác nhau.
(2). Ngang bằng về sức khoẻ ( Equal health). Có phải là mọi người đều có quyền
ngang bằng về sức khoẻ? điều đó là tham vọng và có thể là lầm lạc. Con người có tài
sản sức khoẻ rất khác nhau và người này tự trông coi tài sản nhưng người khác thì lại
không. Nếu ai đó thích uống rượu để rồi kết thúc cuộc đời sớm hơn người khác thì lẽ
nào nhà nước lại phải có trách nhiệm đổ tiền của để gìn giữ cuộc sống cho người đó?
(3). Cơ hội như nhau (Fair innings). Một cách giải thích khác là "cơ hội như
nhau", ngưòi ta có thể đặt mục tiêu vào một tuổi nào đó. Các hoạt động y tế đều tập trung
làm thế nào để càng nhiều người sống đến tuổi đó càng tốt. Hậu quả của điều này là sao?
Nếu người nào đó do yếu tố di truyền hoặc do hành vi của mình khiến chết sớm hoặc bị
tàn phế thì sẽ nhận được nguồn lực cho sức khoẻ không cân đối, trong khi đó thì những
người sống quá tuổi trên sẽ bị lơ lài kể cả một điều trị có tính hiệu quả cao mà ít tốn kém
cho họ. Theo giải thích này công bằng chẳng mang tính hiệu quả mà cũng chẳng phải là
"không thiên tư".
(4). Ngang bằng trong tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế dựa theo cái “cần”
(Equal access/utilisation according to need) Điều này nếu nói theo nghĩa hẹp thì đó là sự
ngang bằng về địa lý trong tiếp cận cơ sở y tế, theo nghĩa rộng thì nó bao hàm cả chất
lượng dịch vụ và có khả năng chi trả các dịch vụ này. Nếu theo nghĩa rộng thì giá viện
phí phải khác nhau hoặc phải có sự tái phân bổ thu nhập nhằm đảm bảo chi phí thật là
bình đẳng giữa các nhóm có thu nhập khác nhau. Nếu lấy ngang bằng trong sử dụng là
mục tiêu, thì sẽ phá vỡ hàng rào văn hoá, mà hàng rào này khiến cho những nhóm nào
đó (về giới tính, về dân tộc, về tôn giáo) không sử dụng hết những dịch vụ thích hợp.
Điều trị ngang bằng cho những cái “cần” như nhau là quan điểm đạo đức cơ bản

đối với những thầy thuốc lâm sàng. Điều này tuân thủ nguyên tắc "công bằng ngang",
nghĩa là đối với những người có bệnh như nhau sẽ được chữa trị như nhau. Điều này
quả là quan trọng nhưng lại không nói lên được cái gọi là "công bằng dọc" hoặc là trong
những trường hợp bệnh không giống nhau thì điều trị thế nào? Cái khó nhất là làm sao
xác định ưu tiên trong các nhóm người khác nhau với các vấn đề sức khoẻ khác nhau (ví
dụ, cái gì quan trọng hơn: giảm tỷ lệ chết mẹ hay đối phó với vấn đề sức khoẻ tâm
thần?)
(5). Điều trị dựa trên mức độ hiệu quả của liệu pháp điều trị (Treatment
according to capacity to benefit). Mức độ hiệu quả của một liệu pháp điều trị phụ thuộc
vào khả năng hiệu lực của kỹ thuật và đặc tính của người bệnh, đặc tính bệnh nhân có
thể làm cho một liệu pháp trở thành có hay không có tác dụng. Định nghĩa này được các
nhà kinh tế ưa dùng vì nó liên kết khái niệm không thiên tư với khái niệm hiệu quả và
với khái niệm tối ưu hoá lợi ích sức khoẻ. Giả thiết được đặt ra là đồng tiền nên bỏ vào
những chỗ có thể đem lại hiệu quả điều trị tốt nhất so với khả năng.
Điều này đưa ra một qui tắc kỹ thuật có tính kinh nghiệm, nguyên tắc tránh được
những quyết định tế nhị giữa các nhóm bệnh và xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, dường
như chúng ta không có khả năng đo lường được sự khác nhau về hiệu quả sử dụng liệu
pháp điều trị của các bệnh nhân. Hơn thế nữa, theo cách này, có thể gây nên sự nhẫn
tâm, nếu một người nào đó không có khả năng đáp ứng tốt với liệu pháp điều trị thì sẽ
không được điều trị. Ví dụ, với một người nghiện thuốc và dường như là kém hiệu quả
nếu như áp dụng biện pháp phẫu thuật, thế thì chúng ta sẽ mổ cho bệnh nhân đó hay
chúng ta sẽ dành tiền cho việc cai thuốc của người đó để làm tăng hiệu quả của việc
phẫu thuật.
Có nhiều cách định nghĩa "công bằng". Ba định nghĩa đầu tiên được cho là quá
quân bình, không xem xét đến sự khác nhau về nhu cầu và hành vi của những con người
khác nhau. Ngang bằng về tiếp cận dựa trên nhu cầu có lẽ gần nhất với sự giải thích về
công bằng. Tuy nhiên, nó cũng đưa ra một chút nào đó về việc xác định ưu tiên giữa các
nhóm người có mức “cần” khác nhau. Định nghĩa cuối cùng mang nhiều tính lý thuyết
mà khó áp dụng trong thực tế.
Vấn đề gì xảy ra khi chúng ta sử dụng định nghĩa này hay định nghĩa khác? Xã

hội khác nhau sẽ có những ưu tiên khác nhau, nhưng rõ ràng cần có sự nhất trí khi mục
tiêu về công bằng được nêu lên. Cũng có ích nếu chúng ta xác định xem để đạt được sự
công bằng thì chúng ta có quá tốn kém không, nếu có, thì sức chúng ta có thể chi được
bao nhiêu? Ví dụ, một vùng núi, mật độ dân cư thấp, và lại thiếu cơ sở y tế. Nhà nước
cho rằng phải xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng quê hẻo lánh này để giảm bất công bằng
về y tế. Vốn đầu tư cơ bản cho cơ sở hạ tầng sẽ rất lớn và lợi ích thu được thì thấp, so
một cách tương đối, vì số dân nhỏ. Nhiều nhu cầu về sức khoẻ có thể được đáp ứng với
giá thành thấp hơn nếu như ta đầu tư vào các chương trình sức khoẻ có tỷ số chi phí-
hiệu quả thấp.
Công bằng và hiệu quả có thể là bạn đồng hành. Một số can thiệp tốt nhất về chi
phí-hiệu quả (như việc khuyến khích sử dụng ORS trong tiêu chảy) mang lợi ích cho
những người nghèo hơn là cho những người giàu. Nếu tỷ lệ sử dụng kinh phí cho tuyến
tỉnh, trung ương ở các thành phố cao thì chẳng có hiệu quả (về mặt phân bổ nguồn lực)
và cũng chẳng có tính công bằng. Như vậy không có sự loại trừ lẫn nhau giữa "công
bằng" và "hiệu quả" và chúng ta phải quan tâm cả hai.
Minh hoạ 2. Ví dụ về sự bất công bằng
Một cán bộ ở Vụ kế hoạch Bộ Y tế được yêu cầu xây dựng kế hoạch về bảo
hiểm y tế cho viên chức nhà nước. Bảo hiểm y tế sẽ như một hình thức thù lao
thêm, để cho các viên chức yên tâm với công việc, không bỏ cơ quan để đi làm
tư nữa. Đó cũng được coi như một cách làm nhẹ bớt gánh nặng của y tế công
cộng. Nếu kế hoạch này được thực hiện thì có gì đáng lo ngại về công bằng
không?
Nếu như chi phí cho bảo hiểm y tế của các viên chức nhà nước nằm trong phần
thuế tổng thể thì câu hỏi đầu tiên sẽ là: Ai đóng thuế? Thuế tính theo luỹ tiến (nghĩa là
người giầu đóng nhiều hơn người nghèo tính theo tỷ lệ thu nhập) hay là theo đầu người
(nghĩa là người nghèo đóng nhiều hơn người giầu, tính theo tỷ lệ thu nhập)?. Câu hỏi
thứ hai: Vị trí của những người đựợc hưởng lợi (Viên chức nhà nước) so sánh tương đối
với phần còn lại của xã hội. Nếu chế độ thu thuế là theo đầu người và viên chức nhà
nước là những người khá giả trong xã hội thì việc phát hành bảo hiểm y tế cho viên
chức nhà nước sẽ chuyển nguồn lực từ người nghèo sang người giầu, hay là làm tăng

thêm sự bất công bằng.
Cũng còn có một câu hỏi rất quan trọng về tác động của cơ chế trên lên dịch vụ y
tế công như thế nào. Nếu như có một nhóm người có ảnh hưởng mà lại không sử dụng
hệ thống công này thì dường như là bệnh viện sẽ mất bản sắc chính trị và cuối cùng là bị
giảm đầu tư. Điều này sẽ dẫn đến việc số đông dân chúng sẽ sử dụng dịch vụ không
được cung cấp kinh phí đầy đủ và chất lượng dịch vụ kém.
Cuối cùng, công bằng ở đây có thể được xem xét dưới góc cạnh tình trạng sức
khỏe. Mức độ cần dịch vụ chăm sóc sức khỏe của nhóm viên chức nhà nước và của số
đông dân chúng còn lại như thế nào? Nếu tình trạng sức khỏe của nhóm viên chức tốt
hơn mức độ trung bình thì việc chuyển nguồn lực đến họ sẽ là không hợp lý và điều này
dường như làm tăng chứ không phải là giảm sự bất công bằng về sức khoẻ.
Trong trường hợp này, lý luận về công bằng của người cán bộ trên có thể nặng
hơn lý luận về tăng thù lao cho viên chức (lý luận này có thể cũng không giải quyết
được vấn đề hiệu quả với khái niệm là giữ cán bộ làm việc tại hệ thống công).
Bảng kiểm công bằng thường tính đến các yếu tố sau:
- Nguồn lực:
 Cơ sở tài chính: đóng góp là luỹ tiến (người giàu phải đóng góp nhiều hơn),
hay đóng góp theo đầu người (người nghèo phải đóng góp nhiều hơn)?
 Tỷ lệ hộ gia đình sau khi đóng thuế vẫn còn đủ tài chính để chi trả cho chăm
sóc sức khoẻ?
 Tỷ lệ người không có khả năng chi trả viện phí, thuốc men, (phải vay tiền để
làm việc này; Không dùng dịch vụ y tế khi cần thiết; hoặc tìm cách khác như
tự mua thuốc chữa bệnh hay dùng thuốc dân tộc rẻ tiền)?
 Tài chính công cộng được sử dụng cân đối giữa chăm sóc sức khoẻ tuyến đầu
và tuyến trên như thế nào?
 Tỷ lệ tài chính tư khu vực công và tư thế nào?
 Các nhóm thu nhập khác nhau có sử dụng DVYT khác nhau hay không?
 Sự phân bổ nguồn lực y tế cho các vùng có dựa trên mức độ cần không?
 Có cơ chế miễn giảm viện phí và tiền thuốc cho những nhóm người nhất định
không?

- Cấu trúc:
 Việc phân bổ dịch vụ y tế giữa các vùng là ngẫu nhiên hay theo mức độ cần?
 Chất lượng dịch vụ y tế giữa các vùng có khác nhau hay không?
 Ở các vùng khác nhau: thuốc, nhân lực, trang thiết bị y tế có đầy đủ như nhau
không?
- Tình trạng sức khoẻ:
 Các chỉ số sức khoẻ giữa các nhóm thu nhập, giới, dân tộc có khác nhau đáng
kể không?
3. KINH TẾ VÀ THỊ TRƯỜNG CHĂM SÓC SỨC KHỎE
Một trong những vai trò quan trọng của kinh tế y tế là phân tích sự hoạt động của
thị trường chăm sóc sức khoẻ. Chúng ta cần trả lời các câu hỏi như sau: Người dân đánh
giá thế nào về chăm sóc sức khoẻ? Người dân sẵn lòng chi trả bao nhiêu cho chăm sóc
sức khoẻ? Hành vi của người cung ứng như thế nào? vấn đề cạnh tranh đối với những
người cung ứng ra sao?

Phần này sẽ đề cập đến cách thức nhà kinh tế phân tích thị trường, giải thích các
khái niệm quan trọng của kinh tế trong lĩnh vực y tế bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
- Cầu: cầu là gì? Người tiêu dùng sẽ quan tâm đến những khía cạnh nào khi họ
tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khoẻ?
- Cung: Những yếu tố nào ảnh hưởng đến người cung ứng (bác sĩ, dược sĩ, )?
- Cung và cầu thay đổi thế nào khi gía, thu nhập và những yếu tố quan trọng khác
thay đổi?
- Can thiệp có ảnh hưởng thế nào đối với thị trường?
- Điều kiện để một thị trường là hoàn hảo?
- Chăm sóc sức khoẻ có là thị trường hoàn hảo không?
- Cần phải làm gì khi trị trường thất bại?.
3.1. C uầ
Chị Lan sống ở một làng nhỏ, xã X, huyện Y. ở trung tâm huyện có bệnh
viên Nhà nước, bệnh viện này cách nhà chị 20km. Trẻ em khám chữa bệnh
tại bệnh viện này không mất tiền, nhưng nhân viên bệnh viện không phải

bao gìơ cũng có mặt tại bệnh viện và bệnh nhân đến khám thì lại rất đông vì
thế thời gian chờ đợi khá lâu. Khi con ốm, chị Lan đôi khi mua thuốc của
những người bán thuốc ở ngay trong làng. Mới đây, có một bác sỹ quân đội
về hưu, mở một phòng mạch tư. Giá khám chữa bệnh ở đây cao, nhưng ông
bác sĩ này lại thu hút được nhiều bệnh nhân. Lần này, con gái ốm, chị Lan
chưa biết nên đến đâu để khám và chữa bệnh cho con.
Đoạn văn trên mô tả thị trường chăm sóc sức khỏe. Có những loại hình cung ứng
khác nhau: Bệnh viện công, người bán thuốc và phòng mạch tư. "Cầu: xuất phát từ
người ốm, người sẽ phải quyết định mua loại dịch vụ nào. Quyết định của họ phụ thuộc
vào nhiều yếu tố. Yếu tố đầu tiên là "tính sẵn có", liệu người cung ứng có cung cấp
được dịch vụ thích hợp không? Yếu tố thứ hai, "gía". Giá của dịch vụ là bao nhiêu? Nếu
những cái khác đều như nhau, thì người mua sẽ chọn loại dịch vụ rẻ nhất, và như vậy,
người ta có thể dành nhiều tiền hơn cho những chi tiêu khác.
Thế nhưng nếu "giá" là yếu tố quan trọng thì vì sao mà phòng mạch tư lại đông
khách? Câu trả lời là chúng ta không chỉ xem xét đến giá trả cho dịch vụ mà phải quan
tâm đến tất cả loại giá mà người bệnh phải chi trả. Đến bệnh viện công thì không phải trả
tiền khám chữa bệnh, nhưng chị Lan phải trả tiền cho đi lại, và rồi còn công đợi chờ, có
thể đến vài giờ đồng hồ. Đôi khi còn phải biếu thầy thuốc một cái gì đấy để đảm bảo là
con mình sẽ được điều trị tốt nhất. Nếu so sánh tổng chi phí, kể cả đối với bác sĩ tư, phải
trả tiền điều trị, nhưng bệnh nhân sẽ được khám ngay và không phải đi lại xa xôi hay là
đối với người bán thuốc, sẽ bán những thuốc hiện đại có tác dụng điều trị nhanh thì chưa
chắc chi phí khám chữa bệnh ở bệnh viện công sẽ là thấp nhất.
Như vậy câu hỏi đặt ra là “chất lượng”. Nếu như người ta nghĩ chất lượng của
một loại hàng hoá/dịch vụ tốt hơn hàng hoá/dịch vụ khác, người ta sẵn sàng chi cao hơn.
Nhưng việc đánh giá chất lượng không phải bao giờ cũng đơn giản, đặc biệt trong thị
trường sức khỏe.
Chị Lan mang con đến bệnh viện huyện. Chị muốn có thuốc để hạ sốt cho
con. Nhưng người y sĩ lại nói , không phải dùng thuốc mà chỉ cần nghỉ ngơi
và cho cháu uống nhiều nước. Thất vọng, chị Lan ra chợ huyện mua một ít
thuốc theo lời khuyên của người bán. "Lần sau mình sẽ đến ông bác sĩ tư,

ông ta thật là tốt bụng và lại biết nghe xem người bệnh nhân muốn gì", chị
Lan nghĩ.
Nhà kinh tế y tế phân biệt ở đây cái mà chị Lan và con gái chị cần (Need), cái mà
chị và con chị mong muốn (Want) và cái mà chị bỏ tiền ra để có được (Demand), trong
kinh tế thuật ngữ cuối cùng được gọi là ”cầu”.
"Need" là cái ”cần”, cái do nhà chuyên môn quyết định, thường là do thầy thuốc
nhưng thầy thuốc chỉ có thể làm việc này tốt khi được đào tạo tốt và có đủ đạo đức
chuyên môn. Hành vi của các thầy thuốc lại có thể bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác hơn
là "cần", ví như hệ thống giá hay những mong muốn, đòi hỏi của bệnh nhân.
"Want" là cái mà mà người bệnh cho rằng sẽ tốt nhất với họ, là cái mà họ muốn
(trong trường hợp này là một loại thuốc có tác dụng nhanh). "Muốn" có thể và có thể
không phù hợp với "Cần".
"Cầu" là cái mà cuối cùng người tiêu dùng mua. Cái họ mua, trong thị trường
chăm sóc sức khoẻ thường là do ý kiến của nhà chuyên môn quyết định, nhưng đôi khi
cũng còn do những yếu tố khác, ví dụ họ có thể không chấp nhận cách thức điều trị do

×