Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tieu luan van hoa Khmer nam bo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.97 KB, 21 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển
của mỗi dân tộc, vận động theo dòng lòch sử và trong từng thời điểm nhất
đònh. Văn hoá là một tổng thể giá trò mà con người tạo ra. Do vậy, bảo tồn
bản sắc văn hoá và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
phải biết kế thừa và phát huy các giá trò văn hoá của dân tộc khái quát và
phát triển mỗi sắc thái và giá trò văn hoá nghệ thuật phong phú của nền văn
hoá. Việc xây dựng mạng lưới thiết chế văn hoá của XHCN, bảo tồn và khai
thác các thiết chế văn hoá truyền thống nhằm góp phần xây dựng đời sống
của mỗi dân tộc có một ý nghóa quan trọng trong chiến lược văn hoá của
Đảng và Nhà nước ta.
Chương trình xây dựng và nâng cao các hoạt động văn hoá – thông tin
ở cơ sở đối với đồng bào các dân tộc là một chủ trương lớn của Bộ văn hoá –
thông tin thể thao và du lòch. Nội dung và các mục tiêu của nó đònh hướng cho
các hoạt động văn hoá chủ yếu tập trung cho cơ sở.
Ngày nay khi đến các Chùa và các Phum – Sóc của người Khmer Long
Phú, đặc biệt trong các dòp lễ hội chúng ta luôn bắt gặp những màu sắc sặc sỡ
và âm thanh rộn ràng rất đặc trưng của đồng bào dân tộc Khmer. Trong đó
sôi động và độc đáo bởi âm thanh dàn nhạc ngũ âm (Phiêng – pinpcat). Mỗi
Chùa có một dàn ngũ âm để phục vụ khi đám cầu phước hoặc lễ hội, tiếp đón
khách và liên hoan văn hoá.
Ở Chùa trong các theo các tập tục truyền thống dân tộc đều diễn ra các
hoạt động văn nghệ dân gian như: Rom Vong – Lam Lev, Xavavan hoặc múa
Sarikaker. Sinh động hơn là múa trống Chhạ yam, hát Aday đối đáp (nam –
nữ) hát Cham riêng cha pay, biểu diễn Ro – Bam hoặc Dù kê trưng bày triển
lãm và các trò chơi dân gian.
Người Khmer có cả một kho tàng về loại hình ca múa dân gian truyền
miệng từ đời này sang đời khác. Nếu mỗi chúng ta không quan tâm bảo tồn
1
và phát huy gìn giữ những giá trò văn hoá đã có thì sẽ bò mai một dần theo
dòng chảy của thời gian. Vì hiện nay chưa có trường đào tạo các loại hình


nghệ thuật như: Dù kê, Sam pong phol, Sam pong tànl,… Đặc biệt là sân khấu
(Rôbăm) với ngôn ngữ chính là điệu múa đã góp phần phổ biến rộng rãi trong
quần chúng, những điệu thức được chế tác từ những yếu tố vũ đạo, sinh hoạt
vui chơi, lệ hội của cộng đồng người Khmer.
Trong quá trình nghiên cứu tiểu luận tập trung giới thiệu, chứng minh
về đặc điểm văn hoá của dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đồng
thời vận dụng những tài liệu nghiên cứu đã có trước đây nhằm phân tích các
hoạt động của lễ hội, phong tục, lễ thức trong thực tiễn đời sống văn hoá của
người Khơmer Long Phú trong quá trình đổi mới của đất nước những năm gần
đây.
CHƯƠNG I
SINH HOẠT LỄ HỘI CỦA NGƯỜI KHMER LONG PHÚ

1.1. SINH HOẠT LỄ HỘI TRONG TÔN GIÁO:
Trong năm, người Khơmer có rất nhiều lễ hội được tiến hành theo đònh
kỳ vào những ngày nhất đònh trong tháng. Ngày nay còn tồn tại hai ngày tập
trung sinh hoạt chính đó là ngày 15 và ngày 30 gọi là “Canh – sol” tính theo
lòch Khmer (giống như lòch người Việt nhưng luôn sớm hơn một ngày). Trong
những ngày sinh hoạt này tất cả các tín đồ đều mang cơm nước, hương đèn,
trà bánh,… đến cúng dường. Lễ cúng được tiến hành theo nghi thức phật giáo
dưới sự hướng dẫn của vò Acha.
Ngoài những nghi lễ, sinh hoạt tôn giáo theo kinh điển giáo lý quy đònh
tại Chùa. Tăng đoàn còn phối hợp với Ban tôn giáo theo đúng ngày, tháng mà
kinh điển, giáo lý đã quy đònh. Trong đó lễ hội phật giáo diễn ra theo thời
gian đã đònh.
2
1.2. LỄ PHẬT ĐẢN (BOAN MEAK BÂUCHEA):
Người Khmer tổ chức Lễ phật đản vào ngày 15 tháng 5 âm lòch hàng
năm chứ không cùng ngày rằm tháng tư âm lòch như lễ phật đản được tổ chức
bởi phật giáo đại thừa. Lễ được tổ chức trong một ngày một đêm tại Chùa.

Phật tử đến dâng cơm cùng các vật tế tự để các nhà sư làm lễ tụng kinh mừng
Đức phật ra đời.
1.3. LỄ NHẬP HẠ (BON CHONL VÂSSA):
Đây là lễ thức tôn giáo để tập trung quản cấm các sư sãi ở trong Chùa
trong 3 tháng từ ngày 15 tháng 06 đến ngày 15 tháng 9 âm lòch. Thời gian này
các vò sư sãi không được đi ra khỏi chùa, theo ý nghóa của phật giáo. Lễ nhập
hạ là thời gian để các nhà sư tònh tâm, học đạo, trao dồi giáo l1 và tự vấn bản
thân trong quá trình tu hành dưới mái chùa. Đến ngày 30 tháng 9 âm lòch
người ta tổ chức làm lễ xuất hạ (Bon chênh vâssa), đây là lễ kết thúc 3 tháng
nhập Hạ. Các vò sư Khmer sau lễ này có quyền ra chùa để đi khuất thực hay
đi thăm viếng gia đình.
1.4. LỄ DÂNG Y CÀ SA (BON – KATHIN – NĂNTEAN):
Lễ dâng y cà sa được chọn một ngày trong tháng khoảng thời gian 16
tháng 9 đến 15 tháng 10 âm lòch. Mục đích của lễ dâng cúng áo cà sa cho các
vò sư sãi trong chùa. Ngoài áo cà sa là lễ phật chính tín đồ còn dâng bình bát,
bánh mứt, trái cây, đồ dùng sinh hoạt cho chùa như: mùng, chiếu, bát đóa thức
ăn. Ngoài ra trong dòp này tín đồ còn cúng tiền vào chùa bằng hình thức kết
những đồng tiền giấy thành những cây hoa rất đẹp mắt cho nên lễ dâng y cà
sa còn được dân gian gọi là “Lễ dâng bông”.
1.5. LỄ HỘI THEO NGHI THỨC DÂN GIAN CỦA ĐỒNG BÀO
DÂN TỘC KHMER:
3
Trong năm, người Khmer có rất nhiều lễ hội tập tục theo truyền thống
của dân tộc nhưng ở đây tác giả chỉ nêu lên những lễ hội tập quán mang tính
tiêu biểu đặc trưng nhất của dân tộc Khmer để làm đề tài nghiên cứu như:
LỄ CÚNG ÔNG BÀ (PHI THI SEN ĐÂUN – TA).
LỄ CÚNG TRĂNG (BON OOC OM BOK).
LỄ CƯỚI HỎI (PI THI A – BE – BI – BE).
1.6. LỄ CÚNG ÔNG BÀ (PHI THI SEN ĐÂUN – TA):
Đây là lễ hội lớn thứ hai trong năm của người Khmer. Hàng năm khi

việc gieo cấy đã xong, từ ngày 16 đến ngày 30 tháng Phêt – Trô – Bêt (trùng
với tháng 8 âm lòch) đồng bào dân Khmer nam bộ tổ chức Sen Đâun – ta ( Lễ
cúng ông bà), người Khmer ở Campuchia gọi lễ này là Phi Thi Sen Đâun –
Ta, lễ này được tổ chức liên tục trong suốt thời gian 15 ngày, nhằm nhớ đến
công ơn sinh thành dưỡng dục của ông bà cha mẹ. Gọi là (Up pa ka rah kunl)
và những người thân đã khuất đồng thời cầu siêu cho vong hồn họ được mau
siêu thoát. Lễ cúng ông bà bắt nguồn từ sự tích được rút ra từ kinh điển của
Phật giáo như sau:
Ngày xưa, ở một vương quốc trong một hoàng cung, đêm đêm người ta
nghe tiếng gào khóc thảm thiết, hoà lẫn tiếng kêu vang của các hồn ma, quỷ
làm cho nhà vua không sao chợp mắt được, cả triều đình đều lo lắng. Tất cả
vua quan đều buồn vì không rõ nguyên nhân của tiếng kêu than đó. Thû ấy,
Đức Phật Thích Ca còn tại thế, người đến thuyết pháp, nhà vua hỏi: Vì sao
trong hoàng cung đều có tiếng kêu than như vậy?
Đức phật giải thích: “Đó chính là các vong hồn của kẻ cô đơn không
nơi nương tựa không thân tộc, họ hàng, không có con cháu cúng cơm, các
vong hồn ấy luôn bò đói khát. Nếu Bệ hạ muốn dứt tiếng kêu than đó, bệ hạ
hãy cho người nấu cơm vo thành nhiều nắm tròn, đêm xuống đem để xung
quanh hoàng cung và mời các vong hồn đó đến ăn. Phải làm như vậy liên tục
4
trong vòng 15 ngày đến ngày thứ 15 tổ chức dâng cơm lên các vò sư sãi và
làm lễ cầu siêu cho các vong hồn ấy.
Nhà vua thực hiện y lời đức phật. Từ đó tiếng kêu than không còn nữa.
Dựa vào sự tích này người Khmer nam bộ tổ chức lễ cúng ông bà theo nghi
thức: Thành lập (Vênh) phân theo Sóc theo Phum có tổ trưởng gọi là (Mê
vênh) đi vận động quyên góp gạo, tiền của các hộ trong tổ mình để mua thòt,
rau cải, bánh trái, đem làm thức ăn dâng lên các vò sư sãi. Buổi tối họ nấu
cơm vắt thành từng nắm, cùng bánh trái và các thức ăn khác đặt vào mâm
mang lên chánh điện để cúng tam bảo và mời các vò sư tụng kinh cầu siêu cho
các linh hồn, những người trong dòng tộc họ đã qua đời, song đem những nắm

cơm vắt ấy để xung quanh chánh điện lót bằng lá chuối. Ngoài ra, họ còn mời
các vò sư làm lễ thọ giới, mời các vò sư thuyết pháp, các tổ luân phiên nhau tổ
chức như thế liên tục suốt 15 ngày gọi là Canh Banh.
Lễ cúng ông bà (Pithi sen đâun – ta) còn có ý nghóa giáo dục truyền
thống cho thế hệ mai sau về công đức sinh thành, nuôi dưỡng của ông bà cha
mẹ. Cho nên mỗi khi đến ngày lễ dù bận trăm công ngàn việc, dù ở xa xôi
đến mấy người ta cũng phải về thăm viếng ông bà, cha mẹ và đoàn tụ gia
đình. Dâng lên ông bà cha mẹ như: bánh, trà, trái cây, quần áo, tiền,… Ngoài
ra, sáng sớm họ còn chuẩn bò mâm cơm thật ngon dâng lên ông bà cha mẹ để
tỏ làng hiếu thảo, còn ông bà, cha mẹ chúc phước cho con cháu.
Cũng trong ngày này mọi gia đình trong Phum - Sóc không kể giàu
sang hay nghèo hèn đều nấu mâm cơm mời bạn bè thân thuộc đến cùng
chung vui. Đây cũng là dòp tổ chức liên hoan, vui chơi gắn bó bạn bè và tạo
mối đoàn kết giữa láng giềng và người cùng Phum – Sóc.
Khi nói đến các lễ hội trong năm của người Khmer Nam bộ người ta
sao không nhắc đến lễ Ooc Om Boc (Đua ghe ngo), được đông đảo tầng lớp
nhân dân tiếp đón không riêng người Khmer mà có cả cộng đồng dân tộc
Kinh – Hoa,… cùng tham dự.
1.7. LỄ CÚNG TRĂNG (BON SÂM PREAH KHE – ÂK AM BOK):
5
Vào ngày 15 tháng 10 âm lòch hàng năm người Khmer nam bộ tổ chức
lễ Ooc Om Boc (đua ghe ngo) để tưởng nhớ đến công ơn của vò thần Mặt
Trăng, coi Mặt Trăng như một vò thần thiêng liêng. Vì Mặt Trời tạo ra sự
nóng oi bức cho con người, còn vò thần mưa thường gây ra lũ lụt huỷ hoại mùa
màng, còn thần gió gây ra bão tố. Chính vì vậy chỉ có thần Mặt Trăng mới
mang đến cho họ nhiều điều lành, cho nên họ coi đó như là một vò thần điều
tiết mùa màng tạo cho mưa thuận gió hoà đã giúp cho họ làm ăn được thuận
lợi. Trong năm vào thời điểm này bà con nông dân chuẩn bò vào mùa thu
hoạch mới theo tập tục họ ra đồng cắt lúa nếp mới vừa chín tới mang về để
giã cốm dẹp.

Sau khi mang lúa nếp mới bà con dân tộc đem lúa nếp gang bằng nồi
đất cho đến độ lúa dòn vỏ lúa ngoài, nổ vài hạt đem đổ vài cối đứng để giã
(công cụ để giã cốm dẹp gồm một cối đứng, hai cây chài, một cây gạt hình
dẹp do hai người giã cho đến khi thấy lúa nếp dẹp đến độ vừa mới thôi. Xong
người ta sàng lấy trấu ra để lượt lấy cốm dẹp, sau đem cốm dẹp trộn cùng với
dừa nạo, đường khoảng chừng 4 – 5 tiếng đồng hồ cho cốm dẹp thấm đường,
dừa mới ngon.
Đúng ngày rằm tháng 10 âm lòch, khi Mặt Trăng lên khỏi đỉnh cây họ
mới dọn cốm dẹp ra bàn đã được trang trí sẵn ngoài sân, lễ vật cúng gồm có
các nông sản mà họ sản xuất được trong năm như: khoai, môn, củ lùn, dừa,
chuối, bưởi,… Đặc biệt một lễ vật không thể thiếu đó là cốm dẹp. Vào đêm
rằm Trăng tròn những chàng thanh niên, các cô thiếu nữ thường tìm đến sân
nhà cửa vò trưởng Sóc là người lớn tuổi có uy tín nhất (Phum – Sóc) để được
cụ đút cốm dẹp với ý nghóa được hưởng phúc, thọ từ các cụ. Lúc các cụ đút
cốm dẹp thường lấy tay đấm nhẹ vào lưng và hỏi: “Oc Oc Chol bal ây?” (Oc
Oc ước được gì?). Do cốm dẹp đầy trong miệng nên họ không thể nói ra lời.
Bên cạnh đút cốm dẹp người ta còn tổ chức ca hát bằng nhiều hình thức như:
múa rôm vong (múa vòng tròn cái bàn), hát giao duyên, hát aday cho đến
khuya.
6
Trong dòp này các Phum – Sóc cùng với nhà chùa chuẩn bò sơn sửa ghe
ngo và tổ chức tập dợt đội ghe để chuẩn bò đi dự đua với các chùa, các Sóc
(ngày nay Nhà nước đứng ra tổ chức). Ngày xưa lễ đua ghe ngo mang đậm
sắc thái huyền thoại của tôn giáo như trong thời gian sản xuất gieo trồng lúa
và hoa màu, họ tổ chức lễ cầu mưa bằng hình thức mời các vò sư đến tụng
kinh cầu mưa và sau đó tổ chức đua ghe. Mặt khác dựa vào các sự tích có liên
quan đến Đức phật thích ca như: truyền thuyết chiếc răng phật được vua Na
Ga cất giữ, truyền thuyết sự tích liên hệ đến chùa chiền và các vò sư sãi trong
truyền thuyết bà con đóng bè chở các vò sư đi khất thực về chùa khi gặp mưa
bão.

Ghe ngo người Khmer gọi là Tuôc ngo (Tuôc là Nghe, thuyền – Ngo là
cong lên), là loại thuyền đua độc mộc rất dài (khoảng 20 – 30 mét), hai đầu
uốn cong lên lòng ghe hẹp đủ để cho hai người ngồi chèo, mỗi ghe có thể
chứa từ 25 đến 35 cặp tay chèo. Ghe ngo được làm từ một thân cây sao
nguyên vẹn, khoét rỗng ruột và đẽo gọt rất công phu, bên ngoài được sơn
phết, trang trí màu sắc sặc sỡ, ghe ngo được xem như một tài sản quý giá, một
vật thiêng của nhà chùa và người dân trong vùng, ngày xưa người phụ nữ
không được đến gần và đi ngang qua đầu (mũi) ghe.
Ghe ngo chỉ được sử dụng vào dòp đua ghe lễ Ooc om boc thời gian còn
lại trong năm nó được bảo quản rất chu đáo ở chùa trong một gian nhà gọi là
(Rông Tuk Ngo) chỉ lợp mái không có vách bao quanh. Người dân tộc Khmer
tin rằng sự thắng lợi của ghe ngo chùa nhà trong các cuộc đua sẽ đem lại sự
bội thu trong sản xuất và nhiều điều may mắn trong bổn sóc trong vùng. Vì
vậy họ tuân thủ chặt chẽ những điều cấm kỵ, để tránh những xâm phạm có
thể làm tổn hại đến phần thiêng liêng của chiếc ghe ngo. Các nghi thức lễ
liên quan đến ghe ngo cũng được tổ chức trang trọng như lễ hạ thuỷ cũng
được tổ chức rất trang trọng và chu đáo.
Ngày nay người Khmer tổ chức đua ghe ngo như một tục lệ, ý nghóa tôn
giáo không còn quan trọng, lễ hội đua ghe ngo cho dù bắt nguồn từ đâu nhưng
đến nay nó vẫn mang đậm ý nghóa nhân văn, tượng trưng cho sức mạnh con
7
người chế ngự thiên nhiên bằng lao động, bằng ý chí và sự đoàn kết của dân
tộc Khmer. Nó còn có tính chất dân gian đậm đà được phổ biến rộng rãi trong
các quần cư có nền nông nghiệp lúa nước.
Người Khmer coi lễ đua ghe ngo là một lễ hội lớn để mọi người vui
chơi thưởng thức và cổ vũ cho tay chèo trong cuộc đua và cũng là dòp để họ
thắt chặt mối đoàn kết phum – sóc. Vì vậy có thể nói, hoạt động đua ghe ngo
trên sông nước đã thực sự làm cho ngày hội cúng Trăng thêm phần long trọng
và thắt chặt thêm mối dây liên kết giữa các cộng đồng người với nhau, giúp
cho con người lạc quan tin tưởng và vui sống, lao động để làm ra nhiều của

cải, vật chất cho xã hội.
Bên cạnh những lễ hội dân gian được nêu trên, phong tục cưới hỏi của
người Khmer cũng không kém phần quan trọng trong cuộc sống cộng đồng
tộc người Khmer ngày nay.
1.8. PHONG TỤC LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI KHMER:
A. LỄ HỎI (si Sla Kanh Sêag):
Đôi nam nữ muốn trở thành vợ chồng phải trải qua các lễ nghi rất phức
tạp, do quan hệ xã hội khá khắt khe, bởi rào càn của nến luân lý, đạo đức
phong kiến. Nam nữ không có điều kiện để tìm hiểu nhau mà việc cưới vợ,
lấy chồng là do cha mẹ đònh đoạt.
Khi cha mẹ nhà trai thấy cô con gái có tính tình nết na thuỳ mò muốn
cưới lấy làm dâu, hai vợ chồng đi cậy ông hoặc bà mai mối, người này phải
được cưới hỏi đàng hoàng, còn đủ vợ chồng, gia đình phải hoà thuận hạnh
phúc. Sau lần đến dạm ngõ được bên nhà gái đồng ý, ông mai về báo cho nhà
trai chuẩn bò để coi ngày lành tháng tốt hai bên gặp nhau giáp lời gọi là lễ “Si
S’ la Kanh – Sêng” có thể xem đây là lễ thức đầu tiên của cuộc hôn nhân.
Tiếp đến cha mẹ nhà trai mới đến mời ông Mo Ha cùng qua bên nhà
gái gồm các lễ vật: khay trầu cau, hai chai rượu, mâm trái cây,bánh mứt,tất
cả đều đủ cặp không được lẻ. Hai bên cho nhau biết ngày, tháng, năm sanh
của hai đứa trẻ để ông Mo Ha “coi tuổi”. Nếu tuổi của hai đứa trẻ hợp nhau
8
thì ông Mo Ha (Bưnh Thonl rônl) mời cha mẹ đôi bên ăn trầu cau gọi là để
kết tình thông gia. Lễ thức Si S’ la Kanh – Sêng bắt nguồn từ một truyện tích:
Ngày xưa, có hai người bạn cùng chăn trâu với nhau, vì cảm mến nhau
nên kết nghóa bạn bè, qua dăm câu thăm hỏi gia cảnh, biết người bạn mình có
cô con gái, bây giờ người bạn có con trai, mới lấy trầu cau được gói kỹ trong
khăn (Kanh sêng) ra mời người bạn có con gái ăn và trònh trọng nói: ở nơi
giữa đồng trống không có gì đề làm tin, xin mời bạn ăn miếng trầu này gọi là
kết nghóa thông gia, người bạn có con gái bằng lòng, hai người cùng ăn trầu
cau.

Vào ngày lễ xin cưới, bên nhà gái chuẩn bò rất chu đáo, mời bà con họ
hàng đến dự, có làm mâm cơm cùng tổ tiên và đãi khách. Bên trai đưa chú rể
sang để ra mắt gia đình nhà gái, bên gái cũng đưa cô dâu ra rót trà chào hỏi
nhà trai. Vào lễ, ông Mo Ha cho dọn mâm cơm, rượu thòt, bánh trái cây
(Thonl rônl), nhang đèn, tất cả đều được bày trên chiếc chiếu bông, nhà trai,
nhà gái ngồi xung quanh nghe ông A Cha (cũng là ông Mo Ha) khấn vái.
Sau lễ xin cưới, chú rể tương lai phải ở lại phục vụ cho nhà gái, làm tất
cả công việc cho đến ngày cưới. Trong thời gian này cô dâu chú rể không
được tiếp xúc với nhau. Nếu chú rể có tỏ thái độ bất kính hay lười biếng, có
thể đám cưới không được tiến hành.
B. LỄ CƯỚI THEO TRUYỀN THỐNG:
Ngày xưa đám cưới người Khmer dù giàu hay nghèo đều diễn ra trong
ba ngày. Ngày đầu gọi là “Th’ngay Chôl Rônl” (ngày nhập gia), sáng sớm
nhà gái làm hai mâm cơm cúng tổ tiên xin phép cho con gái đi lấy chồng. Đặc
biệt là làm một đòa Bal-ptô-lưng (cơm gọi hồn) đó là nấm cơm được gói trong
lá chuối như bánh ít có dán giấy đỏ trên đỉnh chóp có cắm một bông vạn thọ,
ba trái chuối và sợi chỉ hồng. Khi cúng tổ tiên xong, người ta làm lễ gọi hồn
cho cô dâu lấy chỉ hồng cột tay cô dâu với ý đừng để hồn ra khỏi thể xác,
đồng thời để nàng đủ sáng suốt khi về nhà chồng.
9
Vào thời gian này nhà trai tập trung bạn bè qua nhà gái để dựng rạp
(Son rônl ka), dựng bàn thờ ng Thiên (Rean Tê Vô Đa), trong trang trí
phòng cưới chỗ các vò sư tụng kinh với các lễ vật khác nhau, đèn, rượu và một
lễ vật không thể thiếu đó là cặp “Nom Khnhây” (bánh gừng) kết thành bông
tượng trưng cho hạnh phúc lứa đôi, chất liệu bằng bột nếp với hột gà.
Cũng trong ngày Chôl ronl, nhà trai đã chuẩn bò tất cả các lễ vật cho lễ
cưới có một lễ vật không thể thiếu đó là “bông cau” (Pka Sla), đến chiều
người ta tiến hành làm lễ cắt hoa cau. Trước khi lên cắt họ làm lễ xin phép
thần linh bảo vệ buồng hoa cau, các lễ vật gồm: nhang đèn, con gà luộc, mâm
cơm, một cái chung đựng dầu dừa và sợi chỉ hồng. Cùng xong người ta dùng

dao thật bén để cắt buồng hoa cau, chỉ được một lần cho dứt và chọn buồng
hoa cau tốt nhất, nhưng buồng hoa cau không được nở trong quá trình làm lễ
cưới, người ta lấy chỉ hồng buộc buồng hoa cau lại để sáng hôm sau rước về
nhà gái.
C. TH’NGAY SI COM – NOT (Ngày cưới thứ hai):
Đonl He Ph’ Le Chhơ (Đưa chú rể sang nhà gái). Sáng sớm nhà trai
cùng làm hai mâm cơm, một đóa Bai – prô – lưng để cúng tổ tiên và kêu hồn
chú rể và mời các vò sư đến tụng kinh chúc phúc. Xong tập hợp thân tộc cùng
các lễ vật sang nhà gái để tổ chức lễ cưới. Lễ thức này người Khmer gọi là:
“Đonl He Ph’ Le Chhơ”, nó có nguồn gốc từ trường ca “Ream kê”. Lúc pras
rean cùng Ha nô mal giết chết “Kro Reap” cứu nàng “Sê Đa”, vợ “Preras
ream” được các đạo só là thầy của “Preas Ream” đứng ra tổ chức lễ cưới năm
vò đạo só chúc phúc nên nên mới có tục Đonl He Ph’ Le Chhơ: có nghóa rước
trái cây cho đến ngày hôm nay. Có nơi người ta gọi nghi thức này là “Đonl
He Phka – sla” cũng đúng. Vì nó có nguồn gốc từ truyện cổ tích được ghi
trong kinh điển của phật giáo. Có nơi còn gọi là “Đonl he chây suôs” cũng
đúng, vì cũng có trong truyện cổ tích dân gian Khmer.
Dù cách gọi “Đonl He Ph’ Le Chhơ”, “Đonl He Phka – sla” hay “Đonl
he chây suôs” cũng là lễ đưa chú rể sang nhà gái làm lễ cưới. Đoàn rước có
10
dàn nhạc lễ cưới, chú rể được người ta che lộng. người Khmer lộng là biểu
tượng của sự hiện hữu của “Têvơđa” là vò thần chăm lo đời sống cho dân
chúng; đặc biệt buồng hoa cau được đặt trong mâm phủ vải đỏ phải do chò
hoặc người cô chú rể bưng.
D. RĂM – BỚT – RÔ – BONL (Múa mở cổng vào):
Khi nhà trai sang đến trước cổng nhà gái, thì cổng bò rào bằng ngọn tre
gai, ông Mô Ha cho dừng lại, vào nhà gái xin phép mở rào. Nhà gái buộc nhà
trai phải có lễ vật gồm: mâm cơm, rượu, bánh mứt, trái cây, đặc biệt là phải
có ca múa để mở cổng rào. Tục này có truyền thuyết rằng ngày xưa có đôi
bạn chơi thân với nhau, một người có con trai, còn người kia có con gái và hai

người cùng giao ước với nhau là làm xui, được một thời gian sau người bạn có
con trai mang lễ vật sang nhà người bạn có con gái xin làm đám cưới. Người
mẹ của cô gái do chưa hiểu được sự việc nên sai cho gia nhân lấy ngọn tre
gai rào cổng lại. Ông chồng thấy vậy mới kể âạạiận tường câu chuyện cho
người vợ nghe. Người vợ cũng đồng ý nhưng buộc nhà trai phải thực hiện theo
yêu cầu của bà là phải có lễ vật: một mâm cơm, bánh mứt, rượu, trái cây, đặc
biệt phải có ca múa cho bà xem mới được phép vào nhà. Tục này được lưu
truyền cho đến ngày hôm nay khi nhà trai sang đến sân nhà gái thì được nhà
gái tiếp đón nồng hậu và chuẩn bò làm lễ.
CHƯƠNG II
ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
VỀ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HOÁ
DÂN TỘC KHMER HUYỆN LONG PHÚ

2.1. ĐỊNH HƯỚNG VỀ BẢO TỒN VĂN HOÁ DÂN TỘC KHMER
HUYỆN LONG PHÚ.
11
Văn hoá nghệ thuật là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã
hội, là một bộ phận sản xuất tinh thần bao gồm quá trình sản xuất, bảo quản
phân phối và tiêu thụ các giá trò văn hoá, nghệ thuật. Trong thực tế các thiết
chế văn hoá đóng vai trò quan trọng trong sự vận hành của quá trình ấy, trong
các mối quan hệ xã hội và trong hoàn cảnh lòch sử cụ thể.
Trong quá trình chỉ đạo xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, nhằm chuyển
tải các giá trò văn hoá- những tinh hoa văn hoá của nhân loại và Việt Nam về
với mọi người lao động và tạo điều kiện để cho họ sáng tạo các giá trò văn
hoá. Đảng và Nhà nước ta chủ trương: “Hết sức chăm lo xây dựng đời sống
văn hoá ở nông thôn, chú ý đến các vùng căn cứ cũ, vùng có đồng bào dân
tộc…” Đồng thời nhấn mạnh phải bảo tồn, phát huy và sử dụng một cách có
chọn lọc những thiết chế văn hoá cổ truyền của dân tộc nhằm góp phần thoả
mãn nhu cầu tinh thần phong phú của nhân dân. Đó là hai khía cạnh của một

vấn đề bảo tồn, tôn tạo, giữ gìn và xây dựng nhằm hình thành hệ thống thiết
chế văn hoá mới.
2.2. CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA VỀ BẢO TỒN
BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo
nên những giá trò văn hoá mới xã hội chủ nghóa, làm cho những giá trò ấy
thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người trở thành tâm lý và tập
quán tiến bộ, văn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp,
đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó “xây” đi đôi với “chống”, lấy
“xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản q báo
của dân tộc. Tiếp thu những tinh hoá văn hoá thế giới, sáng tạo vun đắp nên
những giá trò mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục,
các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống lại mưu toan lợi dụng văn
hoá để thực hiện “âm mưu diễn biến hoà bình”.
Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay luôn khẳng đònh vai trò vò trí
quan trọng của đồng bào dân tộc, mấy mươi năm qua, mặc dù lo hàn gắn vết
12
thương chiến tranh, phát triển kinh tế. Nhưng Đảng và Nhà Nước ta luôn quan
tâm chú trọng tổ chức xây dựng sự nghiệp văn hoá thông tin ở các vùng dân
tộc thiểu số nói chung.
Riêng đối với đồng bào dân tộc người Khmer, Nghò quyết hội nghò lần
thứ VII, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX khẳng đònh: Phát triển toàn
diện chính trò, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh quốc phòng trên đòa bàn
dân tộc và miền núi. Gắn tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội,
thực hiện tốt các chính sách dân tộc thiểu số, trong sự nghiệp chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Cũng trong nghò quyết này, nhiệm vụ
công tác tôn giáo có đoạn “Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách
các chương trình kinh tế – xã hội nâng cao đời sống vật chất, văn hoá tinh
thần của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo”.
Bộ văn hoá thông tin, trong chương trình xây dựng và nâng cao các

hoạt động văn hoá ở cơ sở, khu vực nông thôn “Đã xác đònh: Biên giới, hải
đảo, vùng cao, miền núi nước ta có đòa thế chính trò” rất quan trọng cả về
kinh tế – xã hội – an ninh quốc phòng, đồng bào là người kinh hay người dân
tộc thiểu số sốùng trên đòa bàn này, đã và đang gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn
cả về vật chất lẫn tinh thần, mặc dù đây là một bộ phận dân cư đã có nhiều
đóng góp vào sự nghiệp cách mạng và bảo vệ tổ quốc.
Vì vậy việc xây dựng và nâng cao đời sống văn hoá cơ sở – hoạt động
văn hoá thông tin, bảo tồn bản sắc văn hoá các đồng bào dân tộc.
Dân tộc cư trú ở các đòa bàn nói trên phải là một nhiệm vụ mang tính
chất quyết đònh, có ý nghóa chiến lược lâu dài, đồng thời có tính thời sự cấp
bách. Tổ chức tốt các hoạt động văn hoá – thông tin ở cơ sở. Đặc biệt với các
vùng trọng điểm nói trên không chỉ góp phần phục vụ tốt nhiệm vụ chính trò
mà còn là bước đầu xây dựng khắp mọi nơi cuộc sống biểu hiện sự bình đẳng
giữa các dân tộc, giữa miền ngược và miền xuôi.
Để thực hiện chương trình này, Bộ văn hoá- thông tin đề ra phương
châm: “Xã hội, đa dạng hoá các tổ chức và hình thức hoạt động bằng phương
13
thức” phối hợp với các đoàn, đội văn hoá quần chúng, các nghệ nhân, nhà
chùa để tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ phục vụ cho nhân dân.
Giữ gìn và phát huy các giá trò văn hoá truyền thống của đồng bào dân
tộc trong các dòp: Lễ tết, hội, phong tục, ngày vui của cộng đồng.
2.3. NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI CỦA
NGƯỜI KHMER HUYỆN LONG PHÚ:
Từ sau ngày đất nước được độc lập, thống nhất cho đến nay, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, cuộc sống của nhân dân cả nước nói chung, đồng bào dân
tộc Khmer huyện Long Phú nói riêng đã có nhiều biến đổi theo chiều hướng
tích cực.
Trước năm 1975, đại bộ phận người Khmer Long Phú phải đi làm thuê,
một số người phải tha phương tìm kế sinh nhai. Cuộc sống bấp bênh vì ít
ruộng đất để sản xuất trong khi không có phát triển ngành nghề thủ công cổ

truyền để tạo công ăn việc làm ổn đònh. Mặt khác, do tập quán sinh hoạt ảnh
hưởng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian, người Khmer quanh năm tiêu tốn rất
nhiều tiền của và thời gian để tham dự các đám phước, tham gia vào các lễ
hội ở các chùa chiền.
Tuy nhiên, bên cạnh cuộc sống còn nhiều thiếu thốn về vật chất, người
Khmer Long Phú vẫn còn lưu giữ những vốn luyến nghệ thuật, những phong
tục, tập quán, lễ hội dân tộc phong phú và độc đáo. Lễ hội người Khmer với
những dáng vẻ, sắc thái và sự hấp dẫn riêng có đã tạo được chỗ đúng vững
chắc trong sự đa dạng của nền văn hoá chung các dân tôïc Việt Nam.
2.4. SỰ KẾ THỪA NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI
KHMER XƯA TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN NAY:
Trong quá trình tiến bộ văn hoá, nội dung những giá trò văn hoá, hệ
thống sản xuất, bảo tồn, phân phối, trao đổi và tiêu thụ các giá trò ấy sẽ biến
đổi. Nhưng điều đó không có nghóa là xã hội, ngay cả trong thời kỳ cải tạo
nền văn hoá sẽ mất đi toàn bộ những gì do lao động và trí tuệ các thế hệ
trước đã tạo ra. Mỗi thế hệ mới không bao giờ khởi đầu bằng mảnh đất trống
14
mà phải nắm vững những giá trò văn hoá vật chất và tinh thần do các thế hệ
tiền bối đã tích luỹ được. Mặt khác, những ai muốn khai thác Mác: “Chỉ là
những chất liệu còn thô mộc đối với nền sản xuất mới để tạo ra những giá trò
mới và để nâng văn hoá lên một trình độ tốt hơn”. Sự phát triển sản xuất giá
trò tinh thần cũng như sản xuất vật chất không thể thiếu được sự kế thừa
đương nhiên, kế thừa không phải là sử dụng một cách máy móc mà sự tiếp
nhận có phê phán, phân tích và cải tiến một cách sáng tạo. Trong phân tích
về tính chất của các phong tục, tập quán, lễ hội người Khmer trên phương
diện ảnh hưởng tín ngưỡng tôn giáo gồm: Các lễ hội phật giáo người Khmer
như Lễ Phật Đảng, Lễ Nhập Hạ, Lễ Dâng y Cà sa … thể hiện giáo lý phật
giáo. Song bên cạnh còn có những lễ hội biểu hiện nhân sinh của người
Khmer như: Lễ Cầu an, lễ Dânl – ta, lễ vào năm mới,… Trong mỗi lễ hội này
thường diễn ra các sinh hoạt văn hoá nghệ thuật và những hình thức vui chơi,

giải trí thể hiện lối sống, cách nghó, phong tục tập quán, sự sáng tạo thái độ
thưởng thức, khả năng nghệ thuật của người Khmer. Trong đó có những hình
thức hết sức độc đáo như: Thả đèn gió, lễ hội Ăk âm Bok đua ghe ngo trên
sông nước đã thật sự là một ngày hội thể thao biểu dương khát vọng vươn lên
của người Khmer đồng bào sông Cửu Long.
Đó là những hình thức sinh hoạt văn hoá thể hiện tài năng nghệ thuật
và sức mạnh của người Khmer cần được giữ gìn, bảo lưu và phát triển trong
các hoạt động lễ hội, nhưng mặt khác cũng có thể áp dụng trong các hình
thức sinh hoạt văn hoá mới.
Tất cả các giá trò đó, xét trên phương diện văn hoá, chúng ta có thể kế
thừa trên cơ sở tôn trọng tín ngưỡng, giáo lý nhà phật, bảo lưu các giá trò văn
hoá có giá trò nhân văn. Đồng thời cần lưu giữ những hoạt động văn hoá nghệ
thuật, lễ hội, phong tục, tập quán trong kho tàng văn hoá dân gian. Những sản
phẩm đó kết tinh những giá trò đạo đức thẩm mỹ và tài năng nghệ thuật của
người Khmer trong tiến trình lòch sử nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của cá
nhân và cộng đồng xã hội đương đại, góp phần làm phong phú trong việc xây
dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Tất nhiên, sự kế
15
thừa phát triển những giá trò văn hoá truyền thống của dân tộc Khmer trong
đời sống đương đại cần có sự nghiên cứu tỉ mỉ, thận trọng và toàn diện.
2.5. NHỮNG GIẢI PHÁP TỔ CHỨC CÁC LỄ HỘI CỦA NGƯỜI
KHMER HUYỆN LONG PHÚ:
Việt Nam có ưu thế rất q báu không phải quốc gia nào cũng có được.
Đó là sự đa dạng về văn hoá, những truyền thống văn hoá lâu đời rất phong
phú của 54 dân tộc các vùng, miền với các sắc thái tộc người, sắc thái đòa
phương và khu vực.
Đònh hướng chiến lược xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc, chính sắc tôn trọng sự đa dạng văn hoa của các dân tộc, chủ
trương bảo tồn, phát huy các giá trò văn hoá cổ truyền của các dân tộc, của
Đảng và Nhà Nước ta là hoàn toàn đúng đắn và tiến bộ.

Tuy nhiên, trong việc nghiên cứu bảo tồn và phát huy bản sắc, di sản
văn hoá các dân tộc còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết ở tẩm vó mô,
chúng ta còn thiếu những công cụ lý luận thật sắc bén và cụ thể về nghiên
cứu bản sắc văn hoá, một trong những nội dung chính là giữ gìn sự đa dạng
văn hoá của dân tộc, vùng miền như thế nào cũng chưa được làm rõ.
Khẳng đònh về những thành quả đạt được trên lónh vực văn hoá thông
tin mấy thập kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta đã đem lại cho các dân tộc thiểu
số nói chung, người Khmer nói riêng là điều cần thiết. Song thực tế vẫn còn
những điều nan giải trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách
đã đề ra, mặc dù Nhà nước đã có chú ý đầu tư về nhiều mặt cho vùng đồng
bào dân tộc, trong đó có cho hoạt động văn hoá thông tin.
Do vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những đặc điểm và điều kiện
riêng về đòa hình, dân cư và hoàn cảnh kinh tế xã hội của mỗi đòa phương
không giống nhau. Vì vậy, việc xác đònh mô hình xây dựng và đầu tư rất quan
trọng. Mục đích chúng ta là đưa văn hoá –thông tin đến cơ sở, mà cơ sở ở đây
không chỉ là xã, ấp của người Kinh, người Hoa mà còn Phum – Sóc, bản làng
của người dân tộc và đến từng người dân.
16
Xuất phát từ đặc điểm của đòa phương, Huyện uỷ – UBND, Phòng Văn
hoá – Thông tin huyện Long Phú đã chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy
các giá trò văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer bằng hình thức
tổ chức “Ngày hội Văn hoá – Thể thao các dân tộc của huyện” để khôi phục
và bảo lưu những giá trò văn hoá dân gian còn đang tiềm ẩn trong đồng bào
dân tộc mà thời gian qua hình như đã bò lãng quên nếu không được quan tâm
nó sẽ bò may một dần đi theo thời gian.
2.6. BẢO LƯU VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG LỄ HỘI
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI KHMER XƯA TRÊN CƠ SỞ XÂY
DỰNG NỀN VĂN HOÁ TIÊN TIẾN ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
Sự gắn bó của người dân với ngôi chùa trong nhiều mối liên hệ của ý

thức cộng đồng, xã hội và tôn giáo là cơ sở xã hội cho việc đưa ra văn hoá
mới vào các sinh hoạt văn hoá vốn có của ngôi chùa vì nó trực tiếp gắn bó lợi
ích tinh thần và xã hội của họ.
Trong đời sống của người nông dân Khmer, tín ngưỡng, phong tục và lễ
hội đóng vai trò hết sức quan trọng, có thể coi đây là những hình ảnh phản
chiếu sinh hoạt truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, là biểu tượng và cơ
sở tinh thần cấu kết của cộng đồng Phum – Sóc từ bao đời nay.
Giải pháp quan trọng trong quá trình bảo tồn và giữ gìn sinh hoạt văn
hoá cổ truyền của người Khmer có ý nghóa tích cực, phù hợp với những yêu
cầu của việc xây dựng nền văn hoá đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc. Trong
đó cần phải tìm hiểu, nghiên cứu các lễ hội, các tập tục, các sinh hoạt văn
hoá nghệ thuật, thể thao trên nhiều phương diện khác nhau như: Tôn giáo, tín
ngưỡng, đạo đức, thẩm mỹ, nghệ thuật,… để có đònh hướng, chỉ đạo, quản lý
các hoạt động theo quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với các lễ hội, tập
tục, tín ngưỡng tôn giáo của người Khmer.
Vì do ảnh hưởng của phật giáo quá nặng nên khiến người ta có cảm
tưởng hầu hết các lễ hội của người Khmer đều là lễ hội tôn giáo, tính chất
17
dân gian bò yếu tố tôn giáo chi phối rất rõ như ngày Châul – Chhuam – thmây
chẳng hạn, chỉ có chùa chiền là nơi đông đúc, vui tươi. Mọi người hầu như
cùng chùa ăn tết khiến cho Phum – Soc mất đi không khí tưng bừng của ngày
đầu năm. Ngày lễ cúng ông bà cũng vậy, những lễ chính vẫn tập trung ở
chùa.
Lễ hội trong năm của người Khmer diễn ra dày đặc và thường kéo dài
nhiều ngày đêm, tính ra người Khmer ở Long Phú trước đây bình thường phải
tham gia vào khoảng 22 đám lễ phật giáo và tín ngưỡng dân gian, trung bình
01 tháng có 02 đám, đa phần các đám đều được tổ chức tại chùa.
Sau ngày giải phóng các vấn đề này trở nên một vấn nạn cần được giải
quyết trong xã hội mới và thật là nan giải đối với lễ hội người Khmer, không
chỉ là thói quen, nếp nghó, lối sinh hoạt của dân tộc mà nó còn chòu sự điều

khiển của giáo luật đạo phật nên được tín đồ bảo vệ vững chắc và tự nguyện
tuân theo. Do đó, khi muốn thực hiện việc tinh giảm các lễ hội của người
Khmer theo nếp sống mới cần phải nghiên cứu tìm hiểu các yếu tố đan xen
giữa tôn giáo, tín ngưỡng với văn hoá dân gian, dân tộc, cần phải phân tích,
sàng lọc các yếu tố tiến bộ và tích cực, phát huy được cái đẹp, truyền thống
của dân tộc, phân biệt đâu là mặt tích cực, đâu là mê tín làm chậm bước tiến
của xã hội.
Vấn đề cần được các ngành, các giới quan tâm, đặc biệt là các đoàn
thể, tổ chức tôn giáo như: Đại hội đại biểu các sư sãi và A – cha các chùa
trong tỉnh Sóc Trăng đã đề ra nội dung hướng dẫn cách tổ chức theo nếp sống
mới qua quá trình vận động một số lễ hội ngày càng được giảm lượt hơn …
Một số lễ hội cần được giảm bớt qui mô phức tạp và rút ngắn thời gian, các
nghi thức rườm rà do thêm thắt, cường điệu, lai tạp, không cần thiết nên loại
bỏ nhằm đảm bảo được sự nhuần nhuyễn và không mất đi tính cách quan
trọng của lễ hội.
Hiện nay, một số lễ hội tiêu biểu đã được rút ngắn thời gian tổ chức đe
đỡ mất thời gian, tiền bạc và không gây ảnh hưởng đến lao động sản xuất của
18
nhân dân. Lễ Đặt Cơm Vắt xưa được tổ chức suốt 15 ngày nay chỉ còn 03
ngày hoặc nhập chung với lễ Đâun–ta, các lễ dài ngày như: “Châul-Chhuam-
thmây” (07 ngày) nay chỉ tổ chức 03 ngày.
2.7. NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN
SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC KHMER HUYỆN LONG PHÚ:
 Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc:
Hiện nay, nhiều giá trò văn hoá của các dân tộc thiểu số đã bò mai một
trong khi đó đời sống văn hoá mới còn nghèo nàn, chính điều đó đã gây cản
trở đến sự phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế xã hội đồng bào dân tộc. Vì
vậy, công tác tư tưởng văn hoá cần được tích cực tham gia những thiếu sót,
hạn chế đó.
Muốn làm tốt diều trên, chúng ta cần phải hiểu rõ đặc điểm cũng như

thực trạng văn hoá của cộng đồng dân tộc, như chúng ta đã biết, trong thời kỳ
đất nước mở cửa hội nhập nền kinh tế thế giới. Việc giao lưu văn hoá của
nhiều dân tộc là bức tranh nhiều màu với những bản sắc văn hoá phong phú,
đa dạng. Trong mấy chục năm qua, do tác động mạnh mẽ của quá trình phát
triển kinh tế- xã hội , văn hoá các dân tộc thiểu số. Việc giao lưu văn hoá có
mặt tích cực là góp phần thúc đẩy quá trình xích lại gần nhau và hiểu biết
giữa các dân tộc, thúc đẩy quá trình biến đổi văn hoá truyền thông các dân
tộc, khiến cho những hiện tượng và giá trò văn hoá mới đã thâm nhập và phát
huy tác dụng trong đời sống tinh thần như: Lễ hội, phong tục, tập quán, ngôn
ngữ, chữ viết, giáo dục, khoa học, ăn mặc, đi lại, sinh hoạt văn hoá, vui chơi
giải trí… Tuy nhiên, giao lưu ảnh hưởng văn hoá với cường độ, phạm vi mạnh
mẽ, rộng lớn, thiếu đònh hướng đã gây ra sự rối ren giữa cái mới và cái cũ,
cái hiện đại và cái truyền thống. Trong tình hình cái mới, cái ngoại lai và cái
hiện đại ở trình độ phát triển cao hơn, áp lực mạnh mẽ hơn đã chi phối chủ
thể tiếp nhận văn hoá đến mức không đủ khả năng để lựa chọn.
Với những đặc điểm nói trên,để giữ gìn, phát huy giá trò văn hoá truyền
thống và xây dựng đời sống văn hoá mới. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện
19
Nghò quyết TW5 (khoá8) về xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc
văn hoá dân tộc. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và mọi
cán bộ, Đảng viên về vai trò, ý nghóa quan trọng của văn hoá, xem đầu tư cho
bảo tồn văn hoá dân tộc vào chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước.
Tăng cường công tác điều tra, sưu tầm, kiểm tra, nghiên cứu và đánh
giá các giá trò văn hoá. Trong khi sưu tầm, điều tra cần chú ý đảm bảo tính
nguyên gốc, nguyên bản, không cải biến, mô phỏng tuỳ tiện.
Giới thiệu phổ biến các giá trò văn hoá của cộng đồng các dân tộc vào
đời sống xã hội và tầng lớp dân cư trong cả nước. Việc phổ biến, giới thiệu
các giá trò văn hoá là giải pháp bảo tồn, là làm giàu và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc. Tài sản văn hoá sẽ được sinh sôi nếu được sống trong lòng nhân

dân thành hơi thở và nguồn sống của họ. Cần phải khắc phục tư tưởng tự ti,
hướng ngoại, coi thường các giá trò văn hoá dân tộc.
Chọn lọc và đưa các giá trò văn hoá các dân tộc vào chương trình giáo
dục ở các trường phổ thông, cao đẳng, đại học, xem đó là vốn kiến thức
không thể thiếu đối với thế hệ trẻ đặc biệt là học sinh, sinh viên các dân tộc
thiểu số.
Xây dựng và phát huy hiệu quả các thiết chế văn hoá cơ sở. Thực tế
cho thấy,nơi nào có thiết chế mạnh thì nơi đó có đời sống văn hoá tinh thần
phong phú. Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Đối với đội ngũ cán
bộ văn hoá phải được đào tạo, rèn luyện biết sống, hoà nhập với cộng đồng
người dân tộc để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh trong từng Phum - Sóc. Đối
với dân tộc Khmer, Phum- Sóc, mái chùa là cái khung xã hội. Phum – Sóc và
mái chùa có vai trò rất quan trọng đối việc sinh sản, nuôi dưỡng nền văn hoá,
bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, việc trước tiên cần xây dựng môi trường
Phum – Sóc cùng với hồi sinh môi trường văn hoá xã hội lành mạnh. Không
thể lãng quên những giá trò truyền thống tốt đẹp về luật tục, văn hoá, nghệ
20
thuật,… Mà phải kế thừa phát huy những giá trò đó sao cho phù hợp, tương
thích với lối sống hiện đại. Tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá mới”. Xây dựng gia đình văn hoá theo tinh
thần thông tri 04 của “Uỷ Ban Mặt Trận trung ương”.
21

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×