BẢNG TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS – Bộ luật Hình sự
2. CTTP – Cấu thành tội phạm
3. TNHS – Trách nhiệm hình sự
A. LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đời sống
cá nhân trong xã hội được nâng cao thì nhu cầu về vật chất cũng như tinh
thần của mỗi người trở thành nhu cầu không thể thiếu. Điều đó đã là một
nhân tố tác động và ảnh hưởng đến diễn biến tội phạm ở nước ta ngày càng
được mở rộng, phức tạp và có chiều hướng tăng về số vụ cũng như hình
thức, cách thức tiến hành. Dù đã Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính
sách nhằm ngăn ngừa cũng như có những chế tài xử lí nghiêm minh mang
tính chất dăn đe với những hành vi phạm tội nhưng trên thực tế thì số lượng
tội phạm vẫn ngày càng ra tăng với tính chất ngày càng tinh vi và xảo quyệt.
Bên cạnh những tội phạm nguy hiểm mang tính chất xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người thì các tội về xâm
phạm sở hữu cũng ngày càng nhiều lên hơn hết bởi nó dễ thực hiện và đối
tượng của việc thực hiện tội phạm này chính là các giá trị về vật chất phục
vụ trực tiếp nhu cầu của tội phạm hướng đến. Để tìm hiểu thêm về vấn đề
này nhóm 01 xin chọn bài làm nhóm môn luật hình sự Việt Nam đề bài số
03. Phân tích một trong các tình huống có liên quan đến tội bắt cóc nhằm
chiếm đoạt tài sản ( điều 134, BLHS)để giải quyết và xem xét các vấn đề có
liên quan.
Đề 3:
A (30 tuổi) đã lôi kéo B (15 tuổi) cùng thực hiện hành vi bắt cóc em
họ của B là C (5 tuổi) để đòi bố mẹ C phải nộp tiền chuộc là 150 triệu đồng.
Hành vi của A và B bị xử lý về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo
khoản 2 Điều 134 BLHS.
Câu hỏi:
1. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy xác định hành vi
phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào?
2. Xác định những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của vụ án nêu trên.
3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao?
4. Phân tích lỗi của A và B trong tình huống trên.
5. Xác định giai đoạn thực hiện tội phạm đối với hành vi phạm tội của
A và B trong tình huống trên.
B. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 8 BLHS, hãy xác định hành vi
phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm nào?
Trả lời:
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 điều 8 BLHS, hành vi phạm tội của A
và B thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
Giải thích
Khoản 3 điều 8 BLHS quy định về cách phân loại tội phạm như sau:
“ Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao
nhất của khung hành phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất
của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù
chung thân hoặc tử hình”.
Vận dụng vào tình huống trên, ta thấy hành vi phạm tội của A và B đã
bị xử lí về tội bắt cố nhằm chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 điều 134 BLHS:
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
năm năm đến mười hai năm :
a)Có tổ chức;
b)Có tính chất chuyên nghiệp;
c)Tái phạm nguy hiểm;
d)Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Đối với trẻ em;
e) Đối với nhiều người;
g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người bị bắt làm
con tin mà tỉ lệ thương tật từ 11% đến 30%;
h) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
i) Gây hậu quả nghiêm trọng.”
Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 2
điều 134 BLHS là 12 năm. Căn cứ vào khoản 3 điều 8 ở trên thì có thể xác
định hành vi phạm tội của A và B thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng.
2. Xác định những dấu hiệu thuộc mặt khách quan của vụ án nêu
trên.
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan. Hay nói cách khác, mặt khách quan của tội phạm bao gồm: Hành vi
khách quan nguy hiểm cho xã hội, Hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của
việc thực hiện hành vi phạm tội ( công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ
đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội…).
Trong CTTP, không phải tất cả biểu hiện của mặt khách quan được
phản ánh là dấu hiệu của CTTP. Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội
là dấu hiệu được phản ánh trong tất cả các CTTP cơ bản. Các nội dung biểu
hiện khác của mặt khách quan chỉ được phản ánh trong những CTTP nhất
định có thể là CTTP cơ bản hoặc CTTP tăng nặng.
Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi khách quan là biểu hiện
cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có
hành vi khách quan. Không thể nói đến hậu quả của tội phạm cũng như
những biểu hiện khách quan khác như công cụ, phương tiện, địa điểm, thời
gian… khi không có hành vi khách quan. Những biểu hiện của mặt chủ quan
là lỗi, mục đích, động cơ cũng luôn luôn gắn liền với hành vi khách quan cụ
thể. Hành vi khách quan là nguyên nhân gây ra sự biến đổi tình trạng của
những đối tượng tác động của tội phạm và do vậy là nguyên nhân của sự gây
thiệt hại cho các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Hành vi khách
quan là cầu nối giữa khách thể và chủ thể. Không thể có chủ thể của tội
phạm khi không có hành vi khách quan.
Với đặc điểm như vậy, hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả
các CTTP, không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Theo Luật
hình sự Việt Nam, hành vi khách quan của tội phạm có ba đặc điểm đó là:
Có tính nguy hiểm cho xã hội; Là hoạt động có ý thức và ý chí đồng thời nó
là hành vi trái pháp luật hình sự. Về hình thức thể hiện thì hành vi khách
quan của tội phạm có thể được thực hiện qua hành động hoặc qua không
hành động. Trong đó, hành động ( phạm tội là hình thức của hành vi khách
quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động của tội
phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể làm một
việc bị pháp luật cấm. Và, không hành động (phạm tội) là hình thức của
hành vi khách quan làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động của tội phạm, gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm qua việc chủ thể
không làm một việc mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện
để làm.
Dấu hiệu thứ hai thuộc mặt khách quan của tội phạm là hậu quả nguy
hiểm cho xã hội. Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Và những thiệt
hại đó thể hiện dưới các dạng: thiệt hại về vật chất, thiệt hại về thể chất, thiệt
hại về tinh thần và các biến đổi khác.
Nếu coi hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là nội dung biểu hiện thứ hai thì nội dung biểu hiện
thứ ba của yêu tố mặt khách quan là mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là mối quan hệ
khách quan luôn luôn tồn tại giữa hành vi khách quan và hậu quả của hành
vi khách quan. Trong cấu thành tội phạm, nếu hậu quả đã được phản ánh là
dấu hiệu khách quan thì quan hệ nhân quả cũng sẽ là dấu hiệu khách quan.
Như vậy, việc định tội theo CTTP loại này không chỉ đòi hỏi phải xác định
hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà còn đòi hỏi xác định cả mối quan hệ nhân
quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Con người
chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội nếu hậu quả nguy
hiểm đó do chính hành vi khách quan của họ gây ra hay nói cách khác nếu
giữa hành vi khách quan đã thực hiện của họ và hậu quả nguy hiểm đó có
quan hệ nhân quả với nhau.
Áp dụng vào tình huống ta thấy mặt khách quan của vụ án trên đó là
•Hành vi bắt cóc C của A và B là hành vi bắt giữ nguời trái pháp luật,
đấy là hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội
•Hành vi bắt cóc C là hành vi có ý thức và ý chí của A và B, tức A và
B nhận thức được hành vi bắt cóc của mình là sai trái nhưng vẫn thực hiện
hành vi đó.
•Hành vi bắt cóc của A và B nhằm mục đích gây áp lực đòi bố mẹ C
giao 150 triệu đồng để đổi lấy sự an toàn của C, và hành vi bắt cóc C của A
và B có thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh thần…. cho C. Đây là
hành vi trái pháp luật hình sự, đã được pháp luật hình sự quy định
Như vậy với phân tích trên thì hành vi của A và B đã thỏa mãn những
dấu hiệu về mặt khách quan của Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản ( điều
134 BLHS)
3. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Tại sao?
Trả lời: Trong vụ án trên có đồng phạm
Lí giải:
Theo khoản 1 Điều 20 – BLHS 1999: “Đồng phạm là trường hợp có
từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Điều đó có nghĩa là,
để được coi là đồng phạm thì cần phải thỏa mãn những dấu hiệu sau:
• Dấu hiệu về mặt khách quan:
•Có ít nhất hai người trở lên và hai người này phải có đủ điều kiện của
chủ thể tội phạm( có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự)
•Những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý).
Căn cứ theo vụ án trên thì chúng ta mặc nhiên thừa nhận A và B có
năng lực trách nhiệm hình sự. Vấn đề xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự của A và B, theo quy định tại điều 12 của BLHS:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng”.
Theo đó, A( 30 tuổi) hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của
mình gây ra( bởi anh ta nhận thức được hành vi và kiểm soát được hành vi
của mình), còn B do phạm tội rất nghiêm trọng như trên phân tích nên vẫn
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Đồng thời, A đã lôi kéo B cùng thực hiện hành vi bắt cóc em họ của
B là C, cả hai cùng tham gia bắt cóc nên cả hai cùng thực hiện tội phạm.
Chính vì vậy, trong vụ án trên dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm đã
được thỏa mãn.
•Dấu hiệu về mặt chủ quan: dấu hiệu này đòi hỏi những nguwoif
cùng thực hiện tội phạm đều có lỗi cố ý.
Về lý trí, họ nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội
và biết được hành vi của người khác cũng nguy hiểm cho xã hội, thấy trước
được hậu quả hành vi của mình thực hiện và hậu quả chung của tội phạm mà
họ tham gia thực hiện.
Về ý chí, họ cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn
hoặc cùng có ý thức bỏ mặc cho hậu quả phát sinh.
Áp dụng vào tình huống ta thấy, A và B đã cùng thực hiện hành vi
phạm tội với lỗi cố ý, mục đích là đòi được bố mẹ của C 150 triệu đồng tiền
chuộc. A và B đều nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, đều biết hành vi cùng nhau thực hiện bắt cóc em họ A là C(5 tuổi) bị
pháp luật ngăn cấm nhưng vẫn thực hiện và thấy trước hậu quả sẽ xảy ra khi
thực hiện hành vi phạm tội .
Đồng thời, A và B cùng mong muốn hậu quả hành vi họ thực hiện xảy
ra (tức là bắt cóc được C và được 150 triệu đồng tiền chuộc ). Vì vậy, dấu
hiệu chủ quan của đồng phạm đã thỏa mãn.
Từ sự phân tích trên ta thấy, A và B đã thảo mãn các dấu hiệu của
đồng phạm vì vậy có thể kết luận A và B là đồng phạm trong tình huống
trên.
4. Phân tích lỗi của A và B trong tình huống trên.
Trong Luật Hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc
cơ bản. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ CTTP nào. Trong
khoa học pháp lí hình sự, khái niệm lỗi được định nghĩa như sau: “ Lỗi là
thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình
và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý
hoặc vô ý”
Người thục hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự phù hợp với đòi hỏi
của xã hội.
Như vậy lỗi chỉ đặt ra trong trường hợp trong đó có khả năng xử sự phù
hợp với xã hội và chủ thể đã không lụa chọn khả năng này. Căn cứ vào đặc
điểm cấu trúc tâm lí của yếu tố ý chí và lí chí trong trường hợp có lỗi Luật
hình sự Việt Nam chia thành hai loại: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý gồm hai
hình thức: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Lỗi vô ý cũng gồm hai trường hợp
lỗi vô ý vì cẩu thả và lỗi vô ý vì quá tự tin.
Qua các khái niệm trên ta có thể khẳng định đầu tiên lỗi của A và B
trong trường hợp này là lỗi cố ý trực tiếp, thấy được hành vi bắt cóc C, rồi
đòi tiền chuộc từ bố mẹ C có thể thấy được lỗi của A và B khi đã xử sự trái
pháp luật. Trong pháp luật hình sự người ta chia lỗi thành hai loại đó là lỗi
cố ý theo điều 9 BLHS và lỗi vô ý theo điều 10 BLHS. Theo tình huống ta
thấy A và B đã bắt cóc C mới 5 tuổi với mục đích nhằm đòi 150 triệu tiền
chuộc từ bố mẹ C, mục đích này đã xâm phạm tới sức khoẻ, tính mạng, tư
do thân thể của C.
•Về lí trí: A và B nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà mình thực hiện thấy trước được hậu quả của hành vi đó. Hành vi
bắt cóc C có thể gây thiệt hại tính mạng sức khỏe danh dự nhân phẩm, và
các hệ lụy khác có thể xảy ra với C, A và B nhận thức được điều đó.
•Về ý chí: A và B mong muốn việc đó xảy ra vì hai người cùng thực
hiện hành vi bắt cóc nhằm mục đích đòi tiền. Hai người này mong muốn
thực hiện tới cùng việc tội phạm là bắt cóc C nhằm chiếm đoạt tài sản. A và
B nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi bắt cóc C nhưng vẫn tiếp tục
thực hiện chứng tỏ chúng mong muốn hành vi của mình xảy ra.
Qua nhưng phân tích ở trên có thể khẳng định rằng hành vi trái pháp
luật của A và B là có lỗi và lỗi cố ý trực tiếp theo khoản 1 Điều 9 BLHS quy
định
5. Xác định giai đoạn thực hiện tội phạm đối với hành vi phạm tội
của A và B trong tình huống trên.
Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố
ý, bao gồm giai đoạn chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và phạm tội hoàn
thành. Trong đó:
Chuẩn bị phạm tội là giai đoạn trong đó người phạm tội có hành vi tạo
ra những điều kiện cần thiết cho việc thực hiện tội phạm nhưng chưa bắt đầu
thực hiện tội phạm đó.
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng chưa thực hiện
được tới cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội
(Điều 18 BLHS).
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết
các dấu hiệu được mô tả trong CTTP.
Theo đó tội phạm hoàn thành khi hành vi phạm tội có đầy đủ dấu hiệu
của cấu thành tội phạm:
•Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì tội phạm hoàn
thành khi đã thực hiện hành vi khách quan của tội phạm
•Đối với tội có cấu thành vật chất tội phạm hoàn thành khi người phạm
tội đã gây ra hậu quả khách quan của tội phạm.
Theo quy định tại Điều 134 BLHS về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài
sản thi tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi “bắt cóc người khác
làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản”.
Đây là loại tội có cấu thành hình thức tức tội phạm hoàn thành từ khi
người phạm tội thực hiện hành vi khách quan của tội phạm. Theo đó tội
phạm hoàn thành ngay từ khi người phạm tội có hành vi bắt cóc và hành vi
đe dọa chủ tài sản.
Vận dụng vào tình huống trên ta thấy:
Về mặt khách quan:
•A và B đã có hành vi bắt cóc C làm con tin, đây là hành vi bắt giữ
người trái pháp luật.
•Hành vi bắt cóc của A và B nhằm Mục đích là gây áp lực đòi bố mẹ C
giao tiền chuộc là 150 triệu đồng.
•Hành vi của A và B đã thỏa mãn các dấu hiệu trong cấu thành tội
phạm nên tội phạm của A và B hoàn thành. Như vậy hành vi của A và B
phạm tội thuộc giai đoạn phạm tội hoàn thành.
C. KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên đây có thể thấy rằng pháp luật hình sự
Việt Nam luôn có những quy định chặt chẽ liên quan đến các chế định về tội
phạm để có cách chừng trị nghiêm minh, đúng người đúng tội. Trên đây là
bài làm bài tập nhóm của chúng em về việc phân tích, áp dụng, giải quyết
tình huống đề bài số 03. Trong bài làm có nhiều khuyết điểm và thiếu xót rất
mong các thầy cô xem xét, góp ý để bài làm thêm hoàn thiện. Em xin chân
thành cảm ơn!
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật hình sự Việt Nam, sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Lao động.
2. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà
xuất bản công an nhân dân.
3. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Trường Đại học Luật
TPHCM
4. Bình luận khoa học bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (sửa đổi bổ sung năm 2009), Viện nhà nước và pháp luật, Nhà xuất
bản lao động.
5. Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi và
bổ sung năm 2009), Nhà xuất bản lao động.