Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

thảo luận VCU đề tài ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ LÊN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.06 KB, 35 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ LÊN
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
Giáo viên hướng dẫn : Th.s Phùng Việt Hà
Nhóm thực hiện : Nhóm 6
Lớp : K8 CT1

HÀ NỘI – 2013
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6
STT Họ và tên Công việc thực hiện Đánh giá
1 Trương Thị Thu
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 2, làm slide
2
Ngô Thị Vân Anh
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 1, 3
3
Vũ Huy Đại
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 1,3
4
Lê Thị Hằng
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 1,2
5
Hoàng Thu Hằng
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 2, 3


6
Đặng Thị Thơm
Tìm tài liệu, đóng góp chương
2, 3
7
Nguyễn Sơn Tùng
Phân công công việc, tìm kiếm
tài liệu tổng hợp, thuyết trình
8 Phùng Cẩm Vân
Tìm tài liệu,tổng hợp bài, đóng
góp ý kiến chương 2
9 Vàng Thị Viên
Tìm tài liệu,tổng hợp bài, đóng
góp ý kiến chương 3
10 Hoàng Thị Yến
Tìm tài liệu, đóng góp ý kiến
chương 1,2
MỤC LỤC
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6 2
Chương II: Thực trạng chính sách tỷ giá và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam qua các
giai đoạn 1986 - 2012 1
Chương III: Một số giải pháp tăng cường tác động tích cực của chính sách tỷ giá lên hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam 1
Đối với cán cân thanh toán 3
Đối với lạm phát và lãi suất 4
Đối với sản lượng và việc làm 4
Đối với đầu tư quốc tế 4
Đối với đầu tư nước ngoài 5
1.2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá 6
Ổn định giá cả 6

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm 7
Cân bằng cán cân vãng lai 7
1.2.3. Các công cụ điều tiết chính của chính sách tỷ giá 8
1.2.3.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá 8
1.2.3.2.Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá 9
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ 11
TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 11
GIAI ĐOẠN 1986 – 2012 11
2.1.1. Chính sách tỷ giá 11
2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái 14
2.2.1. Chính sách tỷ giá 14
2.2.2. Đánh giá tác động 15
2.3. Giai đoạn 1992 – 1999 17
2.3.1. Chính sách tỷ giá 17
2.3.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu 17
2.4. Giai đoạn 2000-2012 20
2.4.1. Chính sách tỷ giá 21
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ LÊN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 27
3.1. Giải pháp mang tính vĩ mô 27
3.1.1. Phương pháp xác định và điều chỉnh tỷ giá 27
3.1.2. Hoàn thiện thị trường ngoại hối ở Việt Nam 28
3.1.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ khác 28
3.2. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 29
3.2.1. Các giải pháp nghiệp vụ trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương 29
3.2.2. Các chiến lược tự bảo hiểm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 30
3.2.3. Các giải pháp trong quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh nghiệp
xuất khẩu 30
3.2.4. Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái 30
KẾT LUẬN 31

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 6 2
Chương II: Thực trạng chính sách tỷ giá và tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam qua các
giai đoạn 1986 - 2012 1
Chương III: Một số giải pháp tăng cường tác động tích cực của chính sách tỷ giá lên hoạt
động xuất nhập khẩu của Việt Nam 1
Đối với cán cân thanh toán 3
Đối với lạm phát và lãi suất 4
Đối với sản lượng và việc làm 4
Đối với đầu tư quốc tế 4
Đối với đầu tư nước ngoài 5
1.2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá 6
Ổn định giá cả 6
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm 7
Cân bằng cán cân vãng lai 7
1.2.3. Các công cụ điều tiết chính của chính sách tỷ giá 8
1.2.3.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá 8
1.2.3.2.Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá 9
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ 11
TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 11
GIAI ĐOẠN 1986 – 2012 11
2.1.1. Chính sách tỷ giá 11
2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái 14
2.2.1. Chính sách tỷ giá 14
2.2.2. Đánh giá tác động 15
2.3. Giai đoạn 1992 – 1999 17
2.3.1. Chính sách tỷ giá 17
2.3.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu 17
2.4. Giai đoạn 2000-2012 20
2.4.1. Chính sách tỷ giá 21

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ LÊN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM 27
3.1. Giải pháp mang tính vĩ mô 27
3.1.1. Phương pháp xác định và điều chỉnh tỷ giá 27
3.1.2. Hoàn thiện thị trường ngoại hối ở Việt Nam 28
3.1.3. Kết hợp các chính sách tiền tệ khác 28
3.2. Những giải pháp đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 29
3.2.1. Các giải pháp nghiệp vụ trong quá trình ký kết hợp đồng ngoại thương 29
3.2.2. Các chiến lược tự bảo hiểm của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu 30
3.2.3. Các giải pháp trong quá trình sản xuất và chuẩn bị nguồn hàng cho doanh nghiệp
xuất khẩu 30
3.2.4. Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro hối đoái 30
KẾT LUẬN 31
LỜI MỞ ĐẦU
Khi thi hành chính sách mở cửa nền kinh tế, biểu hiện rõ rệt nhất là việc
tự do hóa xuất nhập khẩu hàng hóa, tuy nhiên, mỗi quốc gia, khu vực kinh tế có
loại tiền tệ khác nhau và việc trao đổi hàng hóa đòi hỏi các nước có cơ chế quy
đổi tiền tệ để có cơ sở định giá chung. Trên thực tế, chi phí và tiêu dùng trong
nước tính bằng đồng nội tệ trong khi chi phí nhập khẩu và doanh thu xuất khẩu
lại tính theo ngoại tệ nên các nước phải có chính sách định giá đồng nội tệ sao
cho không chỉ ổn định tiền tệ trong nước mà còn tác động tích cực đến cán cân
thương mại.
Chúng ta có thể học được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước,
những quốc gia đã thành công trong việc sử dụng chính sách tỷ giá hối đoái như
một công cụ hữu hiệu để tài trợ xuất nhập khẩu và và giành lợi thế trong cán cân
thương mại.Tuy nhiên, với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, chính phủ, ngân
hàng nhà nước (gọi tắt NHNN) đã đưa ra những chính sách quản lý tỷ giá hối
đoái phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn.
Dựa trên cơ sở lý luận cũng như những số liệu thực tế thu được trong giai
đoạn 1986-2012, nhóm 6 đã thực hiện đề tài tiểu luận: “Đánh giá tác động của

chính sách tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu” gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về tỷ giá và chính sách tỷ giá
Chương II: Thực trạng chính sách tỷ giá và tình hình xuất nhập khẩu của
Việt Nam qua các giai đoạn 1986 - 2012
Chương III: Một số giải pháp tăng cường tác động tích cực của chính sách
tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam
Trong quá trình phân tích và đánh giá không thể tránh khỏi những sai sót,
rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để bài phân tích được
hoàn chỉnh hơn.
1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỶ GIÁ
VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1.1. Tỷ giá
1.1.1. Khái niệm tỷ giá.
Tỷ giá hối đoái xuất hiện cùng với sự xuất hiện thương mại quốc tế, trao
đổi thanh toán tiền mặt lẫn nhau và sử dụng những lợi thế so sánh của các nước
khác nhau trong phân công lao động quốc tế. Do đó tỷ giá hối đoái được quan
niệm khác nhau gắn với từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái được quan niệm là tương quan về
hàm lượng vàng giữa hai đồng tiền vàng với nhau (Nhưng hiện nay chế độ bản vị
vàng không tồn tại nên cách xác định tỷ giá hối đoái này không còn được sử
dụng).
Tỷ giá hối đoái còn được xây dựng theo phương pháp “ngang giá sức mua”
– PPP. Nghĩa là sự so sánh giá trị của một gói hàng hoá khác nhau qua các đồng
tiền khác nhau trên cơ sở đó cân bằng giá cả để tìm ra được tỷ giá hối đoái.
Hiện nay, tỷ giá hối đoái được hình thành trên quan hệ cung cầu ngoại tệ.
Nó phản ánh đúng giá trị của các đồng tiền đó khi trao đổi thương mại quốc tế: tỷ
giá là giá cả của một đồng tiền được biểu hiện thông qua một đồng tiền khác.
Ví dụ: 1USD = 20.000 VND
Cách tính này thể hiện rằng tỷ giá hối đoái thể hiện đúng giá trị của đồng

tiền trên cơ sở cung cầu thị trường phản ánh đúng bản chất của tỷ giá hối đoái là
một loại giá tương quan, rất nhạy cảm, thay đổi linh hoạt, bao gồm các yếu tố bất
khả kháng.
2
Bảng 1.1. Tỷ giá của một số ngoại tệ ngày 21/ 9/ 2013.
Nguồn: Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam
1.1.2. Các phương pháp niêm yết tỷ giá
- Yết giá trực tiếp (direct quotation): là phương pháp biểu thị giá trị 1 đơn
vị ngoại tệ thông qua một số lượng nội tệ nhất định.
Ví dụ: 1 USD = 21.080 VND
- Yết giá gián tiếp (indirect quotation): là phương pháp biểu thị giá trị 1
đơn vị nội tệ thông qua một số lượng ngoại tệ nhất định.
Ví dụ: 1 GBP = 1,6031 USD
Theo thông lệ các đồng tiền thường được yết giá gián tiếp gồm có bảng
Anh (GBP), Dollar Úc (AUD) và Dollar New Zealand (NZD).
Các đồng tiền thường được yết giá trực tiếp gồm có Yên Nhật (JPY),
France Thụy Sĩ (CHF), Dollar Singapore (SGD), và nhiều đồng tiền khác trong
đó có đồng Việt Nam. Riêng USD và Euro vừa yết giá gián tiếp vừa yết giá trực
tiếp.
1.1.3. Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế
• Đối với cán cân thanh toán
Mã NT Tên ngoại tệ Mua tiền mặt
Mua chuyển
khoản
Bán
AUD AUST.DOLLAR 19,692.60 19,811.47 20,088.66
CAD CANADIAN DOLLAR 20,250.77 20,434.68 20,720.58
CHF SWISS FRANCE 22,879.64 23,040.93 23,363.29
DKK DANISH KRONE - 3,792.73 3,876.68
EUR EURO 28,304.42 28,389.59 28,786.79

GBP BRITISH POUND 33,429.03 33,664.68 34,067.48
HKD HONGKONG DOLLAR 2,680.85 2,699.75 2,748.50
INR INDIAN RUPEE - 334.89 349.22
JPY JAPANESE YEN 208.77 210.88 213.83
KRW SOUTH KOREAN WON - 17.91 21.93
KWD KUWAITI DINAR - 73,872.31 75,507.55
MYR MALAYSIAN RINGGIT - 6,625.86 6,718.56
NOK NORWEGIAN KRONER - 3,585.84 3,665.21
USD
US DOLLAR 21,080.00 21,080.00 21,140.00
3
Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với một quốc gia vì
trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất nhập khẩu của chính quốc
gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm tăng giá trong nước của
hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất khẩu của nước đó, cải
thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các nguồn lực sẽ được thu
hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh tranh hiệu quả hơn so với
hàng nhập khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có thể có hiệu quả hơn
trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập khẩu giảm làm cán
cân thanh toán được cải thiện.
• Đối với lạm phát và lãi suất
Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng làm tăng giá các mặt hàng
nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình, các nhà sản xuất sử dụng đầu vào
nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng cùng tỷ lệ phá giá.
Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc biệt là nền kinh tế
nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao
so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các năm có nghĩa là
lạm phát đã tăng. Nếu lãi suất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm soát sẽ kích
thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi suất tăng
làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm sút.

• Đối với sản lượng và việc làm
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì
khi TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh
cho các lĩnh vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm
giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
• Đối với đầu tư quốc tế
Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất
được đưa vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá
chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản suất và hiệu quả
4
các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất
định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư
vào nước sở tại hay không.
Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc
tế cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.
Lợi tức từ khoản cho vay bằng ngoại tệ = lãi suất ngoại tệ + giảm giá đồng nội tệ
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng
tổng lợi tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra
hiện tượng luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ
đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi
hỏi các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý
giảm mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
• Đối với đầu tư nước ngoài
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước
đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự
tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế
ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải
thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả

nợ nước ngoài.
Tóm lại: Tỷ giá hối đoái thay đổi ảnh hưởng đến nhiều hoạt động kinh tế,
nhiều mặt của xã hội cho nên tuỳ từng thời gian, từng thời điểm cụ thể mà lợi
dụng những tác động tích cực đó để có những hoạt động kinh tế hợp lý và hiệu
quả.
1.2. Chính sách tỷ giá
Ở phần trên chúng ta đã nghiên cứu về những tác động ảnh hưởng của tỷ
giá hối đoái đối với nền kinh tế, có cả những tác động tích cực lẫn tác động tiêu
cực. Do đó trong quá trình điều tiết tỷ giá của nhà nước, đòi hỏi phải có những
chính sách và các biện pháp phù hợp và kịp thời để đảm bảo một tỷ giá có lợi
5
cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển theo định hướng. Điều này chỉ đạt
được khi nhà nước xây dựng và thực hiện được một chính sách tỷ giá hối đoái
linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ. Như vậy chính sách tỷ giá chúng ta cần
đánh giá và xem xét thế nào cho phù hợp. Phần này sẽ giúp người đọc hiểu rõ
hơn về chính sách tỷ giá hối đoái.
1.2.1. Khái niệm
Theo nghĩa rộng, chính sách tỷ giá là những hoạt động của Chính phủ (mà
đại diện thường là NHTW) thông qua một chế độ tỷ giá nhất định (hay cơ chế
điều hành tỷ giá) và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá
cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với
mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Theo nghĩa hẹp, chính sách tỷ giá là những hoạt động của NHTW thông
qua cơ chế điều hành tỷ giá và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm đạt được
một mức tỷ giá nhất định, để tỷ giá tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập
khẩu hàng hoá và dịch vụ của quốc gia.
1.2.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá
Ổn định giá cả
Với các yếu tố khác không đổi, khi phá giá nội tệ (tức tỷ giá tăng), làm
cho giá hàng hoá nhập khẩu (bao gồm hàng tiêu dùng và nguyên vật liệu, máy

móc, thiết bị cho sản suất trong nước) tính bằng nội tệ tăng. Giá hàng hoá nhập
khẩu tăng làm cho mặt bằng giá cả chung của nền kinh tế tăng, tức gây lạm phát.
Tỷ giá tăng càng mạnh và tỷ trọng hàng hoá nhập khẩu càng lớn thì tỷ lệ lạm
phát càng cao.
Ngược lại, khi nâng giá nội tệ (tức tỷ giá giảm), làm cho giá hàng hoá
nhập khẩu tính bằng nội tệ giảm, tạo áp lực giảm lạm phát.
Qua phân tích thấy được, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một
công cụ hữu hiệu nhằm đạt được mục tiêu ổn định giá cả. Với các yếu tố khác
không đổi, muốn kiềm chế lạm phát gia tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách
6
nâng giá nội tệ (tức tác động làm cho tỷ giá giảm); muốn kích thích lạm phát gia
tăng, NHTW có thể sử dụng chính sách phá giá nội tệ (tức tác động làm cho tỷ
giá tăng); muốn duy trì giá cả ổn định NHTW phải sử dụng chính sách tỷ giá ổn
định và cân bằng.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm
Khi các yếu tố khác không đổi, với chính sách phá giá nội tệ sẽ làm cho
kích thích tăng trưởng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, trực tiếp làm tăng thu
nhập quốc dân và tăng công ăn việc làm.
Y = C + I + G + X – M
Phá giá nội tệ làm cho suất khẩu X tăng và nhập khẩu M giảm, do đó tác
dụng làm tăng trực tiếp thu nhập quốc dân Y. Phá giá nội tệ làm cho những
ngành sản suất không sử dụng (hoặc sử dụng ít) đầu vào là hàng nhập khẩu sẽ
tăng được lợi thế cạnh tranh về giá so với hàng hoá nhập khẩu, từ đó mở rộng
được sản suất, tăng thu nhập và tạo thêm công ăn việc làm mới. Tuy nhiên, để
có được một cuộc phá giá thành công, thì trong nền kinh tế phải có sẵn điều kiện
cần thiết như năng lực sản suất và thị trường cho hàng xuất khẩu, năng lực sản
xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, đồng thời để tránh vòng xoáy của “phá giá -
lạm phát và lạm phát – phá giá”, thì phải áp dụng một chính sách thắt chặt tiền
tệ và một quỹ dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp trong thời gian đầu.
Ngược lại, với các yếu tố khác không đổi, khi nâng giá nội tệ sẽ tác động

làm giảm tăng trưởng kinh tế và gia tăng thất nghiệp.
Qua phân tích cho thấy, chính sách tỷ giá có thể được sử dụng như một
công cụ nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tăng công ăn việc làm.
Với các yêu tố khác không đổi, muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cần áp dụng
chính sách phá giá nội tệ, ngược lại muốn kiềm chế và giảm tốc độ tăng trưởng
kinh tế thì áp dụng chính sách nâng giá nội tệ.
Cân bằng cán cân vãng lai
Với chính sách tỷ giá định giá thấp nội tệ sẽ có tác dụng thúc đẩy xuất
khẩu và hạn chế nhập khẩu, giúp cải thiện được cán cân vãng lai từ trạng thái
7
thâm hụt trở về trạng thái cân bằng hay thặng dư.
Với chính sách tỷ giá định giá cao nội tệ sẽ có tác dụng kìm hãm xuất
khẩu và kích thích nhập khẩu, giúp điểu chỉnh cán cân vãng lai từ trạng thái
thặng dư trở về trạng thái cân bằng hay thâm hụt.
Với chính sách tỷ giá cân bằng sẽ có tác dụng cân bằng xuất khẩu và nhập
khẩu, giúp cán cân vãng lai tự động cân bằng.
1.2.3. Các công cụ điều tiết chính của chính sách tỷ giá
1.2.3.1. Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá.
Thông thường đó là hoạt động của NHTW trên thị trường ngoại hối thông
qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định (trong chế độ tỷ
giá cố định), hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định
theo mục tiêu đã đề ra (trong chế độ tỷ giá thả nổi). Để tiến hành can thiệp buộc
NHTW phải có một lượng dự trữ ngoại hối đủ mạnh. Hơn nữa, các hoạt động
can thiệp trực tiếp của NHTW tạo ra hiệu ứng thay đổi cung ứng tiền trong lưu
thông, có thể tạo ra áp lực lạm phát hay thiểu phát không mong muốn cho nền
kinh tế. Chính vì vậy, đi kèm theo hoạt động can thiệp trực tiếp, NHTW thường
phải sử dụng thêm một nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ lượng dư cung hay
bổ sung phần thiếu hụt tiền tệ trong lưu thông. Do có hạn chế nhất định, nên các
NHTW của các nước phát triển đã dần chuyển từ can thiệp trực tiếp sang can
thiệp gián tiếp mà chủ yếu là thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu.

Thuộc nhóm công cụ trực tiếp còn có các biện pháp can thiệp hành chính
của Chính phủ:
Biện pháp kết hối:
Là việc Chính phủ quy định đối với các cá nhân và pháp nhân có nguồn
thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ
chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụng trong
những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích
chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu
cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá
8
nội tệ.
Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục
đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn
chế thời điểm được mua ngoại tệ. Tất cả các biện pháp này đều nhằm mục đích
giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định.
1.2.3.2.Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá
Bao gồm các công cụ như: Lãi suất tái chiết khấu, thuế quan, hạn ngạch,
giá cả v.v… Trong số các công cụ gián tiếp thì công cụ lãi suất tái chiết khấu
thường được sử dụng nhiều nhất và tỏ ra hiệu quả nhất.
Lãi suất tái chiết khấu: Với các yếu tố khác không đổi, khi NHTW tăng
mức lãi suất tái chiết khấu, sẽ có tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường;
lãi suất thị trường tăng hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chạy vào làm cho nội tệ
lên giá. Khi lãi suất tái chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược lại.
Thuế quan: Thuế quan cao sẽ có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu; nhập
khẩu giảm làm cho cầu ngoại tệ giảm, kết quả làm cho nội tệ lên giá. Khi thuế
quan thấp sẽ có tác dụng ngược lại.
Hạn ngạch: Hạn ngạch có tác dụng làm hạn chế nhập khẩu, do đó có tác
động lên tỷ giá giống như thuế quan cao. Dỡ bỏ hạn ngạch có tác dụng làm tăng
nhập khẩu, do đó có tác dụng lên tỷ giá giống như trường hợp thuế quan thấp.
Giá cả: Thông qua hệ thống giá cả, Chính phủ có thể trợ giá cho những

mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá
xuất khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu tăng, làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho
nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu
thiết yếu; bù giá làm tăng nhập khẩu, kết quả là làm cho nội tệ giảm giá.
Ngoài các công cụ gián tiếp, trong từng thời kỳ Chính phủ (chủ yếu là các
nước đang phát triển) còn có thể áp dụng một số biện pháp cá biệt khác như:
Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các NHTM: Khi
ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, NHTW có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các NHTM, làm cho chi phí sử
9
dụng vốn ngoại tệ tăng; để kinh doanh có lãi buộc các NHTM phải hạ lãi suất
huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so
với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sử dụng ngoại tệ phải bán đi lấy nội
tệ, làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ.
Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các NHTM ngoài mục đích chính là
phòng ngừa rủi ro tỷ giá, còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp
lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối.
10
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ
TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986 – 2012
2. Thực trạng chính sách tỷ giá của Việt Nam qua các giai đoạn từ năm
1986-2012
2.1. Giai đoạn trước 1989: Cố định và đa tỷ giá
Trong giai đoạn này, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế đóng cửa và hướng
nội. Đây là thời kỳ của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Các bạn hàng chủ yếu
là các nước xã hội chủ nghĩa (gọi tắt là XHCN) trong hội đồng tương trợ kinh tế.
Hình thức trao đổi thương mại chủ yếu là hàng đổi hàng giữa các nước theo một
tỷ giá đã được thoả thuận trong hiệp định ký kết song phương hay đa phương.

2.1.1. Chính sách tỷ giá
Tỷ giá được xác định dựa trên việc so sánh sức mua giữa hai đồng tiền, sau
đó được qui định trong các hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước
XHCN. Tỷ giá của Việt Nam lần đầu tiên được công bố vào ngày 25/11/1955 là tỷ
giá giữa đồng Nhân dân tệ (CNY) và VND là 1CNY = 1470VND. Sau đó, khi
Việt Nam có quan hệ ngoại thương với Liên Xô, tỷ giá giữa VND và đồng Rúp
(SUR) được tính chéo nhờ tỷ giá giữa CNY và SUR đã có từ trước. 1 SUR = 0.5
CNY ⇒ 1 SUR = 735 VND. Tỷ giá hối đoái trong giai đoạn này được giữ cố định
trong một thời gian dài.
Một đặc trưng nữa của tỷ giá trong giai đoạn này là “đa tỷ giá” tức là việc
tồn tại song song nhiều loại tỷ giá. Do nhà nước ấn định một mức tỷ giá cố định
trong khi các giao dịch chủ yếu là hàng đổi hàng nên khi hàng xuất khẩu của Việt
Nam từ đầu năm tính theo tỷ giá cố định và hàng đổi lại nhập khẩu từ nước ngoài
vào cuối năm trong khi đồng ngoại tệ lại có sự biến đổi (tăng giảm giá trị ngoại tệ
và chi phí sản xuất) nên để phù hợp với hợp đồng trao đổi hàng hóa, tỷ giá trong
giao dịch nhập khẩu này được điều chỉnh cho phù hợp và khác với tỷ giá do nhà
11
nước ấn định. Ngoài ra, với chính sách ưu tiên xuất khẩu và nhập khẩu một số
ngành hàng nên tỷ giá khi tính giá trị xuất nhập các mặt hàng này cũng được điều
chỉnh cho phù hợp với chính sách ưu tiên.
2.1.2. Tác động của tỷ giá lên hoạt động xuất nhập khẩu
Thực ra trong giai đoạn này do quan hệ thương mại đầu tư của Việt Nam và
khối SEV là quan hệ hàng đổi hàng, mang nặng tính chất viện trợ, việc di chuyển,
chuyển giao về ngoại tệ là không có nên việc quy định tỷ giá hối đoái giữa VND
và các ngoại tệ khác chỉ mang tính hạch toán.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam còn yếu, vị thế trên thị trường chưa có
nên Việt Nam không có lợi thế trong việc đàm phán mức tỷ giá có lợi cho mình
nên đồng VND luôn được định giá quá cao
Cán cân thương mại bị thâm hụt nặng, xuất khẩu gặp nhiều bất lợi trong khi
nhập khẩu thì có lợi và thường xuyên tăng lên. Hậu quả là hàng nội bị hàng ngoại

chèn ép, sản xuất trong nước bị đình đốn.
Nhà nước phải áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ để bù lỗ cho các đơn vị sản
xuất hàng xuất khẩu nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu và chưa đủ bù đắp chi phí
sản xuất. Cán cân thanh toán bị bội chi, dự trữ ngoại tệ bị giảm sút, phản ứng của
chính phủ lúc này là tăng cường quản lý ngoại hối, bảo hộ mậu dịch và kiểm soát
hàng nhập khẩu. Nhưng từ đó nảy sinh tình trạng khan hiếm vật tư, hàng hóa,
nguyên vật liệu cần thiết khiến cho tốc độ tăng trưởng chậm lại, sản xuất trong
nước trì trệ, đình đốn lại càng trở nên tồi tệ, sức ép lạm phát tăng vọt.
Trước tình hình đó, tỷ giá cũng được bước đầu điều chỉnh mặc dù chỉ số giá
cả hằng năm biến động rất lớn. Tuy nhiên, trong những năm 1988, 1989 xuất khẩu
chỉ bằng 1/3 nhập khẩu . Vì vậy, khi nâng tỷ giá cao đột ngột sẽ gây tác động
mạnh đến mức giá trong nước .
Ngày 20/10/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính
phủ) ra quyết định số 271/CT cho phép Ngân hàng Nhà nước được phép điều
chỉnh tỷ giá phù hợp với sự biến động giá cả trong nước theo nguyên tắc thời giá
trừ lùi 10% đến 30% cá biệt đến 50%. Nghị định 53/HĐBT ra đời, qui định về
12
việc tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp, bao gồm ngân
hàng nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ mô và hệ thống ngân hàng thương
mại thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và tín dụng. Tỷ giá mua bán của các
ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng
trừ 5%.
Quá trình xóa bỏ chế độ tỷ giá kết toán nội bộ diễn ta cùng lúc với việc điều
chỉnh giảm giá mạnh nội tệ. Để giảm bớt chênh lệch tỷ giá nhằm tiến tới điều
hành tỷ giá dựa chủ yếu vào quan hệ cung cầu trên thị trường, nhà nước đã thông
qua chính sách tỷ giá linh hoạt hơn – điều chỉnh tỷ giá chính thức theo tỷ giá trên
thị trường tự do sao cho mức chênh lệch nhỏ hơn 20%. Kết quả là mức chênh lệch
tỷ giá được thu hẹp.
Bảng 2.1. Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1988
1986 80 100 789.1 100 2155.1 100 -1366 100 425 369.56

1987 368 460 854.2 108.25 2455.1 113.92 -1600.9 117.20 1270 298.82
1988 3000 815.21 1038.4 121.56 2756.7 112.29 -1718.3 107.33 5000 393.70
(Nguồn : Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê)
Có thể dễ dàng nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng
hạ giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng nặng. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng
1,6 tỷ USD thì sang năm 1988 khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước
đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng
Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không những không
kích thích được ngoại thương mà còn đẩy hoạt động này đến tình cảnh nhập siêu
trầm trọng hơn.
Trước thời điểm 89,trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu
chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất
13
đi luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập về nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp
hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1988. Lý do cơ
bản giải thích cho vấn đề này chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm,
động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng
lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa
thể đáp ứng nổi.
2.2. Thời kỳ 1989-1991 : “Thả nổi” tỷ giá hối đoái
Thời kỳ này đánh dấu sự sụp đổ của hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống bị gián đoạn, khiến chúng
ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng đồng Đô-la Mỹ.
Quá trình đổi mới kinh tế thực sự diễn ra mạnh mẽ bắt đầu từ năm 1989.
Chính phủ cam kết và thực thi chiến lược ổn định hóa nền kinh tế - tài chính - tiền
tệ, trong đó vấn đề tỷ giá được coi là khâu đột phá, có vai trò cực kỳ quan trọng
đối với quá trình cải cách, chuyển đổi cơ chế và mở cửa kinh tế.
2.2.1. Chính sách tỷ giá.
Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện cải cách cơ chế điều chỉnh tỷ giá đồng
Việt Nam (VND) với Đôla Mỹ. Ngân hàng Nhà nước đề nghị với chính phủ thành

lập Quỹ điều hòa ngoại tệ tại NHNN để có thể can thiệp vào thị trường ngoại hối
nhằm ổn định tỷ giá. Chính phủ đã ủy quyền cho Thống đốc NHNN được toàn
quyền điều hành quỹ một cách linh hoạt.
Ngân hàng Nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành
phố Hồ Chí Minh (tháng 9/1991) và Hà Nội (tháng 11/1991). Đối tượng tham gia
giao dịch trên các trung tâm này là các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ,
các tổ chức xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp với nước ngoài và NHNN. Ngoài
ra, các ngân hàng được phép tập hợp các yêu cầu mua bán ngoại tệ của khách
hàng không trực tiếp mua bán tại trung tâm. Trung tâm hoạt động theo nguyên tắc
đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức của Đồng Việt Nam được xác định có căn cứ vào tỷ giá
đóng cửa tại các phiên giao dịch ở các trung tâm theo nguyên tắc tỷ giá mua vào
14
không được vượt quá 0,5% so với tỷ giá ấn định tại phiên giao dịch trước.
2.2.2. Đánh giá tác động
Chính phủ đã có những bước đi mới để tỷ giá đồng VND được linh hoạt
hơn theo nhu cầu thị trường và điều này đã tạo nên những chuyển biến trong tình
hình xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ
giá, bộ mặt ngoại thương lập tức có biến chuyển rõ nét. Mặc dù mức giá đồng
ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm
xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên
kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2
tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).
Bảng 2.2. Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1991
1989 3900 130 1320 127.12 2565.8 93.08 -1245.8 72.50 4100 82
1990 6300 161.54 2404 182.12 2752.4 107.27 -348.4 27.96 6500 158.54
1991 9767 155.03 2087.1 86.82 2338.4 84.96 -251.3 72.13 11975 184.23
(Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê)
Bảng 2.2 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên

tiếp trong suốt giai đoạn 89-91. Từ mức tỷ giá 1USD = 3900VND năm 1989,
đồng nội tệ đã giảm xuống 9767 đồng/đôla năm 1991; trong vòng 3 năm, tỷ giá đã
sụt giảm gần 3 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại
thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong
quan hệ buôn bán với các quốc gia bao gồm cả những nước tư bản phương tây.
Do tỷ giá chính thức được điều chỉnh tiến sát với tỷ giá thị trường, hình
thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại -
xuất nhập khẩu trở nên rõ nét hơn, chính xác hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống
thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ
15
giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990
sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu
tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá, thể hiện xuất khẩu co giãn hoàn toàn
với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong ba năm 1989
- 1991 yếu tố nổi bật trong tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu là mức
giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Đơn cử như
năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71
đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức thu hẹp mức tăng
nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Xét về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn
1989-1991, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá
đồng nội tệ, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư,
mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ
có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập
khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên
nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt hàng xuất
khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản
lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các
nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương
được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch

xuất khẩu trên 100 triệu USD. Bên cạnh đó, việc tỷ giá giảm mạnh kéo theo sự
tăng lên đáng kể trong đầu tư nước ngoài đặc biệt là đầu tư trực tiếp đã làm phong
phú hơn danh mục xuất nhập khẩu của Việt Nam. Việc liên doanh thường dẫn đến
tình trạng góp vốn thông qua công nghệ và thế là Việt Nam bắt đầu nhập về
những công nghệ mới như công nghệ dán da, công nghệ xử lý chất thải những
công nghệ từ trước tới nay chưa từng có trong danh mục nhập khẩu để rồi đi đến
sản xuất những chủng loại hàng có thể cũng chưa bao giờ xuất hiện trong danh
mục xuất khẩu.
Về thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được
xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển
16
hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất
nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với
85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, thay vào đó
là sự lên ngôi của thị trường Châu Á trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên
cả lĩnh vực xuất khẩu lẫn nhập khẩu.
Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, thời kỳ này do có lợi thế về giá cộng
với rủi ro tỷ giá hoàn toàn không có nên đã yên tâm phát triển sản xuất, mạnh bạo
hơn trong vấn đề vay vốn và bước đầu sản xuất hàng xuất khẩu có hiệu quả.
Có thể nói, việc mở rộng hoạt động ngoại thương sang khu vực đồng USD
là một bước đi quan trọng, tỷ giá đồng VND được điều chỉnh bởi thị trường đã
góp phần thay đổi bộ mặt xuất nhập khẩu của Việt Nam.
2.3. Giai đoạn 1992 – 1999
2.3.1. Chính sách tỷ giá
Tiếp tục những bước thay đổi trong chính sách điều hành tỷ giá, ngày
20/10/1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được thành lập với quy mô lớn
hơn, hoạt động linh hoạt hơn. Do đó, tỷ giá hối đoái ngày cảng phản ánh đầy đủ
hơn quan hệ cung cầu thị trường. Qua thị trường liên ngân hàng, NHNN nắm bắt
dấu hiệu thị trường về tỷ giá hối đoái, công bố tỷ giá chính thức hàng ngày và
biên độ giao dịch cho các ngân hàng thương mại

Từ tháng 7/1997, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
Châu Á, đồng Việt Nam chịu áp lực giảm giá mạnh đã khiến cho thị trường ngoại
hối rơi vào tình trạng đầu cơ, tích trữ ngoại tệ, cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung.
Trong hai năm 1997-1998, nhà nước đã ba lần chủ động điều chỉnh tỷ giá
VND/USD, đồng thời nới rộng biên độ giao dịch giữa các ngân hàng thương mại
với các khách hàng trên thị trường ngoại tệ.
2.3.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động xuất nhập khẩu
Nhìn vào bảng trên có thể thấy trong các năm từ 1992 – 1999, duy chỉ có
năm 1992 là Việt Nam đạt xuất siêu. Tuy nhiên, thành tích xuất siêu kéo dài
không được bao lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu
do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục
17
diễn ra.
Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt
động xuất - nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt
động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương,
cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm.
Song thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng
đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công
nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim ngạch
xuất khẩu lại sụt giảm. Năm 1994, nếu mức tăng kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng
36% ở mức giảm giá danh nghĩa nội tệ 2,96% thì sang năm 1995, mức tăng xuất
khẩu chỉ đạt khoảng 34% bởi tỷ giá giảm rất thấp, ở mức 0,14%.
Bảng 2.3. Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá
giai đoạn 1992-1999
(Nguồn: Tính toán theo số liệu Tổng Cục thống kê)
Căn cứ vào số liệu ở Bảng trên, có thể thấy việc tỷ giá luẩn quẩn quanh
biên độ giao động +/- 0,5% giai đoạn 93-96 đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm
1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì

nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1
18
đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu
sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại
thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị định cao hơn so với giá
trị thực của nó vận động rất đúng theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi
tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và thực sự gây tổn hại đến sản
xuất trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tăng tỷ giá dường như ưu ái
cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá
thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Giá đô la hạ
xuống 12,5% từ khoảng 12.000 tháng 1/1993 xuống 10.600 cuối năm khiến hàng
nhập theo giá đô la cũng được rẻ đi 12,5% . Nếu lấy năm 1992 làm mốc, đồng
Việt Nam đã lên giá 24% trong 3 năm 1993 – 1995 và theo đó giá hàng xuất khẩu
cũng bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc.
Hình 2.1. Diễn biến tỷ giá USD/VND giai đoạn 1992 -1999
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng Đô la cũng đã phần nào
khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên
Nhật Điều này cũng khiến công tác mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy
nhiên do công tác xúc tiến thị trường giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường
nước ngoài bắt đầu được tiến hành rầm rộ nên qui mô thị trường không những
19
không bị thu hẹp mà ngày càng được mở rộng hay nói cách khác, thời kỳ này tỷ
giá không ảnh hưởng mấy đến vấn đề thị trường xuất-nhập khẩu.
Khủng hoảng giai đoạn 1997 – 1998 đã thay đổi toàn bộ quan điểm điều
hành tỷ giá của Việt Nam. Xét thấy việc cố định tỷ giá ở mức cao là không thể
được, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh ngay tỷ giá đồng Việt Nam.
Cơ chế điều hành tỷ giá tỏ ra hoạt động có hiệu quả khi chỉ trong vòng 1 năm
(1997 so với 1996 ) đồng Việt Nam đã giảm giá 16%, khoảng cách giữa tỷ giá
thực và tỷ giá danh nghĩa được thu hẹp, tác động tích cực đến ngoại thương Việt

Nam. Rõ nét nhất là kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, chỉ dừng ở mức 4%, đưa
mức nhập siêu xuống 2,4 tỷ so với 3,8 tỷ năm 1997 so với 1996. Và đặc biệt năm
1999, mức nhập siêu chỉ còn khoảng 200 triệu đô la.
Mặc dầu vậy, khi đặt đồng Việt Nam trong tương quan với giá tiền tệ các
quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng thì giá đồng Việt Nam vẫn còn
ở mức cao. Trung bình, tỷ lệ mất giá so với đô la của các đồng tiền thuộc khu vực
khủng hoảng là 30-40%, cao nhất là đồng Rupiah của Indonesia với độ mất giá
đến hơn 80%, ngay cả đồng đô la Singapore cũng bị sụt giá 16% trong khi đó
đồng Việt Nam chỉ được giảm giá trung bình 8,25%. Thực tế này đã không mang
lại điều kiện về giá cho hàng hóa Việt Nam để có thể cạnh tranh được trên thị
trường các nước Đông Nam Á. Đây cũng là nguyên nhân giải thích tại sao lượng
xuất khẩu của Việt Nam không tăng mấy trong năm 1998, kéo theo kim ngạch
xuất khẩu, tốc độ tăng xuất khẩu đứng ở mức thấp 1,9%.
Tóm lại, có thể nói tác động bao trùm của tỷ giá lên hoạt động ngoại
thương thời kỳ này mang tính tích cực. Lần đầu tiên chúng ta đã dung hòa được
mối quan hệ vốn mâu thuẫn giữa xuất khẩu-tỷ giá-nhập khẩu. Nhập khẩu được
kiểm soát còn xuất khẩu trở nên chủ động hơn trên những thị trường mới và thời
kỳ 1997-1999 có thể xem là thời kỳ thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt
Nam.
2.4. Giai đoạn 2000-2012
Từ 2000 đến 2012, nền kinh tế Việt Nam vượt qua được khủng hoảng tài
20
chính tiền tệ tại châu Á, từng bước hội nhập sau hơn vào nền kinh tế thế giới. Đặc
biệt với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại
quốc tế WTO năm 2007, nền kinh tế Việt Nam mới có cơ hội thử sức mình tại sân
chơi cởi mở hơn. Cùng với những cam kết về tự do hóa thương mại mà chính phủ
Việt Nam đã kí trong các vòng đàm phán, các rào cản đối với hàng nhập khẩu dần
dỡ bỏ, hàng hóa 150 nước thành viên vào thị trường Việt Nam thuận lợi hơn và
hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có nhiều cơ hội xuất ra thị trường rộng lớn.
Đến năm 2008, khủng hoảng tài chính bùng phát tại Mỹ và lan rộng ra toàn cầu,

kéo theo sự sụp đổ đồng loạt của nhiều định chế tài chính khổng lồ, thị trường
chứng khoán khuynh đảo. Sau 5 năm khủng hoảng kinh tế Việt Nam đang cố gắng
khắc phục để đi lên.
2.4.1. Chính sách tỷ giá
Việt Nam thi hành chính sách quản lý tỷ giá “thả nổi có sự điều tiết của nhà
nước”. Theo đó, nhà nước sẽ quản lý thông qua “tỷ giá bình quân thị trường liên
ngân hàng và biên độ giao động được phép”. Vào đầu mỗi ngày giao dịch, Ngân
hàng nhà nước sẽ ấn định một mức tỷ giá bình quân thị trường liên ngân hàng và
theo đó, các ngân hàng thương mại niêm yết tỷ giá mua và bán ngoại tệ của mình
trong phạm vi biên độ dao động được phép. Sự tăng và giảm giá đồng Việt Nam
được đánh giá dựa vào mức tỷ giá bình quân mà ngân hàng nhà nước ấn định và
biên độ dao động được phép thể hiện sự “quản lý” của nhà nước đối với tỷ giá
giao dịch của đồng Việt Nam
21

×