Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Nghiên cứu, đánh giá nguồn vốn thiên nhiên ở quần đảo cát bà, huyện cát hải, thành phố hải phòng phục vụ phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 99 trang )

ii

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT iv
DANH MỤC BẢNG v
DANH MỤC HÌNH vi
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TỔNG QUAN 4
1.1. Khái quát về khu vực nghiên cứu 4
1.1.1. Điều kiện tự nhiên quần đảo Cát Bà 4
1.1.1.1. Đặc điểm địa chất – địa mạo 4
1.1.1.2. Đặc điểm địa hình 8
1.1.1.3. Điều kiện khí tượng thủy văn 8
1.1.2. Đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội 10
1.1.2.1. Dân số, lao động và phân bố dân cư 10
1.1.2.2. Các hoạt động kinh tế - xã hội 12
1.2. Tổng quan về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và nguồn vốn thiên nhiên 17
1.2.1. Kinh tế xanh 17
1.2.2. Khái niệm Tăng trưởng xanh 20
1.2.3. Khái niệm nguồn vốn thiên nhiên 22
1.3. Tình hình thực hiện kinh tế xanh, tăng trưởng xanh gắn với bảo toàn vốn thiên
nhiên 23
1.3.1. Tình hình chung trên thế giới 23
1.3.2. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới 25
1.3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27
1.3.4. Tình hình thực hiện ở Việt Nam 28
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 32
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 32
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 32
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu 32
2.2. Cách tiếp cận trong nghiên cứu 32


2.2.1. Tiếp cận hệ thống 32
2.2.2. Tiếp cận dựa vào hệ sinh thái 32
2.2.3. Tiếp cận tổng hợp, liên ngành 33
2.3. Phương pháp nghiên cứu 34
2.3.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp 34
2.3.2. Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế 34
2.3.4. Phương pháp xử lý số liệu 35
2.3.5. Phương pháp phân tích SWOT 36
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 37
3.1. Đánh giá nguồn vốn thiên nhiên tại quần đảo Cát Bà 37
3.1.1. Các hệ sinh thái tiêu biểu ở quần đảo Cát Bà 37
iii

3.1.2. Thảm thực vật 40
3.1.3. Đa dạng loài 42
3.1.4. Tài nguyên khoáng sản 52
3.1.5. Tài nguyên nước 53
3.1.6. Tài nguyên đất 54
3.1.7. Tài nguyên cảnh quan 55
3.1.8. Các loại tài nguyên khác 56
3.1.9. Đánh giá chung 57
3.2. Hiện trạng khai thác và sử dụng các loại tài nguyên trên quần đảo Cát Bà 59
3.2.1. Hiện trạng khai thác và sử dụng đất 59
3.2.2. Khai thác nguồn lợi trên rừng 61
3.2.3. Khai thác nguồn lợi sinh vật biển 62
3.2.4. Khai thác mặt nước để nuôi trồng thủy sản 64
3.3. Vai trò của kinh tế xanh, tăng trưởng xanh đối với phát triển kinh tế, xã hội quần
đảo Cát Bà 66
3.4. Điểm mạnh, điểu yếu, cơ hội và thách thức trong phát triển nền kinh tế xanh tại quần
đảo Cát Bà 67

3.4.1. Điểm mạnh 67
3.4.2. Điểm yếu 68
3.4.3. Cơ hội 69
3.4.4. Thách thức 70
3.5. Bảo tồn nguồn vốn thiên nhiên gắn với phát triển kinh tế xanh tại quần đảo Cát Bà75
3.5.1. Đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái 75
3.5.2. Phát triển nghề cá bền vững 76
3.5.3. Phát triển kinh tế biển xanh 77
3.5.4. Mô hình phát triển giao thông xanh 78
3.5.5. Giải pháp thực hiện 79
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH 84
PHỤ LỤC 87


iv

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


EU Liên hiệp Châu Âu
GDP Tổng thu nhập quốc nội
HST
Hệ sinh thái
IMF Quỹ Tiền tệ Quốc tế
IUCN International Union for Conservation of Nature and Natural
Resources (Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế)
MCD
Trung tâm bảo tồn sinh vật biển và phát triển cộng đồng
NTTS Nuôi trồng thủy sản

OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
R&D Research and Development (Nghiên cứu và phát triển)
RSH Rạn san hô
RNM Rừng ngập mặn
SĐVN Sách đỏ Việt Nam
UNEP United Nations Environmental Program
(Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc)
UN-ESCAP United Nations Economic and Social Commission for Asia
and the Pacific (Ủy ban Kinh tế - Xã hội khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương của Liên hiệp quốc)
UBND
Ủy ban nhân dân
VQG Vườn quốc gia
WB Ngân hàng thế giới

v

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình dân số các xã, thị trấn khu vực đảo Cát Bà (2011) 10
Bảng 1.2. Cơ cấu dân số và lao động khu vực đảo Cát Bà (2011) 11
Bảng 1.3. Tỷ trọng các nhóm ngành kinh tế năm 2003 và 2013 12
Bảng 1.4. Thống kê lượng khách du lịch đến Cát Bà 16
Bảng 1.5. So sánh nền kinh tế xanh và kinh tế nâu 20
Bảng 3.1. Đa dạng loài sinh vật quần đảo Cát Bà 42
Bảng 3.2. Thành phần thực vật Quần đảo Cát Bà 43
Bảng 3.3. Thành phần loài động vật tại quần đảo Cát Bà 45
Bảng 3.4. Số lượng loài Voọc từ năm 1998 đến nay 45
Bảng 3.5. Cấu trúc thành phần thực vật phù du Cát Bà 48
Bảng 3.6. Cấu trúc thành phần động vật phù du Cát Bà 49
Bảng 3.7. Cấu trúc thành phần loài động vật đáy vùng biển Cát Bà 49

Bảng 3.8. Tổng hợp nguồn vốn thiên nhiên ở Cát Bà 57
Bảng 3.9. Một số dịch vụ hệ sinh thái của nguồn vốn thiên nhiên ở Cát Bà 58
Bảng 3.10. Thống kê diện tích các loại sử dụng đất trong khu vực 59
Bảng 3.11. Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp tại Cát Bà 60
Bảng 3.12. Các loài hải sản người dân thường khai thác 62
Bảng 3.13. Sản lượng khai thác thủy sản huyện Cát Hải 62
Bảng 3.14. Diện tích nước mặt NTTS huyện Cát Hải 65
Bảng 3.15. Sản lượng NTTS của huyện Cát Hải 65
Bảng 3.16. Tổng hợp điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của quần đảo
Cát Bà trong phát triển nền kinh tế xanh………………………………………… 74


vi

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1.Sơ đồ vị trí quần đảo Cát Bà – Hải Phòng 4
Hình 1.2. Cơ cấu lao động trong các ngành nghề của huyện Cát Hải 11
Hình 1.3. Hình ảnh đàn dê ở xã Trân Châu 13
Hình 1.4. Ba yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường trong nền kinh tế truyền thống 19
Hình 1.5. Ba yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường trong nền kinh tế xanh 19
Hình 3.1. Rừng ngập mặn ven biển xã Xuân Đám, Cát Bà 38
Hình 3.2. Hồ nước mặn Áng Vẹm, Cát Bà 40
Hình 3.3: Phân bố Voọc Đầu trắng Cát Bà 46
Hình 3.4. Khu vực xây dựng hồ chứa nước xã Trân Châu 54
Hình 3.5. Cơ cấu sử dụng đất tại Cát Bà 60


1



MỞ ĐẦU
Những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 Thế giới đã chứng kiến nhiều biến
động về kinh tế, chính trị cũng như trên nhiều phương diện khác của đời sống xã
hội. Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu cho thấy những mâu
thuẫn, rủi ro và các tác động tiêu cực khó lường của toàn cầu hóa trong thế kỷ 21.
Phát triển kinh tế xanh (green economy) trong bối cảnh phát triển bền vững và
biến đổi khí hậu toàn cầu đang được một số quốc gia ưu tiên lựa chọn nhằm giải
quyết thực trạng trên. Tăng trưởng xanh (green growth) là cách thức để đạt được
mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nhưng đồng thời vẫn bảo vệ được môi trường, ngăn
chặn suy giảm đa dạng sinh học và giảm thiểu việc sử dụng không bền vững tài
nguyên thiên nhiên. Hiện nay, tăng trưởng xanh được xác định là trọng tâm chính
sách phát triển quốc gia của nhiều nước trên Thế giới để đạt được sự phát triển bền
vững. Trong đó, đáng chú ý là các quốc gia như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đức, Anh,
Hoa Kỳ đã đi tiên phong trong việc thúc đẩy tăng trưởng xanh với nhiều nội dung
quan trọng thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế xanh [26,27].
Nằm trong khu vực phát triển năng động nhất thế giới, Việt Nam đang hội tụ
những điều kiện thuận lợi từ điều kiện tự nhiên, xã hội đến chủ trương, chính sách
để tiến hành phát triển nền kinh tế xanh. Nước ta có nhiều lợi thế so sánh về tài
nguyên thiên nhiên, tiềm năng dự trữ sinh thái, tiềm năng phát triển năng lượng tái
tạo, năng lượng sinh học, sinh khối từ gỗ, phụ phẩm công nghiệp, môi trường chính
trị xã hội ổn định, quan hệ quốc tế mở rộng,… Tuy nhiên, con đường tiến tới “nền
kinh tế xanh” của Việt Nam đang đối diện với nhiều thách thức và chưa bắt kịp với
xu thế chung của Thế giới [21].
Hiện nay, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo
hướng hiệu quả và bền vững hơn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu.
Đây là cơ hội lớn để nước ta có thể hướng đến kinh tế xanh, tăng trưởng xanh.
Chính vì thế, ngày 25 tháng 9 năm 2012 Chính phủ đã ban hành Quyết định số
1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh [4]. Theo đó,
Chiến lược yêu cầu: “Tăng trưởng xanh dựa trên tăng cường đầu tư vào bảo tồn,

phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính,
cải thiện nâng cao chất lượng môi trường qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế”.
Chiến lược cũng đề ra mục tiêu chung là: “Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế
cac-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển
kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở
2

thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội”. Hiện nay,
các ngành và các địa phương cả nước đang triển khai thực hiện Chiến lược này và
việc đánh giá đúng thực trạng nguồn vốn thiên nhiên (natural asset/capital) là một
trong những hành động phải ưu tiên phục vụ cho tăng trưởng xanh và xây dựng,
phát triển kinh tế xanh ở nước ta trong thời gian tới.
Quần đảo Cát Bà là quần thể gồm 367 đảo đá vôi, trong đó đảo Cát Bà có diện
tích lớn nhất và là một trong ba đảo có diện tích lớn nhất, nhưng là đảo đá vôi lớn
duy nhất ở nước ta. Nơi đây chứa đựng tiềm năng bảo tồn thiên nhiên rất lớn (nguồn
vốn thiên nhiên) với nhiều giá trị quốc gia và toàn cầu. Năm 1989, Chính phủ quyết
định thành lập Vườn Quốc gia trên đảo Cát Bà, năm 2004 UNESCO công nhận là
khu dự trữ sinh quyển Thế giới, năm 2010 Chính phủ quyết định thành lập Khu bảo
tồn biển ở vùng biển đông nam đảo Cát Bà, năm 2012 Chính phủ trình UNESCO
xem xét công nhận Quần đảo Cát Bà - Long Châu là Di sản thiên nhiên thế giới
(thẩm định không được vì lý do pháp lý) và còn có các giá trị của một Công viên
Địa chất (GeoPark).
Với tiềm năng và thế mạnh như vậy, Cát Bà đã trở thành trung tâm du lịch
biển và trung tâm nghề cá nổi tiếng ở nước ta. Cơ sở hạ tầng ở đây khá phát triển
với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền, di chỉ văn hóa –
khảo cổ, cảnh đẹp tự nhiên huyền ảo, khí hậu trong lành, nhiều bãi biển nhỏ đẹp và
những khu rừng nguyên sinh, bên cạnh các cảng bến tấp nập tàu thuyền và người
qua lại.
Cùng với xu hướng phát triển kinh tế xanh, tăng trưởng xanh của cả nước, việc
khai thác và phát triển quần đảo Cát Bà theo hướng tăng trưởng xanh đang là mối

quan tâm của Đảng và Chính phủ, của lãnh đạo thành phố Hải Phòng nói chung và
người dân huyện đảo Cát Hải nói riêng. Kết luận số 72 của Bộ Chính trị (2013) đã
yêu cầu xây dựng Hải Phòng trở thành một “Thành phố Cảng xanh” ở nước ta,
trong đó Cát Bà là một trong những “điểm nhấn” tiềm năng. Nguồn vốn thiên nhiên
phong phú và to lớn là vậy, nhưng Cát Bà cũng đang và sẽ phải đối mặt với không ít
thách thức, khó khăn đe dọa đến mục tiêu tăng trưởng xanh và xây dựng một
“Thành phố Cảng xanh”.
Từ những lý do trên, việc ‘‘Nghiên cứu, đánh giá nguồn vốn thiên nhiên ở
quần đảo Cát Bà, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng phục vụ phát triển kinh tế
xanh, tăng trưởng xanh” là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối
với Hải Phòng, góp phần nhỏ bé vào việc khai thác và phát triển bền vững quần đảo
Cát Bà.
3

Mục tiêu chung của luận văn là: Góp phần tăng cường nhận thức về “Nguồn
vốn thiên nhiên” và vai trò của nó đối với tăng trưởng xanh, kinh tế xanh và thành
phố cảng xanh ở Việt Nam.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể là:
- Đánh giá thực trạng nguồn vốn thiên nhiên ở quần đảo Cát Bà liên quan đến
kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và xây dựng một thành phố cảng xanh.
- Phân tích vai trò và các thách thức, khó khăn trong khai thác, sử dụng nguồn
vốn thiên nhiên này ở quần đảo Cát Bà phục vụ tăng trưởng xanh và xây dựng một
thành phố cảng xanh.
- Đề xuất các biện pháp bảo toàn và phát huy nguồn vốn thiên nhiên ở vùng nghiên
cứu.
Luận văn được bố cục thành 3 chương, không kể mở đầu, kết luận, kiến nghị,
tài liệu tham khảo và phụ lục gồm:
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu





1.1. Khái quát về khu v

Quần đả
o Cát Bà là qu
Bắc -
Tây Nam, trong đó đ
diện tích lớn nhấ
t, nhưng là đ
nằm ở vùng Đông Bắ
c Vi
Nội khoảng 150km về
phía Đông Nam. Qu
Long, cách thành phố H

Cát Hải, huyện Cát Hả
i, thành ph
Phòng khoảng 30km về
phía Đông.
Quần đả
o Cát Bà có v
- Vỹ độ bắc:
20° 35' 57.9"
- Kinh độ đ
ông: 106° 53' 55"
- Toạ độ
trung tâm là: 20° 44' 24'' v

Hình 1.1.
Về mặ
t hành chính, qu
huyện đảo của thành ph

1.1.1. Điều kiện tự
nhiên qu
1.1.1.1. Đặc điểm
đ
Quần đảo Cát Bà
đư
a) Hệ tầng Phổ
Hàn, tu
4
Chương 1. TỔNG QUAN

c nghiên cứu
o Cát Bà là qu
ần thể gồm 367 đả
o đá vôi kéo dài theo hư
Tây Nam, trong đó đ
ảo Cát Bà có diện tích lớn nhất và là mộ
t trong ba đ
t, nhưng là đ
ảo đá vôi lớn duy nhất ở nướ
c ta. Qu
c Vi
ệt Nam, trực thuộc thành phố Hả
i Phòng, cách th
phía Đông Nam. Qu

ần đảo Cát Bà nằm ở
phía nam v

Long khoảng 25km về
phía Đông Nam. Phía Tây giáp đ
i, thành ph
ố Hải Phòng và các
h trung tâm thành ph
phía Đông.
Phía Đông và phía Nam là biể
n Đông
o Cát Bà có v
ị trí địa lý:
20° 35' 57.9"
- 20° 52' 48"
ông: 106° 53' 55"
- 107° 12' 55"
trung tâm là: 20° 44' 24'' v
ỹ độ bắc, 107° 3' 25" kinh đ

Hình 1.1.
Sơ đồ vị trí quần đảo Cát Bà – Hải Phòng

t hành chính, qu
ần đảo này thuộc huyện đảo Cát Hải
-

Hải Phòng.
nhiên qu
ần đảo Cát Bà

đ
ịa chất – địa mạo [1,16]
đư
ợc cấu thành bởi các hệ tầng địa chất sau:
Hàn, tu
ổi Devon muộn - Carbon sớm (D
3
- C
1
ph)
o đá vôi kéo dài theo hư
ớng Đông
t trong ba đ
ảo có
c ta. Qu
ần đảo Cát Bà
i Phòng, cách th
ủ đô Hà
phía nam v
ịnh Hạ
phía Đông Nam. Phía Tây giáp đ
ảo
h trung tâm thành ph
ố Hải
n Đông
[19].

đông.



-
một trong hai
ph)

5

Hệ tầng Phổ Hàn gồm chủ yếu các thành tạo trầm tích carbonate chứa hoá
thạch Trùng lỗ, San hô và Tay cuộn. Các thành tạo của hệ tầng này có mặt ở Cát Bà
với 3 phụ hệ tầng, tổng bề dày 400m - 650m.
- Phụ hệ tầng dưới (D
3
- C
1
ph1) gồm các đá vôi phân lớp dày, xen đá vôi dạng
khối, màu xám và xám đen.
- Phụ hệ tầng giữa (D
3
- C
1
ph2) gồm các đá vôi phân lớp màu đen, đá vôi silic,
sét vôi phân dải, đá silic dạng thấu kính màu đen, phân phiến. Thành phần canxit
của đá vôi đạt tới 97 - 98%, sét hữu cơ 2 - 3%, tương tự của đá vôi silic là 65 - 68% và
30 - 38%.
- Phụ hệ tầng trên (D
3
- C
1
ph3) gồm các đá sét bột kết màu xám, đá silic màu
xám, xám đen, đá vôi phân dải màu đen.
Tại Cát Bà, các đá của hệ tầng Phổ Hàn lộ ở khu vực Việt Hải, Xuân Đám và

phía Tây nam đảo.
b) Hệ tầng Cát Bà, tuổi Carbon sớm (C
1
cb)
Hệ tầng Cát Bà gồm các thành tạo trầm tích carbonate nguồn gốc hoá học và
sinh vật, chứa phong phú hoá thạch Trùng lỗ, San hô, Tay Cuộn và Huệ biển. Hệ
tầng Cát Bà có bề dày vào khoảng 400m - 450m và phân biệt thành 2 phụ hệ tầng:
- Phụ hệ tầng dưới (C
1
cb1) dày khoảng 200m, gồm đá vôi phân lớp từ mỏng
đến dầy, màu xám đen và đen, xen các lớp mỏng silic và sét vôi, phân lớp dày 0,2 -
1,0m. Thành phần khoáng vật canxi tới 96 - 100%, thạch anh và plagioclar tới 1-2% và
sét tới 2- 3%.
- Phụ hệ tầng trên (C
1
cb2) dày khoảng 250m, gồm các đá vôi đồng nhất, xen
đá vôi giả dạng trứng cá, màu đen và xám, phân lớp từ trung bình đến dày. Thành
phần khoáng vật canxit tới 98-100%, còn lại là thạch anh. Có nơi đá vôi bị dolomit
hoá với khoáng vật dolomit đạt tới 50%.
c)Hệ tầng Quang Hanh, tuổi Carbon muộn - Perm (C
2
- Pqh)
Hệ tầng Quang Hanh có bề dày lớn, khoảng 750m và phân biệt thành 2 phụ hệ tầng:
- Phụ hệ tầng dưới dày khoảng 400m, gồm các đá vôi phân lớp dày đến dạng
khối, màu xám sáng. Thành phần canxit của đá đạt tới 100%, nhưng đôi chỗ bị
dolomit hoá với lượng oxyt mạnh đạt tới 19%.
- Phụ hệ tầng trên dày khoảng 350m, gồm các đá vôi phân lớp dày đến dạng
khối, có xen các lớp mỏng đá vôi silic, đá silic vôi ở phần thấp và đá vôi có cấu tạo
6


giả dạng trứng cá ở phần cao. Thành phần canxit của đá đạt tới 99 - 100%, thành
phần thạch anh có thể tới 1%.
d) Các thành tạo Đệ tứ (Q)
Thành tạo Đệ tứ gồm các trầm tích bở rời đa nguồn gốc, phân bố rộng rãi trên
đảo và đáy biển xung quanh. Trầm tích Đệ tứ cổ nhất bắt gặp có tuổi Pleistocen
muộn và thứ tự trẻ dần như sau:
- Hệ tầng Vĩnh Phúc, tuổi Pleistocen muộn (Q
III
2
vp): Hệ tầng Vĩnh Phúc gồm
các trầm tích nguồn gốc biển, thành phần vụn thô gồm: cuội, sỏi và chủ yếu là sạn,
cát, màu vàng nâu, chứa nhiều mảnh vụn thân mềm và san hô, phân bố ở Ao Cối
(phía Tây đảo Cát Bà) tạo nên thềm biển cao 10m tương đối điển hình. Trầm tích
của hệ tầng còn phổ biến ở thung lũng Trung Trang, hiện là vùng canh tác chủ yếu
của đảo Cát Bà.
- Hệ tầng Hải Hưng, tuổi Holocen sớm - giữa (Q
IV
1-2
hh), gồm các trầm tích
vụn thô nguồn gốc biển, chủ yếu là cát, sạn, sỏi và cuội, chứa phong phú mảnh vụn
san hô và thân mềm và có thể gọi là trầm tích vụn vỏ sinh vật. Trầm tích của hệ tầng phân
bố hạn chế ở Cái Bèo (đông nam Cát Bà) tạo nên thềm biển quy mô nhỏ, cao 4 - 5m.
- Hệ tầng Thái Bình, tuổi Holocen muộn (Q
IV
3
tb)
Phần trầm tích lục địa của hệ tầng này đã được mô tả ở phần trên (trầm tích Đệ
tứ không phân chia trên đảo).
+ Trầm tích bãi: nguồn gốc sóng, phổ biến ở khu vực Cát Bà - Long Châu.
Theo thành phần vật chất và nguồn cung cấp, phân biệt thành 2 loại: Cát thạch anh

lục nguyên, phân bố hạn chế ở Đầu Voi, Đượng Gianh (Phù Long), Xuân Đám,
Hiền Hào, Áng Sỏi và cát vôi vỏ sinh vật được cung cấp chủ yếu từ các rạn san hô,
phân bố phổ biến ở ven bờ vịnh Lan Hạ, tạo nên các bãi nổi tiếng như: bãi Tây
Tắm, Cát Cò I và II, Cát Quyển, Cát Dứa, Cát Cống Quan, v.v. Theo thành phần độ
hạt, cát vôi vỏ sinh vật gồm chủ yếu hạt trung với đường kính trung bình (Md) trong
khoảng 0,299 - 0,389mm ở phần cao của bãi, hạt nhỏ với Md trong khoảng 0,163 -
0,210mm ở phần thấp của bãi. Ở phần cao nhất của bãi có thể gặp cát trung, cát lớn,
sỏi và cuội. Theo thành phần vật chất, vôi vỏ sinh vật có thể đạt từ trên 60 tới trên
90%, mảnh vụn đá vôi từ 2 tới 8,7%, còn lại là thạch anh và một số khoáng vật khác
nhưng hầu như không có mùn thực vật.
+ Trầm tích rạn san hô: là một dạng tích tụ trầm tích sinh vật, chủ yếu từ san
hô rạn, thân mềm, giáp xác, da gai, hải miên, trùng lỗ và tảo vôi. Trầm tích bở rời
trên mặt rạn chủ yếu là các thành phần vỏ vôi hạt thô như cát từ vỏ của nhiều nhóm
7

sinh vật và gravel, cuội, tảng chủ yếu từ san hô cành và dạng khối. Thành phần vật
chất trầm tích chủ yếu là carbonat, thường đạt trên 90%, phần còn lại chủ yếu là
mảnh vụn đá vôi, đá vôi silic. Rạn san hô vừa là dạng tích tụ, vừa là nguồn cung cấp
trầm tích tạo nên các bãi cát vôi liền kề. Trên mặt các rạn san hô chết thường được
phủ bởi lớp mỏng bùn sét.
+ Trầm tích bãi triều: được thành tạo bởi động lực thủy triều, phân bố trong
khoảng 0,0m - 4,3m so với 0m hải đồ, gồm 2 loại: (i) Trầm tích bãi triều thấp, hình
thành dưới mực triều trung bình (2,06m) và bãi triều cao ở phía trên 2,06 m. Trầm
tích bãi triều thấp gồm chủ yếu là cát hạt trung và hạt nhỏ lẫn mảnh vụn vỏ sinh vật,
ít mùn hữu cơ và độ ướt thấp, dưới 30%; (ii) Trầm tích bãi triều cao gồm chủ yếu là
sét, sét bột, lẫn mảnh vụn vỏ sinh vật, chủ yếu là thân mềm, giàu mùn hữu cơ và tàn
tích thực vật ngập mặn, độ ướt cao, có thể tới trên 50%, đặc biệt có tích tụ sulphua
tới 0,4% - 0,6% tổng số. Phần lớn trầm tích bãi triều cao là trầm tích đầm lầy biển
hiện đại, phong phú thực vật ngập mặn, phân bố chủ yếu ở phía tây Cát Bà (Phù
Long), phân bố hạn chế ở phía bắc (Gia Luận), phía tây nam (Xuân Đám, Hiền Hào

và Áng Sỏi). Ở trên mặt, trầm tích này thường có màu nâu hồng, nâu xám và ở dưới
20cm hoặc 60cm là trầm tích màu xám xanh, xám đen, giàu mùn hữu cơ và trầm tích
thực vật ngập mặn và đây cũng là tầng sinh phèn tiềm tàng.
+ Trầm tích doi cát triều, delta triều: Trầm tích này thành tạo do dòng triều rút,
tạo nên các dạng tích tụ ngầm, thường xuất hiện ở vùng cửa Lạch triều lớn như lạch
Cửa Vạn và Lạch Huyện. Thành phần cơ học của trầm tích gồm chủ yếu là cát lẫn
mảnh vụn vỏ sinh vật và gravel.
+ Trầm tích vũng vịnh: Trầm tích này phân bố phổ biến ở vịnh Lan Hạ và các
tùng áng xung quanh. Thành phần cơ học gồm chủ yếu là bùn sét và sét bột, màu
xám và xám đen, độ ướt cao.
+ Trầm tích Đệ tứ không phân chia (Q): Trầm tích Đệ tứ không phân chia trên
đảo Cát Bà gồm deluvi, proluvi và coluvi, thành phần độ hạt từ mịn đến thô và rất
thô (tảng, khối). Các trầm tích này lấp đầy các dạng địa hình karst cổ như: thung
lũng, phễu, hang karst. Nhờ đó thảm thực vật phát triển thành rừng cùng với quá
trình tạo đất feralit vàng đỏ, đặc biệt ở các thung lũng chậm thoát nước.


8

1.1.1.2. Đặc điểm địa hình [1,2,16,19]
Quần đảo Cát Bà có đặc trưng địa hình là núi non hiểm trở, độ cao < 500m, độ
cao từ 50 - 200m chiếm tỷ lệ cao, xu hướng của địa hình là cao ở phía tây bắc và
thấp dần ở phía đông nam.
a) Địa hình karst: là dạng địa hình đặc trưng và phổ biến cho khu vực đá vôi
đảo Cát Bà. Địa hình karst được tạo bởi hoạt động của quá trình karst hóa, sắc nhọn,
hiểm trở hình thành trên đỉnh núi đá vôi tinh khiết. Dạng địa hình hoạt động do rửa
lũa, hoà tan đá vôi của quá trình karst đã tạo nên các hang động karst. Chiều sâu và
độ rộng của hang khá lớn và phân bố trên đảo với một số lượng khá nhiều, như:
động Đá Hoa (Gia Luận), động Trung Trang, hang Quân Y, Dân Y, hang Eo Bùa,
hang Tiền Đức, hang Luồn, Nằm xen kẽ với các núi đá vôi là địa hình thung lũng

karst. Giữa đảo có một thung lũng hẹp chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam đó là
các thung lũng bằng phẳng bao quanh các dãy núi đá vôi, như thung lũng Trung
Trang, Hiền Hào,
b) Địa hình do quá trình biển tạo thành ảnh hưởng trực tiếp của sóng biển và
chế độ thuỷ triều cửa sông. Đó là dạng địa hình ở chân đảo phía Tây, Tây Nam: bãi
bùn với kiểu sinh thái rừng ngập mặn và các bãi cát Cát Dứa, Cát Cò, Cát Ông, có
tiềm năng du lịch.
c) Địa hình trơ sỏi đá: Phía nam đảo là một dải đất diệp thạch độ cao trên dưới
200m ngay sát bờ biển thuộc các xã Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào và thị trấn
Cát Bà. Do bị tàn phá nặng nề nên địa hình ở đây trơ trọc, phần lớn chỉ còn một lớp
cỏ thấp. Do địa hình đá vôi hiểm trở mà khu vực trung tâm đảo còn giữ được một
thảm rừng mưa nhiệt đới thường xanh đặc trưng của miền Bắc Việt Nam, với nhiều
hang động làm nơi trú ẩn và sinh sản của các loài chim thú có giá trị.
d) Địa hình san, xẻ, lấp: do con người tác động tạo thành để phục vụ cho mục
đích du lịch và xây dựng. Ví dụ: xẻ núi làm đường đến bãi tắm Cát Cò, cảng Cái Bèo,
1.1.1.3. Điều kiện khí tượng thủy văn
a) Khí hậu
Cát Bà thuộc vùng ven bờ của thành phố Hải Phòng nằm trong vùng đông bắc
Việt Nam chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa: gió mùa tây nam về mùa
hạ và gió mùa đông bắc về mùa đông. Khí hậu vừa mang đặc điểm chung của đồng
bằng Bắc Bộ, vừa có những đặc điểm vi khí hậu của một đảo đá vôi ven biển, như:
+ Tính chất nhiệt đới: mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 5 - tháng 9) và
mùa đông lạnh ít mưa (từ tháng 11 - tháng 3).
9

+ Tính biến động thường xuyên của thời tiết và khí hậu: mùa đông lạnh nhanh
(chỉ sau 24h nhiệt độ có thể giảm 8
o
C -10
o

C), khi thời tiết rất khô nóng nhiệt độ cao
nhất tuyệt đối lên tới 37
o
C - 40
o
C. Thời tiết nóng, ẩm, dễ có dông, mưa lớn, áp thấp
nhiệt đới bão.
b) Chế độ gió
Khí hậu bị phân hoá thành 2 mùa rõ rệt: mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 9), thời
tiết nóng ẩm (nhiệt độ trung bình thường trên 25
o
C) và mưa nhiều kéo dài (lượng
mưa tháng trên 100mm), thường xuất hiện bão, áp thấp nhiệt đới, dông, …; mùa
đông (từ tháng 11 đến tháng 3), trời rét lạnh (nhiệt độ trung bình dưới 20
o
C), ít mưa
(dưới 100mm). Thời kỳ chuyển tiếp là tháng 4, tháng 10 các khối không khí suy yếu
thời tiết ôn hoà hơn.
Tốc độ gió trung bình năm 2,4m/s, cao nhất vào tháng 7 (3,4m/s) và thấp nhất
vào tháng 1 (1,8m/s). Mùa hè gió mùa đông nam, tốc độ trung bình 2,5m/s - 3,0m/s,
cực đại 20m/s - 30m/s. Mùa đông gió mùa đông bắc, tốc độ trung bình 2,5m/s -
3,0m/s, tốc độ cực đại 20m/s -25m/s trong các đợt gió mùa đông bắc mạnh.
c) Các đặc trưng mưa, bốc hơi và nhiệt độ không khí
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau. Hàng năm có 100 - 150 ngày mưa với tổng lượng mưa trung bình năm
1.806mm, dao động từ khoảng 1.600 - 2.000mm.
- Tổng lượng bốc hơi đạt 700mm - 750mm/năm, xấp xỉ 50% tổng lượng mưa
năm. Các tháng 10 và 11 lượng bốc hơi lớn nhất trong năm, đạt trên 80 mm và các
tháng 2 và 3 lượng bốc hơi thấp, chỉ đạt 30 mm. Lượng bốc hơi cao cùng với tính
chất địa hình karst của đảo có khả năng thoát nước lớn nên tình trạng khô kiệt xảy

ra quanh năm.
- Khu vực chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt đới nên cán cân bức xạ nhiệt luôn
dương và bị phân hoá thành 2 mùa: Mùa hè (tháng 5 đến tháng 9) nóng, nhiệt độ
trung bình trên 25
o
C; Mùa đông (tháng 11 đến tháng 4) lạnh, nhiệt độ trung bình
dưới 20
0
C.
d) Đặc điểm thuỷ văn
Do Cát Bà là quần đảo đá vôi bị karst hóa, vì vậy hệ thống sông suối trên đảo
kém phát triển. Ngoài những dòng suối chính như Thuồng Luồng, Trung Trang,
những dòng chảy tạm thời chỉ xuất hiện trong cơn mưa và ngừng ngay sau khi tạnh
mưa. Vào mùa mưa, nước đọng lại ở những vùng nhỏ, thấm giọt trong các hang
động đây là nguồn nước khá thường xuyên cho động vật trên đảo. Trên một số đảo
10

nhỏ hoặc ven đảo lớn Cát Bà, nơi đứt gãy chạy qua có xuất hiện nước xuất lộ với
dung lượng từ một vài lít đến một vài chục lít mỗi ngày. Nguồn nước xuất lộ lớn
nhất ở suối Thuồng Luồng, có lưu lượng trung bình 5lít/giây, mùa mưa 7,5lít/giây
và mùa khô đạt 2,5lít/giây. Đây là nguồn nước quan trọng cung cấp cho ngư dân
khu bến cá Cát Bà.
Mặc dù là vùng núi đá vôi, nhưng ở đảo Cát Bà có mặt các túi nước ngầm có
nguồn gốc thấm đọng từ nước mưa. Các túi nước, về bản chất là các thung lũng
karst được lấp đầy bằng các trầm tích nguồn gốc từ phong hoá đá gốc tại chỗ và lân
cận. Nguồn nước ao Ếch là hồ nước thiên nhiên trên núi đá vôi, diện tích khoảng
trên 3,6 ha, nước có quanh năm, đạt trên dưới 30cm, nằm giữa khu vực rừng nguyên sinh.
1.1.2. Đánh giá điều kiện kinh tế - xã hội [24,29]
1.1.2.1. Dân số, lao động và phân bố dân cư
a) Dân số

Theo số liệu của Cục Thống kê thành phố Hải Phòng (2011), mức gia tăng dân
số tự nhiên ở khu vực đảo Cát Bà trung bình là 0,68%/năm, thấp hơn so với mức
tăng bình quân hàng năm của thành phố Hải Phòng và cả nước. Dân cư tương đối
ổn định, hiện tượng di cư tự do đến đảo ít. Tổng số dân số năm 2011 là 16.566
người, tỷ lệ nam và nữ trong những năm qua không biến động lớn (Bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tình hình dân số các xã, thị trấn khu vực đảo Cát Bà (2011)
Đơn vị: người
TT Xã Tổng số hộ

Số khẩu
Tỷ lệ sinh
(%)
Tỷ lệ chết
(%)
Tỷ lệ tăng
tự nhiên (%)
1 Gia Luận 77 580 1,67 0,34 1,33
2 Phù Long 576 2064 1,22 0,58 0,64
3 Hiền Hào 123 354 0,42 0,28 0,14
4 Xuân Đám 254 851 1,88 1,08 0,8
5 Trân Châu 440 1563 1,79 0,7 1,09
6 Việt Hải 68 210 0,95 0,95 0
7 T.T Cát Bà 4013 10944 1,37 0,59 0,78
Tổng 5.551 16.566 TB: 0,68 %
(Nguồn: UBND các xã, thị trấn Cát Bà năm 2011)
b) Dân cư
Dân cư phân bố không đồng đều, cao nhất ở Thị trấn Cát Bà là 593,9
người/km
2
, thấp nhất là xã Việt Hải với 6,24 người/km

2
. Mật độ bình quân 160,1
người/km
2
, thấp hơn so với mật độ bình quân của huyện Cát Hải (207 người/km
2
).
11

Thành phần dân tộc chủ yếu là người kinh, sống tập trung ở khu vực có vị trí thuận lợi
cho các hoạt động sinh sống.
c) Cơ cấu lao động
Tỷ lệ lao động nam và nữ không biến động nhiều trong những năm qua, cơ cấu
dân số và lao động được phản ánh chi tiết ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Cơ cấu dân số và lao động khu vực đảo Cát Bà (2011)
Đơn vị: Người
TT Xã
Số khẩu Số lao động
Tổng Nam Nữ Tổng Nam Nữ
1 Gia Luận 580 271 309 266 124 142
2 Phù Long 2064 1061 1003 950 489 461
3 Hiền Hào 354 174 180 162 80 82
4 Xuân Đám 851 415 436 392 192 200
5 Trân Châu 1563 795 768 718 365 353
6 Việt Hải 210 102 108 97 43 54
7 T.T Cát Bà 10944 5360 5584 5034 2466 2568
Tổng 16.566 8178 8388 7619 3759 3860
Tỷ lệ % 100 49,4 50,6 100 49,3 50,7

(Nguồn: UBND các xã, thị trấn Cát Bà năm 2011

)

Trong năm 2011 tỷ lệ lao động nữ chiếm 50,7%, lao động nam chiếm 49,3%
.Tỷ lệ lao động được đào tạo của huyện Cát Hải tăng chậm trong thời kỳ 2004 -
2011. Công tác đào tạo, dạy nghề được chú trọng hơn trước nhưng tỷ lệ lao động
qua đào tạo của huyện vẫn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của toàn thành phố
Hải Phòng. Năm 2011 đạt khoảng 16,5% so với tỷ lệ 35% của toàn thành phố Hải
Phòng và 25,5% của cả nước. Nếu tính thêm số lượng lao động có kỹ năng thông
qua tự đào tạo (nhưng không có chứng chỉ chuyên môn) thì tỷ lệ có thể đạt 18%.



Hình 1.2. Cơ cấu lao động trong các ngành nghề của huyện Cát Hải
21.1%
30.5%
14.3%
12.1 %
22%
Nông lâm nghiệp
Thủy sản
Dịch vụ và du
lịch
Nghề khác
Công nghiệp
12

Lao động nông - lâm nghiệp chiếm 21,1%, thuỷ sản 30,5%, công nghiệp 22%,
dịch vụ du lịch 14,3%, nghề khác 12,1%. Như vậy lao động trong ngành thuỷ sản là
cao nhất.
1.1.2.2. Các hoạt động kinh tế - xã hội

Theo báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 16-NQ/TU của Ban
Thường vụ thành ủy Hải Phòng về xây dựng và phát triển huyện Cát Hải đến 2020
[24], kinh tế huyện Cát Hải đã có bước phát triển nhanh và toàn diện trên các lĩnh
vực. Tổng giá trị sản xuất năm 2013 đạt 869,66 tỉ đồng, bằng 352% so với năm
2003 (247,1 tỉ đồng). Tốc độ tăng giá trị sản xuất trung bình đạt 13,4%/năm. Cơ cấu
kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ và
giảm dần tỷ trọng nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất
(Bảng 1.3).
Bảng 1.3. Tỷ trọng các nhóm ngành kinh tế năm 2003 và 2013
STT Nhóm ngành Tỷ trọng (%) năm 2003 Tỷ trọng (%) năm 2013
1 Dịch vụ 51 68,4
2 Công nghiệp - xây dựng 20 16,8
3 Nông – lâm - thủy sản 29 14,8
(Nguồn [24])
Tiềm năng và lợi thế của địa phương được phát huy và khai thác có hiệu quả,
đặc biệt là du lịch - dịch vụ đã có bước phát triển khá nhanh và bền vững, là động
lực thúc đẩy các lĩnh vực kinh tế khác cùng phát triển.
a) Nông nghiệp:
Diện tích đất nông nghiệp nhỏ không quá 200 ha, ngành sản xuất nông nghiệp
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế của huyện (trên toàn huyện chỉ chiếm 1,5%
tổng giá trị sản xuất và 2,3% GDP huyện). Sản phẩm chủ yếu là lúa, ngô, khoai,
sắn, đậu, lạc, rau xanh, hoa quả tươi và chăn nuôi gia súc gia cầm các loại. Các mô
hình canh tác vườn đồi và chăn nuôi ngày càng trở nên phổ biến và mang lại hiệu
quả tương đối cao, tập trung vào các loài cây, con có sản lượng và giá trị kinh tế
cao, phục vụ nhu cầu tại chỗ, nhất là phục vụ nhu cầu của khách du lịch.
Trồng trọt:
Những năm qua giá trị sản xuất ngành trồng trọt trên địa bàn luôn tăng với
mức tăng trưởng trung bình. Từ năm 2001- đến nay, sản lượng trồng trọt tăng
4,7%/năm. Cây lúa có năng suất khá thấp, bình quân toàn khu vực Cát Bà chỉ đạt
3,5 tấn/ha (năm 2011), 6 tháng đầu năm 2014 diện tích gieo cấy lúa Đông Xuân đạt

11,7 ha với sản lượng đạt 62 tấn [7]. Nguyên nhân do hệ thống thuỷ lợi yếu kém
13

nên việc dẫn nước còn rất hạn chế và chưa điều tiết được nguồn nước, các nguồn
suối chỉ đáp ứng được cho canh tác khoảng 1/3 diện tích đất nông nghiệp.
Cây màu (ngô, khoai, sắn, đậu, lạc) tổng diện tích 61 ha với sản lượng đạt
133.3 tấn cũng đã góp phần tăng thêm lương thực và thu nhập cho các hộ dân trong
vùng. Rau xanh được trồng chủ yếu ở Trân Châu, Xuân Đám, Việt Hải với diện tích
là 20 ha, sản lượng 31,2 tấn. Hiện tại sản lượng rau xanh vẫn chưa đáp ứng đủ nhu
cầu tiêu thụ rau ngày càng tăng trên đảo.
Cây ăn quả khu vực đảo Cát Bà có tổng sản lượng là 444,7 tấn /năm với diện
tích trồng là 239,7 ha (không kể diện tích cây vải của VQG Cát Bà). Ngoài ra còn
một số diện tích trồng cây ăn quả khác như na, mít, táo, dứa, … xen kẽ trên đất thổ
cư. Đặc biệt, cây cam được trồng ở xã Gia Luận nơi có điều kiện đất đai phù hợp,
có nguồn gen tốt, được người dân địa phương thừa nhận như một “thương hiệu” có
uy tín trong vùng.
Chăn nuôi:
Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi trên địa bàn huyện tăng trưởng bình quân
4,75%. Hoạt động chăn nuôi không chỉ mang lại thu nhập mà còn phục vụ sinh hoạt
trong gia đình và tạo ra phân bón cho nông nghiệp.
Nghề nuôi ong trên địa bàn hiện nay tương đối phát triển với số lượng lên đến
2.201 đàn và sản lượng đạt 8.056 lít (với giá mật ong nuôi hiện tại từ 100 - 200 ngàn
đồng /lít) đã mang lại hiệu quả kinh tế khá cao so với trồng lúa và cây màu các loại.
Xã Trân Châu có phong trào chăn nuôi dê phát triển, dê là đối tượng nuôi
chính, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Thịt dê là món ăn đặc sản của du khách và
người địa phương, giá bán từ 200.000 - 250.000 đ/kg. Hiện xã Trân Châu có 35 hộ
nuôi dê với trên 1.200 con, chiếm 40% tổng đàn dê của huyện Cát Hải (3.000 con),
1/9 tổng đàn dê thành phố (10.000 con). Dê được nuôi theo phương thức chăn thả,
nguồn thức ăn từ tự nhiên.


Hình 1.3. Hình ảnh đàn dê ở xã Trân Châu
14

Bên cạnh đó người dân cũng đã tập trung đầu tư nuôi gia cầm (28.111 con),
lợn (6.383 con), trâu, bò (187 con). Việc tăng sản lượng gia súc, gia cầm, ong
không chỉ mang lại nguồn lợi lớn về kinh tế mà còn giúp phát triển loại hình du lịch
ẩm thực, rất đặc trưng của khu vực núi đá – hải đảo [24].
b) Lâm nghiệp:
Do diện tích rừng trên đảo Cát Bà phần lớn thuộc diện tích quản lý của Ban
Quản lý VQG, nên diện tích đất lâm nghiệp thuộc địa bàn các xã vùng đệm không
nhiều. Đến nay, Hạt kiểm lâm huyện phối hợp với Hạt kiểm lâm VQG đã chỉ đạo
thực hiện một số việc như: trồng rừng tập trung, trồng rừng phân tán, chăm sóc
rừng, tu bổ rừng. Từ năm 2000 đến năm 2011, trên địa bàn vùng đệm người dân địa
phương đã được giao 3.375 ha đất lâm nghiệp, bao gồm 3.243 ha đất rừng trồng và
132 ha rừng tự nhiên [17].
c) Kinh tế thuỷ sản [18]:
Giá trị sản xuất thuỷ sản trong 6 tháng đầu năm 2014 đạt 340.800 triệu đồng.
Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản đạt 4.582 tấn, trong đó khai thác
thuỷ sản đạt 1.822 tấn và nuôi trồng thuỷ sản đạt 2.760 tấn.
Khai thác thuỷ sản
Nghề khai thác cá biển có truyền thống khá lâu đời ở Cát Bà, hoạt động khai
thác của người dân diễn ra thường xuyên, quanh năm và chia thành hai khu vực chính:
- Khai thác gần bờ: chủ yếu tập trung quanh khu vực Bến Bèo gần khu vực
lồng bè.
- Khai thác xa bờ: tập trung ở khu vực đảo Long Châu, Nam Định, Hòn Gai.
Hiện nay huyện Cát Hải có 228 tàu khai thác thủy sản với sản lượng khai thác
3.713 tấn tôm, cá các loại (năm 2011). Đối với tàu đánh cá xa bờ, ngư trường khai
thác chủ yếu vùng khơi xa. Các tàu nhỏ thường khai thác ở vùng biển từ Bạch Long Vỹ
đến Long Châu.
Nuôi trồng thuỷ sản

Những năm qua mặc dù diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) trên địa bàn
không thay đổi lớn, nhưng sản lượng nuôi trồng lại tăng lên rất lớn. Trong đó,
NTTS được thực hiện dưới hai hình thức là nuôi cá lồng bè và nuôi đầm hồ.
Xã Phù Long có diện tích NTTS lớn nhất với nhiều hình thức nuôi trồng ven
bờ như: nuôi ngao, đầm nuôi tôm tự nhiên, đầm quảng canh trong rừng ngập
mặn,… Hai xã Xuân Đám và Hiền Hào cũng có một số bãi nuôi ngao với diện tích
15

không lớn lắm. Nuôi cá lồng bè phổ biến ở các khu vực vịnh kín thuộc thị trấn Cát
Bà, xã Việt Hải, Gia Luận.
NTTS trong khu vực có sản lượng tăng nhanh với một số loài đặc sản có giá
trị kinh tế cao trong xuất khẩu như Tu Hài, Cá Song, Cá Hồng, Cá Thác, Cá Vược.
Hiện nay chính quyền địa phương đang tiếp tục quy hoạch, sắp xếp, bố trí hợp lý
nghề nuôi cá lồng bè, nuôi tôm đầm và công tác vệ sinh môi trường ở các khu vực
nuôi tốt hơn. Sản lượng NTTS bình quân đạt 4.018 tấn/năm. Sản phẩm NTTS từng
bước đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và dịch vụ du lịch.
Chế biến thủy sản
Chủ yếu tập trung phát triển sản xuất nước mắm. Tính đến nay, trên địa bàn
huyện có 3 doanh nghiệp và gần 100 hộ tham gia sản xuất nước mắm. Sản lượng
sản xuất nước mắm bình quân đạt trên 4 triệu lít/năm. Giá trị tổng sản lượng sản
xuất nước mắm tăng cao, do được chú trọng đầu tư cải tiến công nghệ sản xuất để
nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và mở rộng thị trường. Hàng năm,
sản lượng sản xuất mắm tôm khô đạt 70 tấn, thuỷ sản khô đạt 150 tấn, sứa đạt 950
tấn, chả cá, chả mực đạt 15 tấn.
Dịch vụ hậu cần thủy sản
Tập trung đáp ứng nhu cầu dịch vụ hỗ trợ cho nghề khai thác và NTTS trên
địa bàn huyện. Cảng dịch vụ hậu cần thuỷ sản tại thị trấn Cát Bà cùng các cơ sở tư
nhân đã làm tốt các dịch vụ như: sửa chữa tàu thuyền, cung cấp xăng dầu, máy móc
thiết bị, nước đá, nước ngọt, thu mua, bao tiêu sản phẩm.
Ngoài Cảng cá tại thị trấn Cát Bà, trên địa bàn huyện còn có các bến cá quy

mô nhỏ tại các xã, thị trấn để đáp ứng dịch vụ cho các phương tiện khai thác ven bờ
của ngư dân. Hiện nay, huyện Cát Hải đang tích cực phối hợp đẩy nhanh tiến độ
thực hiện dự án xây dựng Trung Tâm dịch vụ Hậu cần và Phát triển thuỷ sản tại
thôn Bến – xã Trân Châu với tổng diện tích các hạng mục công trình gần 33 ha.
d) Thương mại, du lịch
Du lịch là hoạt động kinh tế lớn nhất và phát triển nhất ở Cát Bà, ngày càng
thu hút được nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Năm 2012, Cát Bà đã thu hút
được 1.335.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 274.000 lượt người (Bảng
1.4). Tổng doanh thu từ du lịch năm 2012 đạt 590 tỷ đồng.




16

Bảng 1.4. Thống kê lượng khách du lịch đến Cát Bà
Đơn vị: nghìn người
Năm 2003 2006 2007 2010 2012
Lượng khách 250 >500 729 >1000 1.335
(Nguồn: [19])
Trong 6 tháng đầu năm 2014 tổng số lượt khách du lịch đến Cát Bà đạt
683.000 lượt người. Trong đó khách quốc tế đạt 148.300 lượt, khách nội địa đạt
534.700 lượt. Doanh thu du lịch - dịch vụ đạt 289,3 tỷ đồng.
Hiện nay trên địa bàn huyện có 170 khách sạn và nhà nghỉ, trong đó có 1
khách sạn 4 sao, 3 khách sạn 3 sao, 17 khách sạn 2 sao, 13 khách sạn 1 sao; 55 nhà
hàng phục vụ ăn uống (gồm 11 nhà hàng bè nổi); có 68 xe ô tô, 78 tàu tham gia hoạt
động du lịch-dịch vụ.
Các loại hình du lịch phát triển khá đa dạng như: du lịch sinh thái rừng - biển -
đảo, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch lễ hội, du lịch nghiên cứu khoa học, Từ năm 2009
đến nay, doanh thu từ du lịch mỗi năm của huyện Cát Hải bình quân tăng

174%/năm. Du lịch phát triển tạo ra nhiều việc làm và thu nhập ổn định cho hàng
nghìn lao động địa phương và thúc đẩy các dịch vụ đi theo khác phát triển. Công tác
quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch thường xuyên được quan tâm và đẩy mạnh
thông qua các hoạt động khai mạc du lịch Cát Bà hàng năm, kỷ niệm Ngày Nghề cá
Việt Nam (1/4) và trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương.
Thương mại: Tổng mức luân chuyển hàng hóa bán lẻ đạt 324 tỷ đồng. Hàng
hóa thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và du khách được bảo đảm,
giá cả hàng hóa ổn định. Tổ chức thành công hàng năm các hoạt động hỗ trợ du
lịch, ví dụ: Hội chợ triển lãm Thương mại - Du lịch - Thủy sản Cát Bà năm 2014;
Liên hoan ẩm thực Cát Bà lần thứ II năm 2014, hưởng ứng Lễ hội Hoa Phượng Đỏ
lần thứ III. Ngoài ra, các nghề dịch vụ trên biển như: buôn bán cá mối, buôn bán
hàng ăn, nước sinh hoạt, thu mua hải sản cũng rất phát triển mang lại nguồn thu
nhập khá lớn cho người dân, thu nhập bình quân từ các nghề ngày khoảng 7 - 10
triệu đồng/tháng.
e) Giáo dục, y tế
Sự nghiệp giáo dục – đào tạo tiếp tục được quan tâm và phát triển, cơ sở vật
chất, thiết bị phục vụ cho dạy học đã được trang bị tốt hơn. Hiện tại số lượng học
sinh trong độ tuổi đi học được đến trường ở cấp tiểu học và trung học phổ thông đạt
100%. Số lượng học sinh thi tốt nghiệp qua các kỳ thi đạt 100% ở bậc trung học cơ
sở và bậc trung học phổ thông đạt 99,7%.
17

Các xã đã có trạm y tế xã riêng, mỗi trạm có từ 3 đến 7 cán bộ y tế. Ngoài ra,
trên địa bàn huyện có một Trung tâm y tế huyện đóng tại thị trấn Cát Bà và một số
cơ sở y tế tư nhân chăm sóc sức khoẻ, khám và chữa bệnh cho nhân dân. Các
chương trình y tế quốc gia được triển khai và thực hiện tốt, tình trạng vệ sinh an
toàn thực phẩm được cải thiện, các dịch bệnh lớn được kiểm soát tương đối hiệu quả.
h) Thông tin –văn hoá
Trên địa bàn đảo Cát Bà có một Trung tâm bưu điện đóng tại Thị trấn Cát Bà,
ở mỗi xã đều có điểm bưu điện văn hoá xã riêng. Các điểm bưu điện đều đáp ứng

tốt nhu cầu thông tin liên lạc, phát hành báo chí ở địa phương. Hệ thống internet có ở
hầu hết các khách sạn của thị trấn Cát Bà, nhưng chưa phổ biến đến các xã vùng sâu,
vùng xa.
i) Giao thông
- Đường bộ: Các đường giao thông trên đảo được tu sửa và mở mới. Đường
giao thông qua các xã, thị trấn đều là đường nhựa hoặc bê tông, đặc biệt đã hoàn
thành con đường nhựa xuyên đảo nối với thị trấn Cát Hải qua phà Cái Viềng. Đây là
con đường huyết mạch của đảo nối với đất liền. Ngoài ra, còn có một số đường dân
sinh đi trong nội bộ từng xã, đường mòn du lịch sinh thái khá thuận tiện. Các tuyến
đường quốc lộ đang được tiến hành xây dựng nhằm đảm bảo tốt giao thông giữa Cát
Bà với đất liền.
- Đường thuỷ: Xuất phát từ đảo Cát Bà đi các nơi có hai tuyến đường thuỷ
chính: tuyến Cát Bà – Cát Hải – Hải Phòng dài 55km và tuyến Cát Bà – Hòn Gai
(Quảng Ninh) dài 35km. Giao thông thuỷ là một lợi thế của khu vực đảo Cát Bà
nhưng cho đến nay chưa được khai thác nhiều.
- Cảng, bến: Đảo Cát Bà hiện có một cầu cảng (bến tàu khách hiện tại ở thị
trấn Cát Bà) và ba bến (bến Bèo, bến phà Cái Viềng, bến Gia Luận) phục vụ cho
giao thông thuỷ nội huyện và từ huyện đi Hải Phòng và Quảng Ninh.
1.2. Tổng quan về kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và nguồn vốn thiên nhiên
1.2.1. Kinh tế xanh
a) Khái niệm
Trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với nhiều cuộc khủng hoảng, trong
đó có khủng hoảng về khí hậu và đa dạng sinh học (gia tăng khí thải nhà kính và
mất cân bằng sinh thái),… và suy thoái kinh tế toàn cầu, thì mô hình kinh tế cũ chủ
yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch và tăng trưởng nhanh mà không quan tâm đến vấn
18

đề môi trường và xã hội không còn phù hợp [21]. Vì vậy thế giới phải tìm ra một
mô hình kinh tế mới, một phương thức phát triển mới vừa giúp tăng trưởng kinh tế,
vừa đảm bảo chất lượng môi trường và giảm nguy cơ mất cân bằng sinh thái, đảm

bảo sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững và không làm gia tăng mất cân
bằng trong xã hội [23].
Từ năm 2008, trong chiến lược phát triển kinh tế, nhiều tổ chức quốc tế như
Liên hiệp quốc, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Liên hiệp Châu Âu
(EU), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), , cũng như các quốc
gia có nền kinh tế phát triển, đã triển khai và thúc đẩy các dự án xanh và coi đây là
một trong những giải pháp giúp thoát khỏi tình trạng suy thoái tài nguyên và môi
trường hiện nay [25].
Năm 2008, Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) đã đề xuất ý
tưởng kinh tế xanh (green economy) và định nghĩa là “nền kinh tế vừa mang lại
hạnh phúc cho con người và công bằng xã hội, vừa giảm thiểu đáng kể các rủi ro về
môi trường và khủng hoảng sinh thái” [27]. Như vậy, thực chất kinh tế xanh là một
nền kinh tế phát thải ít cacbon, tăng trưởng theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên, thân thiện với môi trường, đổi mới công nghệ và tăng trưởng bền vững,
tạo ra việc làm và công bằng xã hội, hướng vào cải thiện sinh kế của người dân [11].
Kinh tế xanh cùng với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường là ba trụ cột của
phát triển bền vững và là sự lựa chọn tốt nhất cho phát triển bền vững ở các quốc
gia. Phát triển kinh tế không còn là mục tiêu duy nhất mà còn phải quan tâm đến ổn
định xã hội, bảo vệ môi trường toàn cầu.
Như vậy, khác với nền kinh tế truyền thống (kinh tế nâu) lấy phát triển là
trọng tâm của quá trình tăng trưởng thì kinh tế xanh tập trung phát triển cả ba trụ
cột: phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường nhằm phát triển một
cách toàn diện và bền vững cuộc sống con người trong một mối quan hệ chặt chẽ
(Hình 1.4, 1.5).
19


Hình 1.4. Ba yếu tố kinh tế, xã hội, môi
trường trong nền kinh tế truyền thống
Hình 1.5. Ba yếu tố kinh tế, xã hội, môi

trường trong nền kinh tế xanh
Kinh tế xanh phải là nền kinh tế với con người là trung tâm, trong đó các
chính sách tạo ra các nguồn lực mới về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng.
Thúc đẩy nền kinh tế xanh và cải tổ quản lý môi trường là hai nhân tố căn bản đảm
bảo tiến trình phát triển bền vững của mỗi nước nói riêng và trên phạm vi toàn cầu
nói chung.
Kinh tế xanh không thay thế phát triển bền vững mà là một chiến lược kinh tế
để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Các quốc gia phát triển trên thế giới
như Mỹ, Đức, Hàn Quốc, đã đầu tư hàng trăm tỷ USD cho chính sách kinh tế
xanh, coi đó là cách đầu tư tốt nhất đối với phát triển bền vững của quốc gia. Nói
cách khác, mục đích của các quốc gia khi chuyển đổi sang nền kinh tế xanh là cho
phép tăng trưởng kinh tế và phát triển các nguồn đầu tư, trong khi vẫn đảm bảo
được chất lượng môi trường tự nhiên và xã hội [11,25].
b) Các chỉ số đo lường kinh tế xanh
Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế được tính theo GDP. Tuy nhiên, GDP chỉ
phản ánh tổng sản phẩm đầu ra của nền kinh tế mà không tính đến phí tổn về môi
trường, trong khi đó quá trình tăng trưởng kinh tế không bền vững cũng đồng thời
tăng sử dụng tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường và suy giảm sinh thái.
Để đo lường kinh tế xanh cần có hệ thống thống kê đánh giá rõ ràng và chính
xác phí tổn môi trường bên cạnh các hoạt động kinh tế. Một loạt các chỉ số có thể
giúp đo lường các quá trình chuyển đổi hướng tới một nền kinh tế xanh. UNEP đã
phối hợp với OECD và WB [26,27,28] xây dựng một bộ chỉ số để các chính phủ có
thể lựa chọn các chỉ số phù hợp với tình hình của từng quốc gia với ba nhóm chính sau:
20

Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỷ lệ đầu tư, tỷ lệ sản lượng và việc làm trong các
lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững, chẳng hạn như GDP xanh;
Các chỉ số môi trường: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô nhiễm ở mức
độ ngành hoặc toàn nền kinh tế (hệ số sử dụng năng lượng/GDP, hệ số sử dụng
nước/GDP);

Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội: chỉ số tổng hợp về kinh tế vĩ
mô, bao gồm ngân sách quốc gia về kinh tế và môi trường, hoặc những chỉ số đem
lại cái nhìn toàn diện hơn về phúc lợi,…
Đánh giá:
Từ những phân tích trên dễ dàng thấy được nền kinh tế xanh có nhiều ưu điểm
nổi bật như trong nền kinh tế xanh vấn đề sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn vốn
thiên nhiên được quan tâm, phát triển phải đi đôi với bảo vệ môi trường, cải thiện
cuộc sống người dân,… Bên cạnh những ưu điểm nổi bật như vậy, nền kinh tế xanh
cũng có những nhược điểm như: thời gian đầu khi thực hiện kinh tế xanh thì sự tăng
trưởng có thể sẽ chậm, khó thực hiện vì cần phải làm nhiều việc cùng một lúc từ sử
dụng hiệu quả tiết kiệm tài nguyên, xóa đói giảm nghèo, đầu tư cho bảo tồn và phát
triển, giảm thiểu phát thải khí nhà kính,… Để hướng tới lựa chọn phát triển kinh tế
xanh tại Cát Bà học viên đã lựa chọn một số tiêu chí so sánh giữa nền kinh tế xanh
và nền kinh tế nâu nhằm làm nổi bật lên ưu điểm của nền kinh tế xanh (bảng 1.5).
Bảng 1.5. So sánh nền kinh tế xanh và kinh tế nâu
Kinh tế nâu Kinh tế xanh
- Phát triển là trọng tâm - Phát triển đồng thời kinh tế - ổn định xã
hội – bảo vệ môi trường
- Khai thác và sử dụng nhiều năng
lượng hóa thạch
- Khai thác và sử dụng năng lượng tái tạo,
sử dụng công nghệ cac-bon thấp
- Khai thác và sử dụng cạn kiệt tài
nguyên đặc biệt là tài nguyên không tái
tạo, đa dạng sinh học suy giảm…
- Hướng tới sử dụng hợp lý và bảo tồn
nguồn tài nguyên
- Gia tăng ô nhiễm môi trường (Gia tăng
khí hiệu ứng nhà kính, thải nhiều chất
thải vào môi trường…)

- Bảo vệ môi trường (giảm phát thải khí
nhà kính, hạn chế lượng chất thải thải ra
môi trường…)
- Phát triển không bền vững - Hướng tới phát triển bền vững
1.2.2. Khái niệm Tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh và chiến lược tăng trưởng xanh đã được đề cập nhiều trong
thời gian gần đây. Tuy nhiên, đến nay chưa có một nhận thức đầy đủ và thống nhất
về tăng trưởng xanh. Có quan niệm cho rằng tăng trưởng xanh gần đồng nghĩa với

×