Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Kỹ năng tư duy cần thiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.69 KB, 11 trang )

Kỹ năng tư duy !!!
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực
nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm ra các
phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt
khả năng sáng tạo và để tăng cường khả năng
tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng
đồng làm việc chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của
bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương
án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các vấn
đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ
thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội,
nghệ thuật hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một danh từ khác được
giáo sư Edward De Bono (1933 -) sử dụng để chỉ ngành nghiên cứu này
và được dùng rất phổ biến là Tư duy định hướng.
Một số phương pháp tư duy sáng tạo đã và đang được triển khai thành
các lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức xã hội, chính
trị, chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cá nhân hay
tập thể. Ở các trường trung học của các nước phát triển, một số phương
pháp quan trọng như tập kích não, giản đồ ý cũng đã được áp dụng cho
học sinh biết cách áp dụng dưới dạng thô sơ; đồng thời cũng đã có nhiều
cơ sở giáo dục tư thục giảng dạy các chuyên đề về phương pháp tư duy
sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi.
Đặc điểm
Các bộ môn được xem là công cụ của ngành này bao gồm: Tâm lý học,
giáo dục học, luận lý học (hay logic học), giải phẫu học, và các tiến bộ
về y học trong lĩnh vực nghiên cứu não.

Không có khuôn mẫu tuyệt đối: Cho đến nay vẫn không có phương
pháp vạn năng nào để khơi dậy khả năng tư duy và các tiềm năng khổng
lồ ẩn chứa trong mỗi con người. Tùy theo đặc tính của đối tượng làm
việc và môi trường tại chỗ mà mỗi cá nhân hay tập thể có thể tìm thấy


các phương pháp riêng thích hợp.

Không cần đến các trang bị đắt tiền: Cho đến nay, các phương pháp
tư duy sáng tạo chủ yếu vẫn là các cách thức tổ chức lề lối suy nghĩ có
hướng và các dụng cụ sử dụng rất đơn giản chủ yếu là giấy, bút, phấn,
bảng, lời nói, đôi khi là màu sắc, máy chiếu hình, từ điển Một số phần
mềm đã xuất hiện trên thị trường để giúp đẩy nhanh hơn quá trình hoạt
động sáng tạo và làm việc tập thể có tổ chức và hiệu quả hơn. Song, tại
một số trường học vẫn có thể tiến hành giảng dạy bộ môn này bằng
những cuộc thảo luận chuyên đề hỗ trợ không tốn kém.
Cuối cùng, khoa này cũng không giới hạn tầm nghiên cứu của nó cho
việc ứng dụng thành tựu mới của y học về não bộ và tin học và điều đó
vẫn còn bỏ ngỏ cho các nhà nghiên cứu.

Không phức tạp trong thực nghiệm: Thực nghiệm của hầu hết các
phưong pháp tư duy sáng tạo hiện nay rất đơn giản. Nếu cần quá trình
đào tạo cấp tốc có thể từ 1 buổi cho tới dưới 1 tuần cho người học. Đa số
các phương pháp đã đưọc ghi sẵn ra từng bước như là những thuật toán.
Điều kiện cho người thực hiện chỉ là sự hiểu biết và có khả năng tư duy
cũng như đôi khi cần đến sự hỗ trợ của các kho dữ liệu về kiến thức
chuyên môn mà vấn đề đặt ra có liên quan hay đề cập tới.

Hiệu quả cao: Các phương pháp tư duy sáng tạo, nếu sử dụng đúng chỗ
đúng lúc đều mang lại lợi ích rất cao, nhiều giải pháp được đưa ra chỉ
nhờ vào phương pháp tập kích não. Các phương pháp khác cũng đã hỗ
trợ rất nhiều cho các nhà phát minh, nhất là trong lĩnh vực kỹ thuật hay
công nghệ.

Giảm thiểu được áp lực quá tải của lượng thông tin: bằng các
phưong án tư duy có định hướng thì một hệ quả tất yếu là người nghiên

cứu sẽ chọn lựa một cách tối ưu những dữ liệu cần thiết, do đó tránh các
cảm giác lúng túng, mơ hồ, hay lạc lõng trong rừng rậm của thông tin.
Các phương pháp thông dụng
Các phương pháp sử dụng trong ngành này còn đang được khám phá. Số
lượng phương pháp đã được phát minh có đến hàng trăm. Nội dung các
phương pháp áp dụng có hiệu quả bao gồm:
Tập kích não: Đây là một phương pháp dùng để phát triển nhiều giải
đáp sáng tạo cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách tập
trung sự suy nghĩ vào vấn đề đó; các ý niệm và hình ảnh về vấn đề trước
hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và ngẫu nhiên theo dòng tư
tưởng, càng nhiều thì càng đủ và càng tốt, rồi vấn đề được xem xét từ
nhiều khía cạnh và nhiều cách (nhìn) khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ
được phân nhóm, đánh giá và tổng hợp thành các giải pháp cho vấn đề
đã nêu.

Thu thập ngẫu nhiên: là kĩ thuật cho phép liên kết một kiểu tư duy mới
với kiểu tư duy đang được sử dụng. Cùng với sự có mặt của kiểu tư duy
mới này thì tất cả các kinh nghiệm sẵn có cũng sẽ được nối vào với
nhau. Phương pháp này rất hữu ích khi cần những ý kiến sáng rõ hay
những tầm nhìn mới trong quá trình giải quyết một vấn đề. Đây là
phương pháp có thể dùng bổ sung thêm cho quá trình tập kích não.

Nới rộng khái niệm: là một cách để tìm ra các tiếp cận mới về một vấn
đề khi mà tất cả các phương án giải quyết đương thời không còn dùng
được. Phương pháp này triển khai nguyên tắc "lui một bước" để nới rộng
tầm nhìn về vấn đề.

Kích hoạt: Tác động chính của phương pháp này là để tư tưởng được
thoát ra khỏi các nền nếp kiến thức cũ mà đã từng được dùng để giải
quyết vấn đề. Chúng ta tư duy bằng cách nhận thức và trừu tượng hóa

thành các kiểu rồi tạo phản ứng lại chúng. Các phản ứng đối đáp này dựa
trên kinh nghiệm trong quá khứ và sự hữu lý của các kinh nghiệm này.
Tư tưởng của chúng ta thường ít vượt qua hoặc đứng bên ngoài của các
kiểu mẫu cũ. Trong khi chúng ta có thể tìm ra câu trả lời như là một
"kiểu khác" của vấn đề, thì cấu trúc não bộ sẽ gây khó khăn cho chúng ta
để liên kết các lời giải này. Phương pháp kích hoạt sẽ làm nảy sinh các
hướng giải quyết mới.

Lục mạo tư duy (six thinking hats): là một kĩ thuật được nhằm giúp
các cá thể có được nhiều cái nhìn về một đối tượng, những cái nhìn này
sẽ khác nhiều so với một người thông thường có thể thấy được. Đây là
một khuôn mẫu cho sự tư duy và nó có thể kết hợp thành lối suy nghĩ
định hướng. Trong phương pháp này thì các phán xét có giá trị sẽ có chỗ
đứng riêng của chúng, nhưng các phê phán đó sẽ không được phép
thống trị như là thường thấy trong lối suy nghĩ thông thường. Phương
pháp này được dùng chủ yếu là để kích thích lối suy nghĩ song song,
toàn diện và tách riêng cá tính (như là bản ngã, các thành kiến, ) với
chất lượng.

Phương pháp tư duy sáng tạo Giản đồ ý là phương cách rất hữu hiệu để
ghi nhớ một sự kiện hay hệ thống phức tạp.
Ghi chú trên hình 1.CPU, 2.Bộ nhớ, 3.BUS, 4.Các bộ điều khiển I/O,
5.Bộ điều khiển video 6.Cổng nối tiếp, 7.USB, 8.Ổ diã, 9. Ổ CD,
10.Màn hình, 11.NIC, 12.Cổng song song, 13.Bàn phím, 14.Chuột,
15.Máy in, 16.Mạng, 17.Máy quét hình, 18.Máy chụp hình số, 19.Máy
phóng hình

DOIT: là phương pháp để gói gọn, hay kết hợp, các phương pháp tư duy
sáng tạo lại với nhau và dẫn ra các phương pháp về sự xác định ý nghĩa
và đánh giá của vấn đề. DOIT giúp tìm ra kỹ thuật sáng tạo nào là tốt

nhất. Chữ DOIT là chữ viết tắt trong tiếng Anh bao gồm
D - Define problem nghĩa là Xác định vấn đề
O - Open mind and Apply creative techniques tức là Cởi mở ý tưởng và
Áp dụng các kỹ thuật sáng tạo
I - Identify the best solution là Xác định lời giải đáp tốt nhất
T- Transform là Chuyển đổi
Đơn vận: Đây là phương pháp mạnh giải quyết vấn đề bằng cách đem
nó vào sự vận chuyển đơn nhất. Phương pháp này thích hợp để giải
quyết những vấn đề trong môi trường kỹ nghệ sản xuất. Nó đưa phương
pháp DOIT lên một mức độ tinh tế hơn. Thay vì nhìn sự sáng tạo như là
một quá trình tuyến tính thì cái nhìn của đơn vận đưa quá trình này vào
một vòng khép kín không đứt đoạn. Nghĩa là sự hoàn tất cùng với sự
thực hiện tạo thành một chu kì dẫn tới chu kì mới nâng cao hơn của sự
sáng tạo.
Giản đồ ý: phương pháp này là một phương tiện mạnh để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Nó có thể dùng như một cách để ghi
nhớ chi tiết, để tổng hợp hay để phân tích một vấn đề thành một dạng
của lược đồ phân nhánh. Phương pháp này củng cố thêm khả năng liên
lạc, liên hệ các dữ kiện với nhau cũng như nâng cao khả năng nhớ theo
chuỗi dữ kiện xảy ra theo thời gian. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể
của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng được
liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được
ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Tương tự hoá: xem vấn đề như là một đối tượng. So sánh đối tượng này
với một đối tượng khác, có thể là bất kì, thường là những bộ phận hữu
cơ của tự nhiên. Viết xuống tất cả những sự tương đồng của hai đối
tượng, các tính chất về vật lý, hoá học, hình dạng, màu sắc cũng như là
chức năng và hoạt động. Sau đó, xem xét sâu hơn sự tương đồng của cả
hai, xem có gì khác nhau và qua đó tìm thấy được những ý mới cho vấn
đề.

Tương tự hoá cưỡng bức: là một cách mở rộng tầm nhìn hay bóp méo
những kiến thức hiện hữu để tạo ra những sáng kiến mới.
Tư duy tổng hợp: là một quá trình phát hiện ra các mối liên hệ làm
thống nhất các bộ phận mà tưởng chừng như là tách biệt. Đây là phương
thức ghép đặt các sự kiện lại với nhau để mở ra một tầm nhìn mới cho
tất cả các loại vấn đề. Phương pháp này không chỉ dùng trong nghiên
cứu khoa học mà còn trong nhiều lĩnh vực khác như nghệ thuật, sáng
tác hay ngay cả trong lĩnh vực sử dụng tài hùng biện như chính trị,
luật
Đảo lộn vấn đề (reversal): Đây là một phương pháp cổ điển được áp
dụng triệt để về nhiều mặt trên một vấn đề nhằm tìm ra các thuộc tính
chưa được thấy rõ và khả dĩ biến đổi được đối tượng cho phù hợp hơn.
Cụ thể hoá và Tổng quát hoá
TRIZ: (Viết tắt từ Nga ngữ Teoriya Resheniya Izobreatatelskikh
Zadatch (Теория решения изобретательских задач), Anh ngữ: the
Theory of Inventive Problem Solving) tức là Lý thuyết giải quyết sáng
tạo cho vấn đề. Đây là lý thuyết sáng tạo được thống kê và tổng hợp
thành 40 gợi ý khác nhau và được ghi ra cụ thể cho người áp dụng tùy
theo tình huống của vấn đề.
Nhiều phương pháp trình bày trên đây vẫn còn được những người phát
minh ra chúng giữ độc quyền trong việc đào tạo và in ấn các tài liệu
giáo khoa.
Tổng hợp

×