Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Ý nghĩa của dạy học Tập đọc ở tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.17 KB, 60 trang )

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
PHẦN I : MỞ ĐẦU
I.Nhiệm vụ của dạy học tập đọc ở tiểu học
1. Đọc là gì?
Để xác định được nhiệm vụ của dạy đọc cần làm rõ “Đọc là gì?”. Trong thực tế
dạy đọc, người ta thường hay phiến diện và cực đoan, không hiểu khái niệm “đọc”
một cách đấy đủ. Nhiều khi người ta thường nói đến đọc như nói đến việc sử dụng bộ
mã chữ - âm, cho rằng đọc là nhìn chữ phát ra thành lời, nghĩa là đã đọc thì phải thành
tiếng. Vì vậy họ đánh giá một giờ dạy chỉ dựa vào một căn cứ duy nhất : đếm xem có
bao nhiêu em được đứng dậy đọc. Ngược lại, có người lại quan niệm đọc chỉ là để
hiểu những nghĩa lý những gì được đọc, tức là tìm hiểu bài. Vì vậy, thầy - trò sa vào
hỏi đáp về văn bản, sa vào bình giá mà không chịu đọc chính văn bản đó.
Có nhiều định nghĩa về đọc và mỗi định nghĩa thường nhấn mạnh những khía
cạnh khác nhau của đọc. Trong cuốn “Sổ tay thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng
Nga” (1988), Viện sỹ M.R.Lơvôp đã định nghĩa : “Đọc là một dạng hoạt động ngôn
ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó
(ứng với hình thức đọc thành tiếng), là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết
thành các đơn vị nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm)”. Đây là một định
nghĩa rất phù hợp với dạy học Tập đọc ở tiểu học. Định nghĩa này thể hiện một quan
điểm đầy đủ về đọc, xem đó là một quá trình giải mã bậc hai : chữ viết → âm thanh và
chữ viết (âm thanh) → nghĩa. Như vậy, đọc không chỉ là “đánh vần”, phát âm thành
tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết, cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả
năng thông hiểu những gì được đọc. Đó chính là một sự tổng hợp của cả hai quá trình
này.
2. Ý nghĩa của dạy học Tập đọc ở tiểu học
Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu
tiên đối với mỗi người đi học. Đầu tiên, trẻ em phải học đọc, sau đó các em phải đọc
để học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dung trong giao tiếp và
học tập. Đọc là một công cụ để học tập các môn học. Đọc tạo ra hứng thú và động cơ
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
1


Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
học tập. Đọc tạo điều kiện để học sinh có khă năng tự học và tinh thần học tập cả đời.
Nó là khả năng không thể thiếu được của con người thời đại văn minh. Chính vì vậy,
trường tiểu học có nhiệm vụ dạy đọc cho học sinh một cách có kế hoạch và có hệ
thống. Tập đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt ở tiểu học có nhiệm
vụ đáp ứng yêu cầu này – đó là hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
3. Nhiệm vụ của dạy học Tập đọc ở tiểu học
Phân môn Học vần (thực hiện nhiệm vụ dạy học chữ) cũng thực hiện nhiệm vụ
dạy đọc nhưng mới dạy đọc ở mức sơ bộ nhằm giúp học sinh sử dụng bộ mã chữ - âm.
Hết lớp 1, học sinh có nhiệm vụ phải đọc trơn tiếng (âm tiết). Việc đọc trơn các từ,
ngữ đoạn, câu chưa trở thành yêu cầu bắt buộc. Việc thông hiểu văn bản chỉ đặt ra ở
mức độ thấp và chưa có hình thức chuyển thẳng từ chữ sang nghĩa (đọc thầm). Như
vậy, Tập đọc với tư cách là một phân môn Tiếng Việt tiếp tục những thành tựu dạy
học mà Học vần đạt được, năng lên đầy đủ, hoàn chỉnh hơn.
Tính đa nghĩa của đọc kéo theo tính đa nghĩa của “biết đọc”. “Biết đọc” được
hiểu theo nhiều mức độ. Một em bé mới đi học, biết đánh vần “cờ - o - co”, ngập
ngừng đọc từng tiếng một, thế cũng gọi là đã biết đọc. Đọc, thâu tóm được tư tưởng
của một cuốn sách trong vài ba trang cũng là biết đọc. Chọn trong biển sách báo của
nhân loại những gì mình cần, trong một ngày nắm được tinh thần của hàng chục cuốn
sách cũng gọi là biết đọc. Những năng lực này không phải tự nhiên mà có. Không thể
chờ đợi gặt hái những gì mà ta không gieo trồng. Nhà trường phải từng bước hình
thành và trường tiểu học nhận nhiệm vụ đặt viên gạch đầu tiên.
3.1. Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình
thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kỹ năng bộ phận
cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc : đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, trôi
chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình đọc hay còn gọi là
đọc hiểu) và đọc hay (mà ở mức độ cao hơn là đọc diễn cảm). Cần phải hiểu kỹ năng
đọc có nhiều mức độ, nhiều tầng bậc khác nhau. Đầu tiên đọc là giải mã chữ - âm một
cách sơ bộ. Tiếp theo, đọc là phải hiểu nghĩa của từ, tìm được các từ chìa khóa, câu
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

2
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
“chìa khóa” (câu trọng yếu, câu chốt) trong bài, biết tóm tắt nội dung của đoạn ; với
những bài văn, biết phát hiện ra những yếu tố “văn” và đánh giá được giá trị của
chúng trong việc biểu đạt nội dung. Như vậy, lúc này biết đọc đồng nghĩa với việc có
kỹ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được văn bản (bài khóa) ở các tầng bậc khác
nhau : nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các phương tiện biểu đạt.
Bốn kỹ năng của đọc được hình thành trong hai hình thức đọc : đọc thành
tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện
một trong những kỹ năng này sẽ có tác động tích cực đến những kỹ năng khác. Ví dụ,
đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản.
Ngược lại, nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và đọc diễn
cảm được. Cũng như khó mà nói ra được con gà đẻ ra quả trứng hay quả trứng nở ra
con gà, nhiều khi, khó mà nói được rạch ròi kỹ năng nào làm cơ sở cho kỹ năng nào,
nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì vậy,
trong dạy đọc, không thể xem nhẹ kỹ năng nào cũng như không thể tách rời chúng.
3.2. Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành phương
pháp và thói quen làm việc với sách cho học sinh. Làm cho sách vở là một sự tôn sùng
ngự trị trong nhà trường, đó là một trong những điều kiện để trường học thực sự trở
thành trung tâm văn hóa. Nói cách khác, thông qua việc dạy học phải làm cho học
sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích lợi cho các em trong cả cuộc
đời. phải làm cho học sinh thấy đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho
mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển.
3.3. Vì việc học không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên cạnh những
nhiệm vụ rèn kỹ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc còn có nhiệm
vụ làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho học sinh. Đọc
một cách có ý thức sẽ tác động tích cực tới ngôn ngữ và tư duy của người đọc. Việc
dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái
đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách logic cũng như biết tư duy có hình ảnh…
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

3
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Dạy đọc không chỉ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn giáo dục tính cách , thị hiếu
thẩm mỹ cho học sinh.
Như vậy, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn vì nó có cả các nhiệm vụ giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển.
II.Các cơ sở khoa học để tổ chức dạy học tập đọc ở tiểu học
Phương pháp dạy học Tập đọc phải dựa trên những cơ sở khoa học. Nó phải
dựa vào những kết quả nghiên cứu của ngôn ngữ học, văn học, sư phạm học, tâm lý
ngữ học để xây dựng, xác lập nội dung và phương pháp dạy học. Bốn phẩm chất của
đọc và cách thức tạo ra chúng không tách rời các cơ sở khoa học này. Thuộc ngôn ngữ
học là vấn đề về chính âm, chữ viết, ngữ điệu (thuộc ngữ âm học) ; vấn đề nghĩa của
từ, câu, đoạn, bài (thuộc từ vựng học, ngữ nghĩa học) ; vấn đề dấu câu, các kiểu câu…
(thuộc ngữ pháp học) ; vấn đề lý thuyết giao tiếp và tiếp nhận văn bản (thuộc dụng
học). Các cơ sở văn học sẽ giúp cho việc đọc hiểu văn bản văn chương. Những hiểu
biết về lý thuyết dạy học hiện đại và cơ chế của đọc sẽ giúp chúng ta tổ chức dạy học
Tập đọc một cách có hiệu quả.
Vai trò quyết định chất lượng dạy học chính là ở giáo viên. Nguyên nhân quan
trọng nhất làm cho chất lượng dạy Tập đọc chưa tốt cũng chính là ở những hạn chế
của giáo viên. Nhìn chung, hiện nay giáo viên của chúng ta vẫn còn thiếu hụt các kỹ
năng đọc, vì vậy không làm chủ được các nội dung dạy học Tập đọc. Nhiều giáo viên
đọc không đúng chính âm, đọc không hay, hiểu không đúng những điều được đọc từ
cấp độ từ đến câu, đoạn và cả nội dung, đích thông báo của toàn văn bản. Nhiều giáo
viên cảm thụ văn học còn yếu. Giáo viên cũng bị thiếu hụt các kỹ năng dạy học Tập
đọc, không làm chủ được các phương pháp, thủ pháp dạy học Tập đọc ở tiểu học.
Nhiều giáo viên không biết chữa các lỗi phát âm cho học sinh, không có biện pháp
luyện cho học sinh đọc to, đọc nhanh, đọc diễn cảm, cũng như không biết một cách
nào khác để tổ chức hoạt động “chiếm lĩnh” nội dung văn bản được đọc ngoài cách
nói ra những điều mình hiểu biết, cảm nhận về tác phẩm. Sau đây, chúng ta đi vào
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

4
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
nghiên cứu các cơ sở cũng như những căn cứ của dạy học đọc, xác định những kiến
thức và kỹ năng người giáo viên cần có để tổ chức dạy học đọc ở tiểu học.
1.Cơ chế của đọc
Để tổ chức dạy đọc cho học sinh, chúng ta cần hiểu rõ quá trình đọc đã diễn ra
như thế nào và bản chất của kỹ năng đọc là gì. Cơ chế của đọc là cơ sở của việc dạy
đọc vì nó sẽ giúp chúng ta xác định mục đích, nội dung của quá trình đọc, cũng như
xác định mục đích, nội dung của quá trình dạy học đọc.
Đọc là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức âm thanh để người
đọc, người nghe hiểu được những điều mà tác giả nói qua chữ viết.
Đọc là hoạt động trí tuệ phức tạp mà cơ sở là việc tiếp nhận thông tin bằng chữ viết
dựa vào hoạt động của cơ quan thị giác. Chúng ta đi vào xem xét đặc điểm của quá
trình này.
Đọc được xem như là một hoạt động có hai mặt quan hệ mật thiết với nhau, là
việc sử dụng bộ mã gồm hai phương diện. Thứ nhất, đó là quá trình vận động của mắt,
sử dụng bộ mã chữ - âm để phát ra một cách trung thành những dòng văn tự ghi lại lời
nói âm thanh. Quá trình này gọi là quá trình đọc thành tiếng. Thứ hai, đó là sự vận
động của tư tưởng, tình cảm, sử dụng bộ mã chữ - nghĩa, tức là mối lien hệ giứa các
con chữ và ý tưởng, các khái niệm chứa đựng bên trong để nhớ và hiểu được nội dung
những gì được đọc. Quá trình này gọi là quá trình đọc hiểu.
Mục đích của đọc thành tiếng là chuyển đổi chính xác và ngày càng nhanh các
ký hiệu văn tự thành các ký hiệu âm thanh. Vì vậy, chất lượng của đọc thành tiếng
trước hết được đo bằng hai phẩm chất : đọc đúng, đọc nhanh (lưu loát, trôi chảy). Đó
cũng chính là hai kỹ năng đầu tiên của đọc. Khi đọc hiểu, mục đích của người đọc là
làm rõ nghĩa các ký tự, làm rõ nội dung và đích thông báo của văn bản. Lúc này quá
trình đọc không chỉ là sự vân động của cơ quan thị giác và cơ quan phát âm mà còn là
sự vận động của trí tuệ. Vì vậy, đọc có ý thức là một yêu cầu quan trọng của đọc, trở
thành một kỹ năng của đọc. Ở đây ta gọi là kỹ năng đọc hiểu.
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

5
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Giao tiếp có hai bình diện : tiếp nhận và sản sinh. Đọc hiểu là tiếp nhận, đọc
cho mình. Đọc thành tiếng khác đọc hiểu ở chỗ nó không chỉ là hoạt động tiếp nhận
nhằm cho mình mà còn là hoạt động nhằm làm cho người khác cũng tiếp nhận được
văn bản giống mình. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc đã tham gia vào quá trình
tái sinh văn bản. Lúc này anh ta còn có nhiệm vụ truyền cảm xúc của văn bản mà
mình đã tiếp nhận được đến người nghe. Chính vì vậy, diễn cảm (có người gọi là
truyền cảm) là một phẩm chất cần có của đọc thành tiếng và trở thành một yêu cầu của
kỹ năng đọc.
Như vậy, đọc bao gồm những yếu tố như tiếp nhận bằng mắt, hoạt động của các
cơ quan phát âm, các cơ quan thính giác và thông hiểu những gì được đọc. Càng ngày
những yếu tố này càng gần với nhau hơn, tác động đến nhau nhiều hơn. Nhiệm vụ
cuối cùng của sự phát triển kỹ năng đọc là đạt đến sự tổng hợp giữa những mặt riêng
lẻ này của quá trình đọc, đó là điểm phân biệt người mới biết đọc với người đọc thành
thạo. Càng có khả năng tổng hợp các mặt trên bao nhiêu thì việc đọc càng hoàn thiện,
chính xác và biểu cảm bấy nhiêu.
Dễ dàng nhận thấy rằng thuật ngữ “đọc” được sử dụng trong nhiều nghĩa : theo
nghĩa hẹp, việc hình thành kỹ năng đọc trùng với nắm kỹ thuật đọc (tức là việc chuyển
dạng thức chữ viết của từ thành âm thanh) ; theo nghĩa rộng, đọc được hiểu là kỹ thuật
đọc cộng với sự thông hiểu điều được đọc (không chỉ hiểu nghĩa của những từ riêng lẻ
mà cả câu, cả bài). Ý nghĩa hai mặt của thuật ngữ “đọc” được ghi nhận trong các tài
liệu tâm lý học và phương pháp dạy học. Từ đây, chúng ta sẽ hiểu đọc với nghĩa thứ
hai – đọc được xem như là một hoạt động lời nói trong đó có các thành tố :
●Tiếp nhận dạng thức chữ viết của từ.
●Chuyển dạng thức chữ viết thành âm thanh, nghĩa là phát âm các từ theo từng
chữ cái (đánh vần) hay là đọc trơn từng tiếng tùy thuộc vào trình độ nắm kỹ thuật đọc.
●Thông hiểu những gì được đọc (từ, cụm từ, câu, bài).
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
6

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
b. Kỹ năng đọc là một kỹ năng phức tạp, đòi hỏi một quá trình luyện tập lâu dài.
T.G.Egôrôp (dần theo TLTK 35 ; tr. 101) chia việc hình thành kỹ năng này ra làm 3
giai đoạn :
●Phân tích.
●Tổng hợp (còn gọi là giai đoạn phát sinh, hình thành một cấu trúc chỉnh thể
của hành động).
●Giai đoạn tự động hóa.
Giai đoạn dạy học vần (lớp 1) là sự phân tích các chữ cái và đọc từng tiếng theo
phát âm. Giai đoạn tổng hợp thì đọc thành cả từ trọn vẹn, trong đó sự tiếp nhận “từ”
bằng thị giác và phát âm hầu như trùng với nhận thức ý nghĩa. Tiếp theo, sự thông
hiểu ý nghĩa của “từ” trong cụm từ hoặc câu đi trước sự phát âm, tức là đọc được thực
hiện trong sự đoán các nghĩa. Bước sang lớp 2, lóp 3, học sinh bắt đầu đọc tổng hợp.
Trong những năm cuối cấp, đọc ngày càng tự động hóa, nghĩa là người đọc ngày càng
ít quan tâm đến chính quá trình đọc mà chú ý nhiều đến việc chiếm lĩnh văn bản (bài
khóa) : nội dung các sự kiện, cấu trúc, chủ đề, các phương tiện biểu đạt của nó.
Thời gian gần đây, người ta đã chú trọng hơn đến những mối quan hệ quy định
lẫn nhau của việc hình thành kỹ năng đọc và hình thành kỹ năng làm việc với văn bản,
nghĩa là đòi hỏi tổ chức giờ Tập đọc sao cho việc phân tích nội dung của bài đọc đồng
thời hướng đến việc hoàn thiện kỹ năng đọc, hướng đến đọc có ý thức bài đọc.
Việc đọc như thế nhằm vào sự nhận thức. Chỉ có thể xem là đứa trẻ biết đọc khi
nó đọc mà hiểu được những điều mình đọc. Đọc là hiểu nghĩa cảu chữ viết. Nếu trẻ
không hiểu những từ ta đưa cho chúng đọc, chúng sẽ không có hứng thú học tập và
không có khả năng thành công. Do đó, hiểu những gì được đọc sẽ tạo ra động cơ,
hứng thú cho việc đọc.
Việc đọc không thể tách rời khỏi việc chiếm lĩnh một công cụ ngôn ngữ (ở đây
là tiếng Việt). Mục đích này chỉ có thể đạt được thông qua con đường luyện giao tiếp
có ý thức. Một phương tiện luyện tập quan trọng, cũng đồng thời là một mục tiêu phải
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
7

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
đạt tới trong sự chiếm lĩnh ngôn ngữ chính là việc đọc, cả đọc thành tiếng và đọc
thầm.
Quy trình hiểu văn bản bao gồm các bước sau :
Hiểu nghĩa các từ, các ngữ.
Hiểu các câu.
Hiểu các khối đoạn, những là những tập hợp câu dung để phát biểu một ý trọn
vẹn mà phức hợp.
Hiểu được cả bài.
Học sinh tiểu học không phải bao giờ cũng dễ dàng hiểu được những điều mình
đọc. Hầu như toàn bộ sức chú ý của các em đều tập trung vào việc nhận ra mặt chữ,
đánh vần để phát thành âm. Còn nghĩa thì chưa có đủ thì giờ và sức lực để nhận biết.
Mặt khác, do vốn từ còn ít, năng lực liên kết thành câu, thành ý còn hạn chế, nên việc
hiểu và nhớ nội dung còn khó khăn. Đây là cơ sở để xuất hiện các biện pháp hình
thành năng lực đọc hiểu cho học sinh tiểu học.
2. Bình diện ngữ nghĩa của văn bản và luyện đọc hiểu ở tiểu học
2.1. Ý nghĩa của dạy đọc hiểu
Như ta đã biết, đọc không chỉ là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng các ký
hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một quá trình nhận thức để có khả năng
thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành tiếng không tách tời với việc đọc hiểu
những gì được đoc. Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu thấu đáo các văn bản được đọc thì học
sinh mới có công cụ để lĩnh hội tri thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng
trong văn bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi học các môn khác của nhà trường.
Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc
rộng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói quen,
hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Các tài liệu dạy học của
nước ngoài cũng nhấn mạnh sự thông hiểu trong khi đọc. “Đọc là để hiểu nghĩa chữ
in” và đề lên thành nguyên tắc phải cho trẻ hiểu những từ đang học đọc, xem việc hiểu
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
8

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
những được đọc là động cơ, cái tạo nên hứng thú, tạo nên thành công học đọc của trẻ
(xem TLTK 35).
Ngay cả giai đoạn đầu lớp 1, khi mục đích chính của dạy học là dạy kỹ thuật
đọc, chú trọng mặt phân giải âm thanh của tiếng, cũng vẫn phải chú ý đến việc chọn
ngôn liệu để học âm, vần, thanh sao cho việc dạy chữ gắn với việc dạy nghĩa.
Đích cuối cùng của dạy đọc là dạy cho học sinh kỹ năng làm việc với văn bản,
chiếm lĩnh được văn bản. biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lý thông tin. Chính vì vậy
dạy đọc hiểu có vai trò đặc biệt trong dạy đọc nói riêng, trong dạy học ở tiểu học nói
chung.
Trong khi đó, việc quan sát thực trạng dạy học Tập đọc trên cả hai đối tượng
giáo viên và học sinh cho thấy rằng kỹ năng đọc hiểu của cả thầy và trò tiểu học đều
yếu. Ngay cả giáo viên cũng có những cách hiểu và giải thích rất sai về các bài đọc ở
tiểu học.
Học sinh đọc mà không nắm được điều gì là cốt yếu trong văn bản. Kết quả học
đọc của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành một kỹ năng giao
tiếp quan trọng. Nguyên nhân chính của hạn chế này là do giáo viên chưa nắm chắc
nội dung và phương pháp dạy đọc hiểu.
Sau đây chúng ta đi vào xem xét các cơ sở để xác định nội dung dạy đọc hiểu
một bài.
2.2. Văn bản với vấn đề đọc hiểu
Để làm rõ dạy đọc hiểu nghĩa là làm gì, chũng ta cần hiểu rõ đối tượng mà đọc
hiểu tác động : văn bản.
+ Văn bản là một sản phẩm của lời nói, một chỉnh thể ngôn ngữ, thường bao
gồm một tập hợp các câu và có thể có một đầu đề, nhất quán về chủ đề và trọn vẹn về
nội dung, được tổ chức theo một kết cấu chặt chẽ nhằm một mục đích giao tiếp nhất
định.
Văn bản có tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể này thể hiện ở hai phương diện :
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
9

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
+Về mặt nội dung : nó biểu hiện tính nhất quán về chủ đề, ở sự phát triển mạch
lạc, chặt chẽ của nội dung và bộc lộ ở tính nhất quán và rõ rệt ở mục tiêu văn bản.
+ Về mặt hình thức : tính chỉnh thể thể hiện ở kết cấu mạch lạc và chặt chẽ,
giữa các bộ phận trong văn bản có các hình thức liên kết và toàn văn bản có một tên
gọi.
Tính nhất quán chủ đề thể hiện ở chỗ toàn văn bản tập trung vào một chủ đề
thống nhất, chủ đề này được triển khai qua các chủ đề bộ phận (các tiểu chủ đề) của
từng phần, từng chương, từng mục, từng đoạn.
Văn bản (bài) được dạy đọc ở tiểu học có dung lượng không lớn nên cấp độ
dưới văn bản thường chỉ là đoạn văn, khổ thơ. Để xác định nội dung của bài lại phải
tìm nội dung của đoạn.
Tính nhất quán của văn bản thể hiện ở mục tiêu văn bản. Văn bản là sản phẩm
của quá trình giao tiếp. Mục đích của giao tiếp cũng chính là mục đích của văn bản.
Hoạt động giao tiếp nhằm vào các mục đích : thông tin (thông báo tin tức), tự biểu
hiện, giải trí, tạo lập quan hệ và đích hành động. Những mục tiêu này được thực hiện
đồng thời trong từng văn bản nhưng trong từng phong cách, kiểu loại văn bản, các
mục tiêu không được thể hiện đồng đều.
Tất cả các văn bản xét cho cùng đều hướng đến mục đích hành động vì dù là
đích thông tin hay tự biểu hiện, tạo lập quan hệ hay giải trí, thực chất vẫn là nhằm tác
động vào lý trí để thuyết phục hoặc là tác động vào tình cảm để truyền cảm, hướng
người đọc, người nghe đến một hành động nào đó.
Chính mục đích giao tiếp làm cho văn bản luôn chứa đựng nội dung thông tin
và nội dung này tạo ra các bình diện ngữ nghĩa của văn bản.
Trước hết, đó là nội dung miêu tả, hay còn gọi là nội dung sự vật, là những hiểu
biết, những nhận thức về thế giới xung quanh, về xã hội và về chính bản thân con
người. Nội dung này tạo thành nghĩa sự vật của văn bản.
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
10
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học

Tiếp theo là nội dung thông tin về những cảm xúc, tình cảm, thái độ của người
viết đối với đối tượng, sự việc được đề cập đến, đối với người tham gia hoạt động giao
tiếp. Nội dung này tạo ra nghĩa liên cá nhân của văn bản.
Xét cách thức biểu hiện các thông tin ngữ nghĩa thì cần phân biệt : thông tin
ngữ nghĩa tường minh (còn gọi là hiển ngôn) và thông tin ngữ nghĩa hàm ẩn (còn gọi
là hàm ngôn).
Nghĩa tường minh là các thông tin được biểu hiện bằng các từ ngữ có mặt trong
văn bản, và bằng các cấu trúc ngữ pháp của cum từ, của câu, của đoạn văn, của văn
bản. Các thông tin này được biểu hiện trên bề mặt của câu chữ và người đọc tiếp nhận
nó thông qua nguyên văn từ ngữ và cấu trúc ngữ pháp.
Nghĩa hàm ẩn là các thông tin được suy ra từ thông tin tường minh và từ hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể của văn bản. Để hiểu được thông tin hàm ẩn của văn bản, người
đọc phải tiến hành phân tích và suy ý dựa vào yếu tố ngôn ngữ hiện diện trong văn
bản và hoàn cảnh giao tiếp để rút ra thông tin hàm ẩn. Có thể nói đó là phương pháp
đọc những gì ẩn dưới các hàng chữ.
Các văn bản nghệ thuật thường chứa đựng thông tin này.
2.3. Tác phẩm văn học đối với vấn đề đọc hiểu văn bản nghệ thuật
Trong số các văn bản dung để dạy đọc hiểu ở trường tiểu học, loại văn bản nghệ
thuật có một vị trí đặc biệt không những bởi tấm quan trọng của loại văn bản này mà
còn do tỷ lệ văn bản nghệ thuật được đưa vào chương trình rất cao và nhiệm vụ dạy
hiểu loại văn bản này phức tạp hơn.
Đọc văn bản nghệ thuật, học sinh không chỉ hiểu nội dung văn bản mà còn phải
cảm thụ được một loại hình nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm chất liệu. Vì vậy, đọc văn
bản nghệ thuât thực hiện nhiệm vụ kép : dạy một kỹ năng tiếng Việt và dạy văn. Từ
đây có thể suy ra dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật gồm công việc làm cho học sinh
nắm được nội dung của văn bản, mục tiêu của văn bản đồng thời dạy cho học sinh
cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ, hình tượng văn chương làm nên nội dung văn
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
11
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học

bản. với nghĩa đó, dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật là dạy tiếp nhận văn học hay còn
gọi là dạy cảm thụ văn học.
Để dạy đọc hiểu văn bản nghệ thuật, người giáo viên tiểu học phải hiểu rõ đặc
trưng văn chương và đặc trưng tiếp nhận văn chương. Lý thuyết tiếp nhận văn học đã
chỉ ra ba cấp độ trong tiếp nhận văn học :
+ Người đọc tri giác, hiểu ngôn từ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để cảm nhận
hình tượng trong sự toàn vẹn của các chi tiết, các lien hệ.
+ Người đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của người nghệ sỹ, thâm nhập vào hệ
thống hình tượng như là sự kết tinh sâu sắc tư tưởng và tình cảm của tác giả.
+ Người đọc đưa hình tượng vào đời sống và kinh nghiệm riêng của mình để
thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng nâng cấp lí giải tác phẩm lên cấp quan niệm và tính
hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn hóa, tư tưởng, đời sống và truyền
thống nghệ thuật.
Ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật mang tính đa nghĩa, tính biểu tượng, tượng
trưng, gợi cảm.
● Tính nhân văn của văn bản nghệ thuật
“Văn học là nhân học”. Nội dung văn bản nghệ thuật chủ yếu nói về con người,
tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của con người. Dù nhà văn có quan tâm, có miêu tả hiện
tượng nào của cuộc sống đi nữa, một cái cây, một cánh rừng, một ngôi chùa, một ngọn
núi, một dòng sông, một đêm trăng, một đàn chim, một bầy cá… thì điều mà nhà văn
tìm hiểu, điều làm học ngạc nhiên, xúc động và muốn nói lên để người khác cũng
quan tâm, ngạc nhiên, xúc động như mình không phải là bản thân các hiện tượng đó
mà là mối liên hệ của chúng với con người, ý nghĩa cuộc sống của con người mà
những hiện tượng đó thể hiện, cách nhìn, sự rung động của con người trước những
hiện tượng cụ thể và trước cuộc sống.
Vì vậy, đoạn văn, câu chuyện, bài thơ nói về các con vật, về các loại cây… thì
cũng là nói về con người. Mà con người thì giàu xúc động, giàu tình cảm và tình yêu.
Cũng vì vậy, đích cuối cùng của dạy cảm thụ văn chương không cỉ là cho thấy bài văn
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
12

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
đã ghi chép hiện thực gì mà trước hết phải cho thấy bài văn là kết quả của một hành
động tự nhận thức, nơi bộc lộ những tình cảm, thái độ của nhà văn trước hiện thực.
●Tính chủ quan của văn bản nghệ thuật
Tác phẩm văn chương là nơi người nghệ sỹ bày tỏ thái độ chủ quan của mình,
nói lên ước mơ, khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật
“là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”, là con đẻ tinh thần của nhà văn, là sự
sáng tạo, là bản thông điệp để nhà văn gửi tâm tình của mình đến bạn đọc.
Chính tính chủ quan, đặc điểm tình cảm, cảm xúc này của tác phẩm nghệ thuật
đòi hỏi khi tiếp nhận văn chương, học sinh không chỉ phải hiểu nội dung sự việc của
văn bản mà còn phải nắm nội dung liên cá nhân, giá trị biểu hiện, chất trữ tình, tức là
thái độ, tình cảm, sự đánh giá sự việc của tác giả, cái làm nên chức năng bộ lộ văn
bản. Không chú ý đến điều này chúng ta sẽ không hướng dẫn học sinh hiểu được
nghĩa liên cá nhân của tác phẩm nghê thuật.
●Tính biểu trưng, hình tượng, độc đáo, khác thường của văn bản nghệ thuật
Như đi trong vũ ba lê bằng đầu ngón chân chứ không đi bằng bàn chân như
trong đời thường, văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng, nó đi tìm cho
mình một ngôn ngữ riêng, một cách thể hiện riêng, một cách thức “kí mã” riêng khác
với đời thường và khác với các nghệ thuật khác. Chính vì vậy khi tiếp nhận văn
chương, học sinh phải tiếp nhận khác với logic thông tục của đời thường. Đó là năng
lực biết nghe được, đọc được những bí ẩn dưới những chuỗi âm thanh, ẩn dưới các
dòng chữ hay chính là năng lực giải mã nghệ thuật.
Để giải mã văn chương, phải chú trọng các đặc điểm diễn đạt hàm ẩn, cách nói
biểu trưng, tính đa nghĩa, những cách nói hướng đến “gây ấn tượng” khác với ngôn
ngữ đời thường. Nếu chỉ biết tư duy “thật thà” theo lối đời thường, ta không thể hiểu
được văn.
Khi nói nghệ thuật nhận thức và tái hiện cuộc sống bằng hình tượng, một mặt
cần nhấn mạnh rằng tác phẩm nghệ thuật phản ánh cuộc sống một cách sinh động, cụ
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
13

Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
thể, cảm tính, có hình khối, đường nét, âm thanh chứ không phải phản ánh một cách
trừu tượng, bằng khái niệm như trong khoa học.
Như vậy, không hiểu được cái nghĩa, cái lý, cái tình của văn chương, không
hiểu được đặc điểm phản ánh bằng hình tượng vừa cụ thể, vừa khái quát, vừa đa
nghĩa, vừa mang tính độc đáo, mới mẻ của văn chương, chúng ta sẽ không tìm được
chìa khóa mở cửa “văn”, không hướng dẫn học sinh hiểu văn bản văn chương được.
●Văn bản nghệ thuật – nghệ thuật của ngôn từ
Văn chương là nghệ thuật của ngôn từ. Nhờ chất liệu ngôn ngữ mà chất nhân
văn, tính hình tượng, tính cảm xúc và độc đáo của văn chương còn có những sắc thái
riêng mà các nghệ thuật khác không có. Ngôn ngữ văn chương phải trau chuốt, cô
đọng, hàm súc, có tính biểu cảm, tính hình ảnh. Nếu không, nghĩa, tình, lí của văn
chương chỉ là nắm xương khô. Một tác phẩm văn học có giá trị phải là sự hài hòa của
nội dung và hình thức, tình ý chứa chan mà lời lẽ phải dạt dào. Vì vậy, ngoài việc giải
mã nghĩa, lí, tình, dạy đọc hiểu văn bản văn chương còn phải cho học sinh tiếp nhận
được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, khả năng phát hiện được
tín hiệu nghệ thuật và cao hơn nữa là cho các em đánh giá được giá trị của các tín hiệu
nghệ thuật trong việc biểu đạt nội dung. Đây cũng chính là nội dung dạy cảm thụ văn
học ở trường tiểu học.
Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức không chỉ hiện ra trong toàn bôn văn
bản mà ngay trong từng yếu tố, từng cấp độ của văn bản ở trên tất cả các bình diện : từ
vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp. Việc tìm hiểu tác phẩm văn học phải bắt đâu từ việc khám
phá văn bản ngôn từ của nó. Không có chì khóa để mở cánh cửa đi vào cấu trúc ngôn
từ của tác phẩm thì chúng ta chỉ có thể đứng ngoài ngôn nhà văn chương.
Từ ngữ trong văn bản văn chương thường mang tính gợi tả, gợi cảm, chúng “đi
lại”, “nhảy nhót” trong tác phẩm. Chính vì thế, trong các bài miêu tả, lớp từ láy được
sử dụng rất nhiều. Về mặt ngữ nghĩa, từ trong văn bản văn chương có biên độ nghĩa
được mở rộng tối đa, tạo ra những nghĩa văn cảnh, nghĩa bóng rất đa dạng. Các nhà
văn đã vận dụng những nét nghĩa khác nhau và đã sử dụng từ rất là đắc địa. Khi giải
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

14
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
mã văn chương, phải nắm được các thế đối lập về nghĩa của từ trong hệ thống ngôn
ngữ mới hiểu văn bản và chỉ ra được sự tài tình của việc dùng từ.
Trong văn chương, các từ không chỉ được dựng đứng lên, có hình, có khối, gợi
tả rợn người mà chúng còn được sử dụng với tất cả nghĩa biểu thái để bộc lộ hết cái
tình của người dùng từ.
Vì muốn gây ân tượng, mà các nhà văn nhà thơ đã đi chệch ra khỏi chuẩn mực
thông thường của từ toàn dân, sáng tạo ra bao từ mới chẳng hề có trong từ điển. Phải
có hiểu biết về ngôn ngữ mới thấy được vẻ đẹp của các từ.
Nếu việc nắm các thế đối lập của từ trong hệ thống ngôn ngữ là rất cần thiết, nó
cho phép chúng ta chỉ ra cái “đắc địa”, sự tài tình của việc lựa chọn từ trong trục dọc
của ngôn ngữ, thì những hiểu biết về những nét nghĩa chung của một trường từ vựng
cũng không kém phần quan trọng. Nó sẽ giúp chúng ta giải mã được nhiều bài tập đọc
ở tiểu học. Giá trị của tác phẩm văn chương không chỉ là ở cái hay riêng của từng từ
đơn lẻ mà còn lá sự hài hòa , lan tỏa, cộng hưởng của cả một trường từ. Chính nét
nghĩa chung, sự hòa đồng, cộng hưởng này sẽ tạo ra những giá trị ngữ nghĩa mới của
văn bản.
Một đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật là sử dụng nhiều biện pháp tu từ. Các
biện pháp tu từ thường được sử dụng trong các bài tập đọc ở tiểu học là so sánh, ẩn dụ
(so sánh ngầm), hoán dụ, nhân hóa, hòa hợp. Những cách dùng từ đặc sắc cùng với
các biện pháp tu từ đã làm cho lớp ngôn từ nghệ thuật kết lại thành những hình ảnh
văn chương lung linh sắc màu tạo nên vẻ đẹp của phần Tập đọc trong bộ SGK tiểu
học suốt từ lớp 1 đến lớp 5. Chính vì vậy, khi xác định những từ ngữ quan trọng trong
những bài tập đọc thuộc phong cách văn chương, không thể không đi tim những hình
ảnh, chi tiết nghệ thuật tiêu biểu nhất.
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ, nên điều quan trọng đối với tác phẩm văn
học không chỉ ở chỗ nó nói về cái gì mà còn ở chỗ nó nói về cái đó bằng cách nào,
như thế nào. Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh chỉ đặt ra khi đọc hiểu
văn bản nghệ thuật. Đó chính là việc chỉ ra cái hay của việc sử dụng ngôn ngữ nghệ

Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
15
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
thuật hay chính là cách đánh giá giá trị của các yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật đối với
việc biểu đạt nội dung. Đây chính là một nội dung của dạy cảm thụ văn học trong
trường tiểu học. Dạy cảm thụ văn học là dạy học sinh cảm nhận những giá trị nổi bật,
những điều tế nhị, sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ, câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ,
câu chuyện.
PHẦN II : NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ TRONG CÁC BÀI THƠ TRỮ
TÌNH TIẾNG VIỆT LỚP 5
I. Thơ và các đặc trưng của thơ
1. Thơ là gì ?
Thơ ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại. Thơ là một thể loại văn học hết sức
quen thuộc và gần gũi với con người ở mọi thời đại, ở phương Đông cũng như ở
phương Tây....Thế nhưng, khi ta đặt ra và trả lời câu hỏi thơ là gì thì câu hỏi này hoàn
toàn không dễ trả lời. Khác với loại tác phẩm truyện, kí, kịch, thơ trực tiếp gắn với
tâm hồn con người, mà tâm hồn con người là một thế giới tinh vi, phức tạp, mờ ảo nên
thơ có thể dễ dàng cảm nhận bằng trực giác nhưng rất khó đúc kết, khái quát thành
một định nghĩa thật sự hoàn chỉnh.
Nhà lí luận phê bình văn học Lưu Hiệp quan niệm : "Thơ là để nói lên cái chí,
lời ca là để làm cho lời nói được lâu dài. (...) Ở trong lòng thì gọi là chí, nói ra lời thì
gọi là thơ" [25,76] , nhằm nhấn mạnh vào mục đích làm thơ.
Học giả Lê Quý Đôn cho rằng "làm thơ có ba điều chính: một là tình , hai là
cảnh, ba là sự .(...) Tình là người, cảnh là tự nhiên, sự là hợp nhất cả trời và đất. Lấy
tình tham cảnh, lấy cảnh hội việc, gặp việc thì nói ra lời, thành tiếng" [27; 99]. Nhà
thơ cách mạng Tố Hữu nhấn mạnh " Thơ là tiếng lòng hồn nhiên nhất của tâm hồn
con người trước cuộc đời, trước trời đất. Thơ là tiếng hát của tình cảm thiết tha mãnh
liệt...Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy. Bài thơ hay là bài thơ
làm cho người ta không còn cảm thấy câu thơ mà chỉ thấy tình người...Thơ là một
điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu". Nhà thơ Xuân Diệu cũng chung cảm nghĩ

ấy khi viết "Thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng , đồng khí tương cầu".
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
16
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Chế Lan Viên chịu ảnh hưởng của Valêri khi cho rằng "Thơ là sự phân vân giữa
nhạc và ý" [20 ;30]. Nhà văn Nguyễn Tuân quan niệm "...thơ là ảnh, là nhân ảnh , thơ
cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của văn. Cũng mọc lên từ
cái đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình nó thức dậy được những vô hình
bao la, từ một điểm nhất định , nó mở được ra một cái diện không gian, thời gian
trong đó nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp...Thơ là mở ra được một cái gì mà trước
câu thơ đó, trước nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín"[25; 172].
Trong bài Tựa tự viết cho tập thơ của mình, nhà thơ Sóng Hồng đã đưa ra
những định nghĩa rất sâu sắc và toàn diện về thơ : "Thơ tức là sự thể hiện con người
và thời đại một cách cao đẹp". Thơ là thơ đồng thời là vẽ là nhạc, là chạm khắc theo
cách riêng "Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng". Thơ là tình cảm
và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có nghệ thuật. Tình cảm và lí trí ấy được
diễn đạt bằng những hình tượng đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên một
nhạc điệu khác thường" . "Thơ là một viên ngọc kim cương long lanh dưới ánh sáng
mặt trời". “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh phi thường khi nó chinh
phục được trái tim của quần chúng nhân dân” [ chuyển dẫn theo 29; 43].
Tuy khác nhau nhưng hầu hết các nhà thơ cũng như các nhà nghiên cứu phê
bình đều thống nhất ở thơ có hai đặc điểm quan trọng sau đây:
+ Thơ trực tiếp bộc lộ cảm xúc , nỗi lòng , suy nghĩ của tác giả : tức là khẳng
định thơ thuộc phương thức trữ tình, đồng thời nhấn mạnh vai trò của cảm xúc và khả
năng tạo nên sức đồng cảm mạnh mẽ đối với người đọc của thơ.
+ Thơ có một hình thức tổ chức ngôn ngữ đặc biệt .
Thơ : là một loại hình nghệ thuật dùng từ, dùng chữ trong ngôn ngữ làm chất liệu,
và sự chọn lọc từ cũng như tổ hợp của chúng được sắp xếp dưới một hình thức lôgíc
nhất định tạo nên hình ảnh hay gợi cảm âm thanh có tính thẩm mỹ cho người đọc,
người nghe.

Thơ là loại sáng tác văn học có vần điệu, có đặc điểm ngắn gọn, súc tích, nhiều ý
cô đọng, tuân theo các quy luật nhất định. Thơ thường dùng như một hình thức biểu tả
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
17
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
cảm xúc trữ tình, hoặc tình cảm xúc động trước một hiện tượng xảy ra trong cuộc
sống, như khi người ta đứng trước một phong cảnh ngoạn mục, hoặc đứng trước một
thảm cảnh.
Có thể phát biểu một cách ngắn gọn : Thơ là một loại hình văn học tồn tại bên
cạnh truyện và kịch, là hình thức sáng tác văn học nghiêng về thể hiện cảm xúc
thông qua một tổ chức ngôn từ đặc biệt thành những câu văn vần giàu nhạc tính,
giàu hình ảnh và gợi cảm.
2. Những đặc trưng cơ bản của thơ
2.1. Nhân vật trữ tình (chủ thể trữ tình) - Chủ thể phát ngôn trong thơ
Lời văn trong truyện - kí đều có chung một đặc tính là lấy việc mô tả, kể lại
những câu chuyện, những sự việc diễn ra trong cuộc sống xã hội làm chính. Cảm nghĩ
thái độ , cách đánh giá của nhà văn thường giấu kín trong bản thân câu chuyện chứ
không được làm nổi bật lên chiếm vị trí chủ đạo thành đối tượng thưởng thức trực tiếp
của người đọc.
Lời thơ là sự bộc lộ trực tiếp tâm tư, là tiếng nói tha thiết của tâm hồn, tiếng gọi
nồng nhiệt của trái tim của nhân vật trữ tình (chủ thể trữ tình) . Phát ngôn thơ - lời thơ
- do vậy không lấy chức năng thông báo làm chính mà chủ yếu là hướng đến chức
năng biểu hiện. Đó có thể là những nỗi niềm riêng tư về hạnh phúc ; niềm vui gặp gỡ ;
nỗi buồn chia li. Đó cũng có thể là những cảm xúc, những suy tư về nhân tình thế
thái, về số phận con người, thăng trầm của xã hội, những cảm xúc về Tổ quốc, đất
nước, dân tộc, nhân loại.
Tâm hồn nhà thơ như một chiếc cần ăngten thu nhận tất thảy những tín hiệu
buồn vui của con người, là chiếc "bình thu hợp trí muôn phương" (Xuân Diệu) . Muốn
chinh phục được tâm hồn của độc giả trước hết cảm xúc của nhà thơ phải chân thành ;
niềm yêu ghét của nhà thơ phải xuất phát từ chính trái tim nhạy cảm, thành thực của

mình.
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
18
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Cảm xúc của nhà thơ, phải ở mức độ mãnh liệt, dồi dào nồng cháy. Mỗi khi có
điều gì chất chứa trong lòng không nói ra không chịu được lúc đó là thi sĩ tìm đến thơ
để giải tỏa nổi chất chứa ám ảnh đó (theo Tố Hữu)
Vì cảm xúc là yếu tố hàng đầu của thơ nên mọi nhà thơ đều rất coi trọng cảm
hứng sáng tạo. Cảm hứng làm cho nhà thơ có thể lóe sáng được những ý nghĩ mới lạ,
chắp cánh cho trí tưởng tượng của nhà thơ bay bổng, hình thành một cách xuất thần
những lời đẹp, tứ hay. Ngoài cái lớn lao của cuộc đời thực, thơ cũng tìm đến thế giới
của ước mơ và mộng tưởng. Nó mở rộng thế giới thực để người đọc có thể cảm nhận
đến nhiều phạm vi rộng rãi hơn, bao la hơn của hôm qua, hôm nay và ngày mai, của
cái có thật và cái có thể có và nên có, của cái ta đang sống và cái mà mọi người mong
ước. Thơ mở rộng biên độ sống của con người!
Một đêm tháng 4/1948, tại Việt Bắc, được trực tiếp nghe tin giặc đánh phá quê
hương mình, Hoàng Cầm xúc động và ngay đêm ấy viết bài thơ "Bên kia sông
Đuống", một trong những bài thơ hay nhất của ông, là "chứng minh thư" để ông đi
vào ngôi vị những nhà thơ sống mãi trong lòng bạn đọc.
Cảm xúc của nhà thơ đồng thời lại phải có tính tiêu biểu điển hình. Cảm xúc
trong thơ nhất định là của một con người - cá nhân trong hoàn cảnh cụ thể nhưng đồng
thời nó không đóng kín, khép lại cho riêng nhà thơ mà cảm xúc đó còn là sự đại diện
phát ngôn cho tâm tình, suy nghĩ của nhiều người .Vichto Hugô từng cho rằng "Lầm
lẫn thay nếu anh tưởng tôi không phải là anh". Cảm xúc thơ càng có tính tiêu biểu,
điển hình thì càng tạo nên sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại.
Nỗi lòng của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương do đâu mà dễ dàng
tìm được sự tri âm của nhiều thế hệ độc giả, ngay cả với các thế hệ hiện diện trên cõi
đời này sau họ nhiều thế kỉ? Thơ từ xưa đến nay, dù là thơ tỏ lòng, tỏ chí thì thơ vẫn
là tiếng lòng chung của nhiều cá nhân, thế hệ...Vì thơ là cái chủ quan cưu mang được
những nỗi niềm thời đại nên ở đời mới có những người tự nhận là tri âm của thơ.

Khi đề cao yếu tố cảm xúc không có nghĩa là phủ nhận yếu tố trí tuệ trong
thơ. Trí tuệ rất cần cho mọi loại hình nghệ thuật "Thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữ
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
19
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
cảm xúc và trí tuệ" ( Sóng Hồng). Chất suy nghĩ trong một bài thơ bộc lộ ở cách đặt
vấn đề của tác giả, ở cấu tứ chung, ở những lập ý và suy tưởng, ở những liên tưởng và
ở cả những cảm xúc và hình ảnh cụ thể. Nhà thơ Xuân Diệu quan niệm: " Nhà thơ
hay, hay bằng tư tưởng, bằng tình cảm, bằng chí khí, bằng tính tình, nhưng tất cả
những cái ấy phải thông qua xúc cảm, cảm giác;...Cho nên một thi sĩ có tư tưởng, tình
cảm rồi thì phải chứng tỏ cái bản lĩnh của mình trong xúc cảm, cảm giác, hình tượng"
(Và cây đời mãi mãi xanh tươi- NXB Văn học, H, 1971,trang273). Nhấn mạnh quan
hệ biện chứng giữa cảm xúc và lí trí trong thơ, một nhà thơ Pháp đã khuyên "Hãy học
suy nghĩ bằng trái tim và học rung động bằng khối óc". Viên Mai (1716-1797) một
nhà thơ, nhà lí luận phê bình thơ nổi tiếng đời Thanh (Trung Quốc) nhấn mạnh thơ
phải có chất suy nghĩ sâu xa " thơ có thịt mà không có xương là con sâu mùa hè vậy"
Điều nói ra trong thơ phải sâu sắc nhưng phải thật nhuần nhuyễn, không làm căng đầu
óc , giảm sức đồng vọng của người nghe. "Cái suy nghĩ được mặc dù khổ đắng nhưng
nói ra phải ngọt ngào. Cái nói ra có thể bất ngờ với người khác nhưng vẫn đọng lại
trong ý của họ".
Nhân vật trữ tình gắn liền với cái tôi trữ tình của tác giả. Nhân vật trữ tình chính
là một cách biểu hiện nghệ thuật, cái tôi của tác giả nhưng nhân vật trữ tình chỉ thống
nhất chứ không đồng nhất với tác giả . Thống nhất vì qua tác phẩm người đọc nhận ra
niềm vui, nỗi buồn, khát vọng lí tưởng của tác giả được ẩn chứa nơi cảm xúc, cái nhìn
của nhân vật trữ tình nhưng không đồng nhất vì nhân vật trữ tình là một hình tượng
nghệ thuật do tác giả sáng tạo ra, còn tác giả lại chính là con người có thực ngoài
cuộc đời. Cùng một tác giả, do vậy có thể có nhiều nhân vật trữ tình khác nhau trong
toàn bộ sáng tác của mình.
Nhân vật trữ tình thường được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau:
+ Có danh xưng rõ ràng : tôi, ta, anh, em,... Khi nhân vật trữ tình trong thơ phát

ngôn cho tác giả thực chất là sự " độc bạch" của nhà thơ":
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
20
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
+ Không trực tiếp xưng danh : lúc này nhân vật trữ tình được nhận biết qua
cách bộc lộ cảm xúc, cách quan sát, nhận xét về những điều được nói đến trong bài
thơ. Thơ trữ tình trung đại thường sử dụng cách thể hiện này. Không trực tiếp xưng
danh, lời thơ dễ trở thành tiếng lòng chung của nhiều cá thể trong những hoàn cảnh
tương tự.
+ Nhân vật trữ tình nhập vai là nhân vật trữ tình không còn đứng ở vai “tác giả”
nữa mà đã hoá thân vào một nhân vật khác để bộc lộ cảm xúc.
Các hình thức xuất hiện của nhân vật trữ tình có thể thay đổi xen kẽ nhau trong
bài thơ. Người thưởng thơ cũng cần phân biệt nhân vật trữ tình với nhân vật trong thơ
trữ tình. Nhân vật trong thơ trữ tình là con người được miêu tả, thể hiện trong bài thơ.
Người thưởng thơ cũng cần biết đến sự khác biệt giữa nhân vật trong tác phẩm truyện
và nhân vật trong tác phẩm thơ - ở chỗ truyện thường chú ý mô tả nhân vật một cách
đầy đặn trên nhiều bình diện và vận động theo sự vận động phát triển của cốt truyện
(xuất thân, hoàn cảnh sống, ngoại hình, lời nói, hành động, ý nghĩ nội tâm, quan hệ
với nhân vật khác) ; còn trong thơ nhân vật trữ tình lại thường không cần miêu tả đầy
đủ như thế, nhiều khi chỉ cần thể hiện một khoảnh khắc, hé mở một nỗi niềm.
2.2. Đặc điểm lời thơ :
Trữ tình là phương thức sáng tạo văn học tiêu biểu nhất cho thơ, nhưng nó
không phải chỉ có trong thơ. Trữ tình còn có mặt trong các loại văn xuôi khác, như
trong văn tùy bút. Để là thơ, ngoài yếu tố trực tiếp bộc lộ cảm xúc của cái tôi trữ tình
còn cần thêm một yếu tố nữa : Là sự diễn đạt nội dung trữ tình bằng một kiểu lời nói
đặc biệt thành những câu văn vần giàu nhạc tính, giàu hình ảnh, mang tính chất gợi
cảm cao độ, thường gọi là lời thơ.
Do chỗ trữ tình là sự thổ lộ những cảm nghĩ rung động của con người trước thế
giới nên lời thơ phải hết sức gợi cảm. Tính chất gợi cảm như là đặc điểm chung của
ngôn từ văn chương bộc lộ tập trung nhất trong thơ. Có thể hình dung ngôn từ chung

Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
21
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
như bước đi hằng ngày (mục đích chính là để chuyển chỗ), ngôn từ trong thơ như
bước đi trong múa (mục đích chính là biểu hiện tâm hồn, cảm xúc, giàu khả năng tác
động thẩm mĩ). Từ cách dùng chữ, đến cách đặt câu, dựng khổ, đoạn,... tất cả đều
được cân nhắc sao cho mỗi tiếng, mỗi từ, mỗi câu, mỗi dòng, mỗi khổ đoạn có thể tạo
ra một không khí tình cảm, truyền tải một cảm xúc mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến
người đọc. Tính chất gợi cảm của lời thơ được bộc lộ ở hai đặc điểm : giàu nhạc điệu
và tính hình tượng.
Ý kiến của GS Phan Ngọc chính là sự nhấn mạnh về phương diện thi pháp của
thơ: "Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để buộc người tiếp nhận
phải nhớ, phải cảm xúc và phải nghĩ cho chính hình thức ngôn ngữ của nó".
Tiếp thu thành tựu của các ngành khoa học hiện đại, thi pháp học thế kỉ XX đã
đi tìm những đặc thù cơ bản của thơ ở giác độ tổ chức kết cấu trong văn bản ngôn từ.
Và như một hệ quả tất yếu, tìm hiểu thơ trên giác độ này, người thẩm thơ, giảng thơ
không thể không được trang bị một vốn liếng ngôn ngữ học dày dặn, để chỉ ra cho
được cái đặc trưng, "cái lí của hình thức thơ".
Trên một quan điểm toàn diện, thi pháp học Macxit một mặt nghiên cứu cấu
trúc hình thức của văn bản ngôn từ, nhưng không chỉ xét cô lập trong cấu trúc nội tại
của chúng mà phải xét trong mối tương quan với những yếu tố khác ngoài văn bản -
mà yếu tố trực tiếp bộc lộ cảm xúc của cái tôi trữ tình nói bên trên là một trọng điểm.
Nhạc điệu của lời thơ.
Từ nguồn gốc xa xưa của mình, lời thơ vốn là chuỗi lời nói được sáng tác ra để
hát hoặc ngâm lên có thể được các nhạc cụ đệm theo. Thơ với nhạc gần nhau là vì
vậy. Chất nhạc trong lời thơ thể hiện qua luật thơ, âm điệu và nhịp điệu của nó.
3. Tính dân tộc trong thơ
Cội nguồn của thơ trước hết là dân tộc. Thơ dù cụ thể hoá, hay trừu tượng hoá
tới đâu cũng gắn với dân tộc mình, thời mình sống. Ở thời nào, dù bình hay biến, nam
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

22
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
hay bắc, mục tiêu nhân văn nhân nghĩa truyền thống đã hướng cho thơ đi về đích
chân, thiện, mỹ của dân tộc Việt Nam ta. Bao đời nay thơ đã làm cho con người biết
thương con người. Dẫu rằng thơ luôn luôn khai thác số phận con người, niềm vui cũng
như nỗi đau, cao thượng cũng như thấp hèn, hùng và bi... với những cung bậc khác
nhau, âm hưởng khác nhau.
Thời nào thi sĩ cũng thờ trên đầu chữ tâm - cái gốc rễ sâu bền của dân tộc, của
nhân loại. các nhà thơ không ai cầm bút đứng ngoài dân tộc. Nhưng tiếng đàn chỉ cất
cao khi tâm hồn người nghệ sĩ hoà nhập cùng quê hương xứ sở, dân tộc mình. Bằng
chức năng sáng tạo nhà thơ góp phần làm giàu cho tâm hồn, tình cảm của dân tộc
mình. Đời sống tâm hồn của mỗi người, sự sống còn của dân tộc, tình cảm nhân loại
đi vào thơ như một dòng thác. Cái bể chứa hùng vĩ để tạo nên dòng thác của thơ vẫn
là cội nguồn gốc rễ từ quê hương mình, dân tộc mình. Trên dòng thác ấy có con sóng
chìm, lại có con sóng nổi, có con sóng tung trời trắng xoá, lại có con sóng dịu êm. Tư
duy thơ phát triển cùng với sự phát triển của xã hội và trình độ thẩm mỹ của công
chúng. Bài thơ có thể hình thành hồn nhiên từ ánh nhìn (đôi mắt sâu thẳm của tình
yêu) đến ánh nắng (chói chang mùa hè, thủy tinh mùa đông), từ bất động (một bức
tường rong rêu) đến chuyển động (một cơn gió, một cơn mưa). Những bài thơ đi trực
tiếp từ trái tim mà ngôn từ chỉ là những cái vỏ bọc đựng. Mỗi bài thơ hay là một định
nghĩa cho thơ. Thời gian thấm vào mỗi dòng thơ; cũng bởi sau thời gian chúng ta mới
bắt đầu chiêm nghiệm và ký ức. Thời gian không ngừng trôi qua mỗi dòng thơ như
nước chảy qua kẽ tay.
Bàn luận về sự bồi đắp tính dân tộc, bản sắc dân tộc trong thơ ca nước ta, không
thể không đối chiếu thơ hôm nay với thơ ngày xưa. Thơ văn Việt Nam hiện nay viết
bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ đẹp và phong phú, có khả năng diễn đạt mọi tư tưởng,
mọi sắc thái tình cảm, tiếng nói ấy là niềm tự hào chính đáng của mọi người Việt Nam
chúng ta, là biểu hiện ngời sáng của bản sắc dân tộc Việt Nam được gìn giữ và bồi đắp
từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH

23
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Nhiệm vụ ghi tạc bằng những hình ảnh nghệ thuật sống động cuộc sống Việt Nam,
tính cách Việt Nam, thiên nhiên Việt Nam - sứ mệnh quan trọng hàng đầu của văn học dân tộc - chỉ được thực hiện trong
thời đại mới, khi mà văn hoá Việt Nam đoạn tuyệt với sự câu nệ văn hoá cổ Trung Hoa, từ bỏ những khuôn mẫu cứng
nhắc lỗi thời, hướng con mắt sang phương Tây, đón nhận tác động canh tân của văn học châu Âu, trước hết là văn học
Pháp.
Tính dân tộc trong thơ Việt Nam: Vĩnh cửu và luôn luôn biến đổi!
4. Đặc điểm thơ trữ tình
Từ thời cổ đại đến nay, văn chương nhân loại có các loại thơ : thơ sử thi, thơ bi
kịch, thơ tự sự, thơ trữ tình, thơ trào phúng, phúng thích, thơ thế sự, thơ quảng bá ý
tưởng, tuyên truyền, quảng cáo, thơ thoại trong kịch... Trong đó thơ trữ tình được coi
nó là tiêu biểu của thơ.
Trong quan niệm hiện đại về thơ, giáo sư Đỗ Đức Hiểu đã đúc kết 4 yếu tố cơ bản
của thơ là: Cảm hứng mãnh liệt, Nghệ thuật trùng điệp, Khoảng trống, Âm vang.
4.1.Cảm hứng mãnh liệt:
Không quá nặng về trình bày tư duy, cảm hứng trữ tình được thu gọn, đau đáu
trong tâm trí người cầm bút (không dàn trải ngổn ngang, không chất chứa quá nhiều
sự việc...) . Xuất phát từ chính bản thân mình, cảm hứng mãnh liệt tất nhiên phải
hướng về nhân sinh, về thế giới.
4.2. Nghệ thuật trùng điệp:
Có nhiều cách trùng điệp. Giản đơn nhất là trùng "âm" do gieo "vần" tạo ra. Kế
đó là "điệp từ ngữ" là biện pháp dễ thấy. Còn các yếu tố trùng điệp khác như "câu,
đoạn, ý, hình ảnh...". Bản chất của trùng điệp là thể hiện tâm trạng day dứt của người
làm thơ (day dứt: trở đi trở lại). Tâm trạng day dứt chính là cái trùng điệp gốc! Nếu
mọi sự cứ rõ ràng dứt khoát thì chẳng cần đến thơ nữa!
4.3. Khoảng trống:
Thi nhân thường nói "thiếu một chút", không nói toạc hết mọi sự, mọi ý. Lí luận
thơ cổ điển phương Đông thường cảnh báo rằng "thơ kị lộ" (tránh lộ ý). Chỗ trống này
chừa lại cho sự bâng khuâng, đồng sáng tạo của bạn tri âm.

4.4. Âm vang:
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
24
Chuyên đề Phát triển n ng lă ực đọc cho HS Tiểu học
Nối tiếp cái "khoảng trống". Có chỗ "trống" thì âm mới "vang" lên, ngân lên
được, cái âm vang ấy nó sẽ "day dứt" cả người thưởng thức thơ. Âm vang giản đơn
nhất trước hết là do gieo "vần", lặp đi lặp lại. Trong các bài thơ "không vần" (thơ tự
do) thì âm vang sinh ra do những yếu tố trùng điệp khác (ngoài vần) đã kể trong phần
"nghệ thuật trùng điệp".
Bốn yếu tố trên thực là căn bản của thơ. Tuy nhiên, một bài thơ không nhất thiết
phải hoàn hảo đầy đủ 4 yếu tố. Một bài thơ gọi là "đọc được" chí ít cần đạt được một,
hai yếu tố đó. Bên cạnh đó còn có thêm yếu tố thứ 5 : cái Ảo trong thơ. Người ta
thường nói nhà thơ hay "mơ mộng" với ý diễu cợt lối sống lối cảm xa thực tế, viển
vông. Họ đã lầm lẫn giữa lối sống và lối tư duy thơ. Mơ mộng căn bản là cái ảo trong
thơ, cái ảo gắn bó mật thiết với cuộc sống, cái ảo là phần không thể thiếu trong cuộc
sống con người. Bản chất của cái ảo chính là tâm tưởng, chủ quan, tương phản bề
ngoài với cái "hiện thực"
Bài “Em ơi Ba Lan” của Tố Hữu
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan (thực)
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn (thực)
Anh đi nghe tiếng người xưa vọng (ảo)
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn (ảo)
Phân tích thi ca mà xác định "thực-ảo" như trên thì có vẻ máy móc, nhưng sự
thật quả là vậy. Bạn thử thay tất cả những câu "ảo" trong các bài thơ kể trên bằng
những câu "thực" thì có còn thơ nữa không ?!
Bài thơ trữ tình có nhiều phương diện khác như: "cảm hứng chủ đạo, không
gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật, lời văn nghệ thuật, chi tiết nghệ thuật, kết cấu
.v.v...Không ai có thể dạy làm thơ, nhưng chắc chắn làm thơ không thể bỏ qua những
yếu tố cơ bản nêu trên...
Thơ tự do trữ tình, với tính cách kể chuyện tiềm ẩn, tiếp tục là hình thức phổ

biến nhất được sử dụng bởi các nhà thơ hiện nay, cũng như đã xảy ra với thế hệ đi liền
trước họ. Một lần nữa chúng ta được nhắc nhở rằng thơ trữ tình có thể dung chứa
Trịnh Thị Thu Hương, Cao học K18, khoa GDTH
25

×