Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

kinh nghiệm kể truyện sáng tạo 4-5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.83 KB, 27 trang )

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

Văn học là một môn nghệ thuật không thể thiếu được đối với trẻ em, nhất là
trong chương trình giáo dục mầm non . Trong công tác giáo dục việc sử dụng
phương tiện văn học ngày càng được coi trọng. Vì nó đem đến cho trẻ những
hiểu biết đầu tiên về cuộc sống xung quanh, các tác phẩm văn học nó đem lại và
mở ra cho trẻ thế giới tình cảm của con người, kích thích sự chú ý đến con
người, nó nuôi dưỡng và phát triển trí tưởng tượng sán tạo nghệ thuật và làm
cho vốn ngôn ngữ của trẻ được chau chuốt có cấu trúc ngữ pháp đúng. Do vậy
trong hoạt động dạy phải xác định được mục đích cụ thể của tiết học để có
phương pháp , biện pháp dạy cho hợp lý, phát triển tư duy sáng tạo, tính tích cực
cá nhân, tính độc lập sáng tạo của trẻ.
Hình tượng văn học nghệ thuật có tác dụng tích cực đến việc giáo dục đạo
đức, nhân phẩm của trẻ ngay tư tuổi ấu thơ và tạo tiền đề cho việc hònh thành
nhân cách con người, nhất là trong thời đại mới. Để góp phần thực hiệnyêu cầu
về việc dạy trẻ kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo là một trong những
nhiệm vụ của trường mầm non. Nó không những giúp trẻ kỹ năng kể chuyện mà
còn kích thích ở trẻ hứng thú “ đọc” truyện và nguyện vọng độc lập sáng tạo
trong tiếp nhận văn học. Nó gợi lên trong lòng trẻ những rung cảm lành mạnh,
từ đó hình thành ở trẻ tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mỹ. Việc dạy trẻ kể lại
truyện thần thoại có sáng tạo sẽ gây thái độ sáng tạo ngôn ngữ ở trẻ. Trên cơ sở
đó trẻ say mê sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật.
Trong những năm tháng dạy trẻ và luôn được dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi.
Nhưng phạm vi tiếp xúc của trẻ còn hạn chế do một số trẻ chưa qua lớp 3-4 tuổi,
dẫn đến sự hiểu biết của trẻ còn nghèo nàn, cuộc sống của trẻ còn nhiều điều
mới lạ mà việc giúp cho trẻ kể lại chuyện giúp cung cấp cho trẻ những nội dung
kiến thức đơn giản trong trường mầm non việc dạy trẻ kể lại chuyện đã được
thực hiện nhưng chưa sâu sắc. Vì trẻ mới kể lại như thuộc một câu truyện mà
chưa có sự sáng tạo trong khi kể. Vậy nó đòi hỏi sự nỗ lực hoạt động sáng tạo
của cô giáo. Trước hết cô phải là người kể sáng tạo dựa trên những cơ sở khoa
học, những biện pháp cụ thể để dạy trẻ kể lại truyện một cách sáng tạo.


Vậy để nâng cao chất lượng giáo dục trong việc dạy trẻ kể lại truyện một cách
sáng tạo. Tôi muốn đưa ra một số biện pháp để dạy trẻ trong môn học “Cho trẻ
làm quen với tác phẩm văn học” đạt kết quả.
vấn đề dạy khi trẻ kể lại truyện đã được các nhà nghiên cứu nhiều nước quan
tâm. Nhưng đối với Việt Nam vấn đề này chưa được quan tâm sâu sắc. Trong
quá trình tìm hiểu chúng tôi mới được tiếp xúc với một số công trình như :
1. “ Đọc và kể truyện văn học ở vườn trẻ” Tác giả
M-KBOGOLIUPKAIA…SEPTSENKÔ: Lê Đức Mẫn dịch NXBGD năm
1
1976.
2. “ Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ” của Nguyễn Thu Thủy
năm1986
3. “ Tiếng Việt Văn học và phương pháp giáo dục “ của Lương Kim Nga-
Nguyễn Thị Thuận- Nguyễn Thu Thủy năm 1988.
4. “ Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học “ của Hà Nguyễn Kim Giang”
năm 2002.
5. “ Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kỳ” của Hà Nguyễn Kim
Giang năm 2002.
Các công trình này đã đề cập đến những vấn đề vị trí văn học trong việc giáo
dục,các phương pháp đọc thơ kể truyện, các tác phẩm chọn làm mẫu trong đó có
những cuốn sách nói về phương pháp , biện pháp , thủ thuật dạy trẻ kể lại
chuyện.
Trong các công trình nói trên các tác giả đã thấy được vai trò của văn học đối
với việc giáo dục trẻ mẫu giáo và đã quan tâm đến việc phát triển trí tuệ, tới
khả năng kể chuyện sáng tạo của trẻ nhưng chỉ là thể loại truyện cổ tích .
Với vấn đề này trên cơ sở tiếp thu những thành tựu, ý kiến của công trình nói
trên. Tôi không có tham vọng gì lớn mà chỉ là bước đầu hệ thống hóa và đưa ra
một số biện pháp dạy trẻ kể lại chuyện thần thoại có sáng tạo dựu trên những
phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Tức là cô kể
sáng tao và trẻ kể sáng tạo.

Trên cơ sở lý luận của các nhà khoa họcliên ngành như: Tâm lý học, giáo dục
học, phương pháp dạy văn học… Và thực tiến đề tài nhằm hệ thống hóa và đưa
ra một số biện pháp dạy trẻ kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo dựa trên
những phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Nhằm
nâng cao khả năng kể chuyện của trẻ giúp trẻ hiểu được cuộc sống diễn ra xung
quanh trẻ. Từ đó trẻ biết cách cư sử với mọi người, mọi vật xung quanh trẻ và
đặc biệt là phát triển toàn bộ nhân cách cho trẻ.

2
PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
I/ ĐẶC ĐIỂM TÂM LÝ TRẺ MẪU GIÁO LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC TIẾP NHẬN
CHUYỆN THẦN THOẠI VÀ KHẢ NĂNG KỂ LẠI CHUYỆN SÁNG TẠO Ở TRẺ.
1. Tư duy: tư duy của trẻ là quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản
chất, những mối quan hệ có tính qui luật của sự vật và hiện tượng trong hiện
thực khách quan mà ta chưa biết.
- Đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi chủ yếu là tư duy trực quan hình
tượng , đứa trẻ phải dựa vào hình ảnh, biểu tượng đã có, những kinh nghiệm đã
trải qua để suy luận ra những vấn đề mới. Vì vậy việc đưa ra một số biện pháp
dạy trẻ kể lại chuyện thần thoại có sáng tạo phải xuất phát tư đặc điểm này của
trẻ. Truyện thần thoại dân gian nó kể lại sự tích các thần, những câu chuyện này
vốn do người thời cổ tưởng tượng ra, để giaỉ thích nguồn gốc, ý nghĩa của hiện
tượng tự nhiên xã hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự sống còn của tập
thể, thị tộc, bộ lạc như: trời, đất, gió mưa, sông núi, hạn hán, lũ lụt… các hiện
tượng văn học đã góp phần kích thích sự phát triển tư duy của trẻ và nó phụ
thuộc rất nhiều vào người đem văn học đến cho trẻ (đó là cô giáo ) ở đây cô giáo
phải làm sao cho trẻ hiểu được các hiện tượng thiên nhiên phản ánh trong cuộc
sống để trẻ hiểu được và luôn luôn có mơ ước cuộc sống có nhiều thay đổi và
con người luôn thắng được mọi thiên tai. Từ đó bằng ngôn ngữ của mình trẻ kể
chuyện có thể thêm bớt một số tình tiết có thể thay đổi trong chuyện và trẻ có

thể kể theo kiểu sáng tạo riêng của mình.
Vậy để tư duy của trẻ 5-6 tuổi phát triển mạnh trẻ có thể suy luận được nhiều
vấn đề mới hơn. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều quá trình sư phạm thứ nhất
(Quá trình tìm ra cái mới của cô cụ thể: cô kể sáng tạo truyện thần thoại) quá
trình này xuất phát từ thực tế của cách thể hiện trong cử chỉ, nét mặt, điệu bộ,
cường độ, nhịp điệu, giọng kể của cô thì mới dễ dàng hình dung, thâm nhập vào
tác phẩm một cách tốt nhất. Trong quá trình kể chuyện thì cử chỉ điệu bộ, của cô
phải rõ ràng để thể hiện và xác định rõ nét tính cách của nhân vật.
Ví dụ: truyện “ Sơn Tinh – Thủy Tinh” bằng việc thể hiện sự tức giận của
Thủy Tinh và sự vui mừng của Sơn Tinh qua nét mặt và điệu bộ… Từ đó trẻ biết
thể hiện thái độ đúng đắn với từng nhân vật khi trẻ kể lại câu chuyện này hay
câu chuyện khác. Từ cách thể hiện trên sẽ giúp trẻ lấy đó làm kinh nghiệm phán
đoán, nhận xét, suy diễn theo kinh nghiệm cuae mình làm cho tư duy của trẻ có
cơ sở thực tiễn.
Cùng với đặc điểm tư duy dựa vào các hình ảnh, các biểu tượng giúp trẻ có
khă năng vận dụng kinh nghiệm đã học kết hợp với năng lực tư duy hoạt động
nghệ thuật của mình mà trẻ kể lại chuyện một cách sáng tạo.
3
Ngoài đặc điểm tư duy hình tượng là chủ yếu thì ở độ tuổi này (5-6t) còn xuất
hiện đặc điểm tư duy mới đó là tư duy trực quan sơ đồ. Tức là trẻ dựa vào sơ đồ
để suy luận ra những hình ảnh, biểu tượng , những cái mà trẻ cần tìm tòi, khám
phá, tư duy, trực quan sơ đồ tạo ra cho trẻ một khả năng phản ánh những mối
liên hệ tồn tại khách quan, không bị phụ thuộc vào hành động hay ý muốn chủ
quan của bản thân đứa trẻ. Sự phản ánh những mối liên hệ khách quan là điều
kiện cần thiết để trẻ lĩnh hội những tri thức vượt ra ngoài khuôn khổ của việc
tìm hiểu từng sự vật riêng lẻ với những thuộc tính sinh động của chúng để đạt
tới tri thức khái quát. Dựa vào đặc điểm tư duy này thì việc tổ chức cho trẻ kể lại
chuyện sáng tạo theo tranh với nội dung câu chuyện là rất phù hợp. Hơn nữa
việc đó còn kích thích tính tích cực tư duy tính độc lập sáng tạo của trẻ để giúp
trẻ kể lại chuyện bằng ngôn ngữ , bằng tư duy của trẻ chứ không phụ thuộc vào

ngôn ngữ của văn bản chuyện.
2. Tưởng tượng : là quá trình nhận thức, phản ánh những cái chưa có trong
kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những hình ảnh
đã có.
* Đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi là: Tưởng tượng tái hiện và
tưởng tượng sáng tạo .
- Tưởng tượng sáng tạo : là quá trình xây dựng nên những hình ảnh mới chưa
có trong kinh nghiệm cá nhân cũng như chưa có trong xã hội và nó là thành
phần không thể thiếu được trong hoạt động sáng tạo nói chung và sáng tạo văn
học nghệ thuật của con người.
Đối với đặc điểm sáng tạo của trẻ thì ta phải coi “ Sáng tạo” là một sự biến đổi,
tạo ra một cái gì mới trên cơ sở những cái mà trẻ đã lĩnh hội được trong quá
trình hoạt động chứ không phải chỉ bó hẹp trong những phát minh sáng tạo ra
những tác phẩm vĩ đại cuả các vị đại nhân. Tức là thông qua việc kể chuyện
sáng tạo của cô mà trẻ có thể kể lại theo trí tưởng tượng sáng tạo riêng của trẻ.
Có thể nói tưởng tượng của trẻ đã phát triển mạnh mẽ, gặp sự tưởng tượng trong
các loại hình nghệ thuật sẽ là sự gặp gỡ phù hợp và dễ dàng cho trẻ tiếp nhận
văn học thần thoại. Tưởng tượng sáng tạo của trẻ cũng bắt đầu từ những câu
chuyện thần thoại mà cô đã kể cho trẻ nghe. Tuy nhiên việc cô kể cũng phải có
sự sáng tạo, việc kể sáng tạo của cô không phải là điều gì to lớn mà đó chỉ là
cách kể kết hợp với việc sử dụng những biện pháp thông thường nhưng biết cách
cải biên, nhào nặn thay đổi hình thức cho phù hợp, luôn luôn lôi cuốn sự chú ý
của trẻ và kích thích khả năng tự hoạt động nghệ thuật ở trẻ. Từ cách kể sáng tạo
của cô cũng như việc sáng tạo hoặc xây dựng được một vài chi tiết mới theo mô
típ thần thoại, để kích thích trí tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Từ đó trẻ có thể kể
lại chuyện theo khả năng tưởng tượng sáng tạo của mình.
Tưởng tượng của trẻ chủ yếu là tưởng tượng tái hiện trẻ tưởng tượng dựa trên
những ấn tượng đã có trước. Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo cũng rất giàu và
4
tưởng tượng còn là nguyên nhân và kết quả, phương tiện của sự lao động sáng

tạo của con người mà chỉ ở con người mới có. Với trí tưởng tượng đã đưa trẻ
bay cao, bay xa đưa trẻ tới những ước mơ, sự khát vọng và là thứ rất quí nó thúc
đẩy khả năng sáng tạo của trẻ. Ví dụ như: Ước mơ làm giảm nhẹ sức lao động
như mơ có hạt lúa to và tự nó lăn về nhà hay mơ con người trẻ mãi không già.
Truyện “chú cuội cung trăng”. Những hình ảnh mà trẻ hình dung, tưởng tượng
đều được thể hiện trong các cử chỉ, điệu bộ của trẻ khi kể lại chuyện trẻ đã thể
hiện lại được cách kể sáng tạo qua lời kể của cô.
Sự tưởng tượng đã giúp con người vượt lên trên thực tại và đạt tới những điều
kỳ diệu. Nó trở thành độnglực của sự phát triển văn hóa và khoa học. Vì vậy cô
giáo cần nhận thấy được vị trí, vai trò của tưởng tượng và phải dựa vào thế
mạnh của chuyện thần thoại cùng với biện pháp kể sáng tạo của mình, để khi kể
cô biết khơi gợi trong lòng trẻ những ước mơ tưởng tượng và cô khéo léo lồng
vào hoạt động kể sẽ làm tăng thêm việc hấp dẫn, sinh động văn học nghệ thuật
và tính độc lập sáng tạo của trẻ.
Căn cứ vào đặc điểm tưởng tượng của trẻ mẫu giáo ( 5-6 tuổi) chủ yếu là
tưởng tượng tái tạo. Vì vậy việc kể sáng tạo của cô cũng là yếu tố rất quan trọng
để đưa trẻ làm chất liệu xây dựng những hình tượng mới, những chi tiết hấp dẫn
muôn màu, muôn vẻ. Bởi vì trẻ có kinh nghiệm về kể chuyện, có biểu tượng,
hình ảnh về câu chuyện thì trẻ mới kể lại bằng trí tưởng tượng sáng tạo của mình
được. Kinh nghiệm của trẻ càng nhiều, hình ảnh biểu tượng của trẻ càng phong
phú thì tưởng tượng của trẻ càng đa dạng. Cô sẽ sử dụng một số biện pháp để
dạy trẻ kể lại chuyện sáng tạo nhằm bồi dưỡng tính tích cực tư duy, tính độc lập
sáng tạo của trẻ.
3. Ngôn ngữ :
Đặc điểm về sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi: Đây là tuổi có
khả năng nắm vững và lĩnh hội được hai hình thức cơ bản của ngôn ngữ đó là
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ bên trong. Việc nắm ngôn ngữ trong thực hành và
thông hiểu ngôn ngữ đã giúp cho đứa trẻ có thể hiểu được nhiều điều người lớn
nói. Đây là một đặc điểm vô cùng thuận lợi để đứa trẻ nghe kể chuyện. Từ đó trẻ
có thể kể lại chuyện bằng ngôn ngữ của mình.

Những câu chuyện thần thoại dân gian đã có sự lôi cuốn sự yêu thích của trẻ.
Vì nó đem đến cho trẻ nhiều ước mơ và sự chiến thắng, phù hợp với đặc điểm
ngôn ngữ của trẻ và rất muốn nghe truyện. Nếu như lời kể của cô hấp dẫn, sinh
động và lôi cuốn được trẻ. Bằng những biện pháp kể sáng tạo cô lựa chọn lời kể
trong sáng, ngắn gọn xúc tích, tác động đến tình cảm thẩm mỹ sẽ giúp cho quá
trình tiếp nhận của trẻ được tốt hơn. Trẻ có thể kể lại chuyện bằng ngôn ngữ của
trẻ mà không phụ thuộc vào ngôn ngữ của câu chuyện với lối kể diễn cảm và
sinh động, làm sống lại những hình ảnh, chi tiết cụ thể. Cô giáo đã làm câu
chuyện như có “hồn” hơn, như đang diễn ra trước mặt trẻ. Cô kể sáng tạo trong
5
ngôn với ngữ điệu dí dỏm thể hiện đúng tính cách nhân vật. Trẻ cũng có thể bắt
chước và kể lại giống cô. Ví dụ: “Sơn Tinh- Thủy tinh” khi kể giọng giận giữ
của Thủy Tinh… Như vậy khả năng thông hiểu ngôn ngữ của trẻ đóng một tầm
quan trọng để hiểu ngôn ngữ của người khác mà cụ thể ở đây là ngôn ngữ thể
hiện giọng điệu của cô. Theo tâm lí học “Một ngôn ngữ càng giàu hình tượng
bao nhiêu, càng gởi cảm trẻ bấy nhiêu và càng khơi mạnh sức tưởng tượng, hình
dung và xúc cảm của người ta bấy nhiêu. Khô khan, những ngôn từ tạo nên gợn
sóng suy tưởng bằng những ngôn từ lung linh màu sắc, hình ảnh thì chắc chắn
người nghe có thể nhìn thấy trước mắt những gì ta muốn miêu tả”.
Ví dụ: trong chuyện “ Sự tích Hồ Gươm”có đoạn nói “không hiểu ai có thanh
gươm quí thế này mà lại để rơi xuống sông nhỉ” và mặt nước có tiếng nói: “
Thanh gươm đó là của ta… về cho Lê Lợi…” với cảnh kể đó sẽ làm trẻ khó hình
dung và không biết tiếng nói đó ở đâu và ai nói.
Vậy cần làm sao có thể để lại trong trí nhơ của trẻ nhưng hình ảnh lung linh sắc
màu mà nó chỉ đủ khuấy động yếu ớt trong tâm hồn trẻ thơ và khi cho trẻ kể lại
và trẻ cũng kể giống như cô. Ngôn ngữ của trẻ lặp lại giống như ngôn ngữ mà
cô truyền đạt. Nhưng nếu như thay đổi ngôn ngữ kể thì nó sẽ sáng bừng trước
mắt trẻ một cảch của thần linh của sự mơ ước và đã thành sự thật, điều đó có tác
động to lớn trong hoạt động kể lại chuyện của trẻ.
Tuy nhiên quá trình sư phạm thứ nhất ( cô kể sáng tạo ) cũng phải xuất phát từ

đăc điểm ngôn ngữ cũng như liên quan trực tiếp đến đặc điểm tư duy, tưởng
tượng, chú ý, trí nhớ và tiếp nhận nghệ thuật của trẻ. Vì thế mà phải thông qua
quá trình sư phạm thứ nhất để tiến hành quá trình sư phạm thứ hai thì mới đạt
kết quả tốt được.
Quá trình cô kể sáng tạo là quá trìnhcó liên quan trực tiếp đến biện pháp dạy trẻ
kể lại chuyện thần thoại một cách sáng tạo mà tôi sẽ trình bày ở chương sau:
Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi không chỉ lĩnh hội được hai hình thức cơ bản của ngôn
ngữ mà trẻ còn nắm được ngữ âm, ngữ điệu. Trẻ đã biết sử dụng ngữ điệu một
cách phu hợp với nội dung giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Do đó
khi cô kể cho trẻ nghe thì việc kể đúng giọng điệu của tác phẩm là rất quan
trọng. Từ việc cô kể đúng sẽ giúp trẻ kể lại đúng giọng điệu tác phẩm và sẽ giúp
khả năng tưởng tượng của trẻ thêm phong phú, góp phần hình thành nên những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp của trẻ, lòng yêu thương con người, lòng mơ ước,
đức tính dũng cảm, chiến đấu dũng cảm vì thiên tai… cô sáng tạo trong ngôn
ngữ kể giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng. Một yếu tố quan trọng đóng vai trò
không nhỏ trong quá trình tư duy sáng tạo ở nhiều lĩnh vực như: âm nhạc, hội
họa, toán, văn…Giúp trẻ có lòng say mê lý tưởng, một ước mơ tuổi thơ. Ngữ
âm, ngữ điệu trong truyện thần thoại cũng dễ hiểu, dễ bắt chước do đó rất phù
hợp với đặc điểm ngôn ngữ của trẻ. Cùng với việc nắm giữ ngôn ngữ trong thực
hành và khả năng thông hiểu ngôn ngữ thì vốn từ của trẻ tâưng lên một cách
6
đáng kể ( khoảng 2000- >3000 từ). Trẻ biết sắp xếp các từ thành một câu, biết
dùng các câu nói để diễn đạt nguyện vọng, bày tỏ mong muốn của mình. Hơn
nữa trẻ không chỉ có khả năng nói được các câu đủ thành phần, đúng ngữ pháp
mà còn có khả năng nói được những câu giàu sắc thái biểu cảm.
Tất cả những đặc điểm đó gợi cho ta những liên tưởng tới khả năng kể chuyện
sáng tạo ở trẻ. đặc biệt là kể chuyện thần thoại dân gian.
4. Chú ý – trí nhớ.
Đặc điểm chú ý- trí nhớ của trẻ 5-6 tuổi chủ yếu là không chủ định. Trẻ mẫu
giáo chỉ chú ý, ghi nhớ những gì có thể liên quan đến nhu cầu chính của bản

thân trẻ, những gì gây ấn tượng xúc cảm đối với trẻ. Vì vậy để tổ chức cho trẻ kể
lại chuyện thần thoại có sáng tạo phải căn cứ vào đặc điểm này. Trước hết cô
phải có biện pháp , thủ thuật thế nào để lôi cuốn sự chú ý của trẻ. Trẻ có chú ý,
ghi nhớ được câu chuyện thì trẻ mới có thể kể lại được truyện đó. Cô có sử dụng
biện pháp kể tạo ra khả năng, sự hứng thú, gây được sự chú ý làm cho trẻ nhớ
lâu thì ở trẻ mới xuất hiện nhu cầu cần thiết. Phải ghi nhớ nôi dung câu chuyện,
nhu cần được tự mình kể lại chuyện bằng sự ghi nhớ của mình.
Một trong những đặc điểm của chuyện thần thoại dân gian. Nó là sự tưởng
tượng là ước mơ của con gnười, lại được kể bằng một phong cách, một giọng
điệu như đã có thật. Điều này góp phần nên không khí vui tươi hành phúc…
Trong truyện thần thoại nó giúp trẻ ghi nhớ, chú ý của trẻ có chủ định hơn.
Bằng ngôn ngữ biểu cảm, trong sáng, ngắn gọn, cô đọng, xúc tích và giàu hình
ảnh. Trong quá trình kể cô giáo sẽ tác động đến nhu cầu, tình cảm của trẻ, gây
hấp dẫn lôi cuốn trẻ. Chính sự chú ý và ghi nhớ là điều kiện nhào nặn, cải biên
sáng tạo chuyện theo mô hình thần thoại.
ở trẻ mẫu giáo (5-6 t) đã bắt đầu xuất hiện đặc điểm chú ý ghi nhớ chủ định.
Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích, tự giác có kế hoạch, có biện pháp
để hướng chú ý vào đối tượng, nó đòi hỏi một sự nỗ lực nhất định. Thần thoại là
thế giới truyện kể về sự tích các thần nó để giải thích nguồn gốc, ý nghĩa của
hiện tượng tự nhiên và xã hội được coi là có quan hệ mật thiết đến sự sống còn
của tập thể thị tộc, bộ lạc. Thần thoại là sự tự nhiên, có nhân cách hóa tự nhiên,
nhiều truyện có tính chất thần thoại suy nguyên có ý nghĩa là giải thích cắt nghĩa
và vừa có tính chất sử thi kết hợp với tính chất giải thích hiện tượng tự nhiên.
Ví dụ: truyện “ Cóc Kiện Trời” Vậy khi kể cô phải thể hiện được giọng kể trữ
tình và giàu chất hùng ca, sôi nổi kết hợp với cách kể sáng tạo của cô, giúp trẻ
“nghe” ra “nhìn” thấy những tình tiết, tính cách các nhân vật trong truyện và nó
còn khái quát được chiến thắng trong một ước mơ của con người. Từ đó giúp trẻ
kể lại được câu chuyện và kể sáng tạo bằng ngôn ngữ của mình và sự tưởng
tượng của mình.
Thế giới thần thoại cũng rất hấp dẫn với trẻ và nó phù hợp với đặc điểm phát

triển tâm lý của trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi.
7
Dựa vào những đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ cô giáo cần kể lại truyện thần
thoại và tổ chức cho trẻ kể lại bằng trí tưởng tượng của mình. Từ đó giúp trẻ say
mê tham gia vào sự hoạt động văn học nghệ thuật.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ:
Để xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp dạy trẻ kể lại
truyện… một cách sáng tạo ở lớp mẫu giáo lớn, tôi đẫ tiến hành điều tra khảo sát
thực trạng việc dạy trẻ kể lại truyện ở các lớp mẫu giáo tại trường mầm non Võ
Miếu – Thanh Sơn – Phú Thọ.
I/ KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH ĐIỀU TRA THỰC TRẠNG DẠY TRẺ KỂ:
1. Mục đích điều tra:
Khi tiến hành điều tra nhằm đánh giá thực trạng tình hình chung của việc dạy
trẻ kể lại truyện ở các lớp mẫu giáo lớn để làm cơ sở nghiên cứu các biện pháp
tổ chức cho trẻ kể lại truyện thần thoại một cách sáng tạo.
2. Các lớp được điều tra ở trường mầm non Võ Miếu – Thanh Sơn
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi B
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi C
- Lớp mẫu giáo 5-6 tuổi D; mẫu giáo 5- 6 tuổi E,G.
3. Thời gian điều tra
Từ ngày 20/3/2010 đến 20/11/2010.
4. Nội dung điều tra : Gồm:
- Việc soạn giáo án của giáo viên
- Tiết kể lại chuyện của trẻ.
5. Phương pháp điều tra ;
Tôi sử dụng phương pháp quan sát để điều tra, đến từng lớp quan sát và dự giờ
dạy trẻ kể lại truyện để xem cách thức của giáo viên ra sao.
II/ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA:
1. Việc soạn giáo án của giáo viên :

Qua điều tra tôi thấy mục đíc yêu cần đặt ra trong các giáo án còn rất chung
chung.Chủ yếu các giáo viên xác định 3 mục đích yêu cầu sau:
- Trẻ hiểu nội dung câu chuyện
- Trẻ hiểu được tính cách và ngữ điệu khác nhau của từng nhân vật
- Trẻ kể lại được truyện theo trình tự nội dung truyện trong 6 giáo án thì có
2 giáo án xác định mục đích yêu cầu sau:
*Giáo án 1: Dạy trẻ kể lại truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh”
+ Trẻ hiểu nội dung truyện.
+ Trẻ phân biệt được giọng điệu khác nhau của các nhân vật
+ Trẻ lại truyện theo từng đoạn.
8
+ Rèn luyện khả năng kể diễn cảm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
* Giáo án 2: Dạy trẻ kể lại truyện “ Sự tích bánh chưng bánh dày”
+ Trẻ hiểu nội dung câu chuyện
+ Trẻ kể lại toàn bộ nội dung truyện
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ và giáo dục đạo đức.
Trong tất cả 6 giáo án thì chưa có giáo án nào nhắc tới việc sử dụng phương
pháp , biện pháp gì trong tiết dạy và chưa có giáo án nào đề cập đến việc giáo
dục nghệ thuật , giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Trong 4 giáo án chưa có giáo án nào
đề cập và đặt ra yêu cần dạy trẻ kể lại truyện sáng tạo .
2. Điều tra một số tiết dạy trẻ kể lại truyện ( Tôi đã dự giờ ghi chép lại) ở
trường mầm non Võ Miếu – Thanh Sơn – Phú Thọ:
- Tiết 1: Dạy trẻ kể lai truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh”ở lớp mẫu giáo lớn 5 tuổi
A do cô giáo Hà Thị Hiệp dạy.
- Tiết 2: Dạy trẻ kể lại truyện “Sơn Tinh- Thủy Tinh” ở lớp mẫu giáo 5tuổi B
do cô giáo Đinh Thị Thúy Vân dạy.
Thực trạng kể lại truyện của trẻ ở 2 lớp này; đây là tiết dạy “ dạy trẻ kể lại
truyện” Nhưng thực tế thì rất ít trẻ biết kể lại, cụ thể ở hai lớp mới chỉ có được
10 cháu biết kể lại còn những trẻ khác thì không thể kể được theo yêu cầu, còn
trẻ biết kể lại thì chỉ kể được ở mức thuộc truyện chứ chưa thể hiện được giọng

điệu và tính cách của từng nhân vật. Vì vậy giờ học chưa thu hút được sự chú ý
của trẻ.
Qua 2 tiết dạy trẻ kể lại chuyện “ Sơn Tinh –Thủy Tinh”ở 2 lớp này cô giáo
tiến hành cong hình thức, cách tiến hành chưa gây được hứng thú với trẻ và
trong tiết học các cô chưa sử dụng phương pháp , biện pháp nào. Cô cứ lần lượt
cho trẻ kể lại, trẻ nào kể được thì về chỗ và cô mời bạn khác lên kể. Cô chỉ bao
quát lớp và nhắc trẻ chú ý nghe bạn kể chuyện.
Cụ thể: cô giáo Đinh Thị Thúy Vân - lớp 5 tuổi B đã tiến hành như sau: Vào
tiết học cô nhắc trẻ trật tự và cô gọi cháu Nguyễn Minh An lên kể lại chuyện
“Sơn Tinh -Thủy Tinh” cho cả lớp nghe. Khi cháu kể đến doạn Thủy Tinh đến
sau và đã bị Sơn Tinh rước công chúa đi rồi và cháu không kể tiếp nữa. Cô cho
cháu An về chỗ và gọi chua Thục Anh lên kể lại từ đầu mà cô không có biện
pháp nào để khuyến khích trẻ tham gia vào họat động “kể” cô tổ chức tiết học
quá đơn điệu dẫn đến tình trạng trẻ không chú ý trong tiết học. Một số trẻ kể
được lại truyện nhưng chỉ ở mức độ thuộc truyện, chứ chưa có sự sáng tạo trong
ngôn ngữ và trong hành động của từng nhân vật… Khi tiết học kết thúc cô đều
chỉ nhắc trẻ kể lại truyện cho ông, bà, bố, mẹ nghe.
Nhìn chung 2 tiết dạy trên. các cô mới chú ý đến một số trẻ biết kể lại truyện
mà chưa chú ý đến những trẻ nhút nhát, trẻ chưa kể lại được cô chưa chú ý đến
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ và cách thức tổ chức tiết học của mình.
9
Tiết thứ 3; Dạy trẻ kể lại truyện” Chàng Rùa” ở lớp mẫu giáo 5 tuổi C So với
2 lớp trên thì lớp này có hứng thú trong giờ học hơn. Vì vào bài cô đã gây được
sự chú ý của trẻ qua lời dẫn dắt hấp dẫn của cô như : Câu chuyện hôm nay nói
về một cậu bé Rùa bé tí tẹo như “ cái bát” mà lại giúp được bố mẹ làm mọi
việc…đó là nội dùn câu chuyện gì? “ Chàng Rùa” Vậy bạn nào hãy kể lại cho cô
và các bạn cùng nghe.
Tuy phần giới thiệu đã có sự hấp dẫn và thu hút được sự chú ý của trẻ nhưng
trẻ vẫn kể ở giọng đèu đều, chưa thể hiện được cảm xúc của mình với nhân vật
trong tác phẩm và có trẻ kể được một đoạn thì ấp úng nhưng cô chưa có sự gợi ý

để trẻ nhớ tiếp những đoạn sau và cô chưa quan tâm đến sự sáng tạo trong khi
kể của trẻ. Do đó tiết học chưa gây được hứng thú.
Qua 3 tiết học trênở 3 lớp: A, B, C trường mầm non Võ Miếu tôi thấy số trẻ kể
được lại truyện còn rất ít chỉ khoảng (20/120) cháu và phần đông là cháu kể lại
theo kiểu thuộc truyện chứ chưa có sự sáng tạo và cách tổ chức các tiết học còn
buồn tẻ với các giọng kể đều đều dẫn đến không gây được hứng thú cho trẻ và
không có khả năng phát huy tính sáng tạo của trẻ.
Tiếp theo tôi dự 3 lớp mẫu giáo C, D, E cùng trường mầm non Võ Miếu (3
tiết)
Tiết thứ nhất: Dạy trẻ kể lại truyện: “Sơn Tinh –Thủy Tinh”ở lớp mẫu giáo 5-
6 tuổi C do cô giáo : Bùi Thị Xuân Tú.
Qua giờ dạy tôi đã thấy cô sử dụng biện pháp trnh minh họa vứi biện pháp đàm
thoại trong tiết học. Trên thực tế trẻ đã kể lại được nội dung cốt truyện “ Sơn
Tinh- Thủy Tinh” và lời dẫn dắt vào bài của cô đã gây được sự chú ý cho trẻ cụ
thể là : Trong câu chuyện nói về hai chàng trai đều rất tài ba người thì có tài
dâng nước lên cao, còn người lại có tài dần níu lên cao. Trong hai người này đã
có một người được Vua gả công chúa cho. Đó là nội dung của câu chuyện gì?
Bạn nào đã thuộc kể lại cho cô và cả lớp cùng nghe. Cô mời cháu Anh Dũng có
năng khiếu kể lại. Sau đó cho cháu về chỗ ngồi và cô cho cả lớp xem tranh minh
họa. Cho trẻ xem tới đâu, cô đặt câu hỏi đàm thoại tới đó, để trẻ nhớ lại trình tự
nội dung cốt truyện.
Sau đó mời cháu khác kể lại. Tiết học này trẻ đã có hứng thú khi được kêt lại
toàn bộ câu chuyện.
Tiết thứ hai: Dạy trẻ kể lại truyện “Sự tích bánh Chưng bánh dầy” ở lớp mẫu
giáo 5-6 tuổi D do cô giáo: Hà Thị Phúc.
Trong tiết học cô sử dụng biện pháp đàm thoại. Cụ thể cô hỏi trẻ. Hôm trước
cô đã kể cho cả lớp mình nghe truyện gì? Ai là người đã nghĩ racách làm 2 thứ
bánh “ Bánh chưng- bánh dầy”? Hai thứ bánh đó được tế trời đất vào ngày nào
hàng năm? (Ngày hội đầu năm, ngày tết) Lang Liêu đã được nhà vua cho làm
gì? Ai lên kể lại cho cô và cả lớp cùng nghe. ở tiết này trẻ đã kể được lại truyện

10
“ Sự tích bánh chưng- bánh dầy” theo trình tự nội dung cốt truyện. Tuy nhiên
vẫn chưa có sự sáng tạo . Nhưng có cháu đã biết tóm tắt: Ví dụ:
Ngày xưa ở nước ta, vua Hùng thứ 6 có một người con trai tên là Lang liêu,
còn các hoàng tử kia đều văn hay võ giỏi nhưng lại không thích lao động. Chỉ có
Lang Liêu là chăm chỉ hiền lành. Chàng đem vợ con về quê cuốc nương làm
rẫy… Do đó mà lời kể của trẻ đã thu hút được sự chú ý của các bạn. Trẻ kể xong
cô cho các bạn nhận xét và nhắc trẻ về nhà kể lại cho ông bà, bố mẹ nghe.
Tiết thứ 3: Dạy trẻ kể lại truyện: “ Sự tích bánh chưng- bánh dầy” do cô giáo
Hà Thị Chuyên dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi G.
Trong tiết họccô đã sử dụng biện pháp thi đua, biện pháp dùng tranh minh họa
kết hợp vớp đàm thoại. Trên thực tế trẻ ở lớp này khi kể đã có sự sáng tạo với
thủ thuật của cô để cuốn hút trẻ.
Cụ thể: Cô hỏi trẻ: Bạn nào cho cô và các bạn cùng biết. Trong ngày tết mọi
nhà đều gói bánh gì để thắp hương? ( bánh chưng) có nhà còn làm cả bánh gì
nữa?( bánh dầy). Bánh này ăn có ngon không? cháu có biết ai là người nghĩ ra
cách làm hai thứ bánh này không? . Bây giờ phong tục của nhân dân ta đến tết
gói bánh gì? ( làm bánh gì?) Làm bánh chưng thế nào? Làm bánh dầy thế nào?
Mời 1 bạn lên kể cho cô và các bạn cùng nghe chuyện “ Sự tích bánh chưng-
bánh dầy” Cô mời cháu Hà Phương lên kể tới đoạn… “ đến ngày hội lớn đầu
năm. Ai tìm được của ngon vật lạ nhất đem đến để tế trời đất thì sẽ được nhường
ngôi. Khi Hà Phương kể xong cô động viên và khuyến khích để trẻ cố gắng kể
lần sau hay hơn. ví dụ Bạn Hà Phương kể rất hay nhưng nếu bạn thể hiện giọng
điệu phù hợp từng nhân vật thì câu chuyện còn hay hơn, hấp dẫn hơn nữa đấy.
Cô kể mẫu một câu sau đó gợi ý vàmời trẻ khác lên kể lại truyện. Cô cho trẻ
xem tranh minh họa và đặt câu hỏi đàm thoại với trẻ để giúp trẻ nhớ lại và tự tin
hơn khi kể. Ví dụ; cho trẻ xem bức tranh vẽ cảnh ngày tết có bánh chưng- bánh
dầy và hỏi trẻ: đây là bán gì? do ai nghĩ ra? Làm như thế nào để được bánh
chưng? Sau đó cô mời trẻ khác kể tiếp theo tranh cho đến hết câu chuyện.
Nhìn chung trẻ lớp này số đông các cháu hứng thú với tiết học và một vài trẻ đã

kể có 1 chút sáng tạo trong ngôn ngữ. Tuy nhiên trẻ chưa hình tượngể hiện được
giong điệu rõ ràng của từng nhân vật trong chuyện. Cô giáo đã có sự động viên
khuyến khích trẻ kịp thờo. Vì vậy mà trẻ đã tự tin hơn trong tiết học và tham gia
tích cực trong hoạt động “kể”
III/ Kết quả điều tra :
1. Ưu điểm:
- Về phía cô: Các cô đã chú ý đến việc soạn giáo án cho tiết dạy, một vài cô đã
chú ý đến khả năng kể chuyện của trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ và một vài
cô đã có thủ thuật cuốn hút trẻ vào tiết học.
11
- Về phía trẻ: Một số trẻ đã biết thực hiện nhiệm vụ học tập của mình, biết chú
ý nghe cô, nghe bạn kể lại truyện và có một vài trẻ kể chuyện có sự sáng tạo
trong ngôn ngữ .
2. Nhược điểm:
- Về phía cô: Các cô soạn giáo án còn rất chung chung, chủ yếu là soạn dựa
vào cuốn “ Chương trình chăm sóc giáo dục và hướng dẫn thực hiện.” Đây là
cuốn sách mang tính chất là phương hướng chỉ đạo chung. Mục đích yêu cầu đặt
ra cho tiết học cũng rất chung chung.
Vì vậy đòi hỏi môic giáo viên khi soạn giáo án cần phải có sáng kiến của mình.
Các cô mới chú ý đến việc ổn định tổ chức lớp và chú ý đến những trẻ mạnh dạn
biết kể lại chuyện mà chưa quan tâm chú ý tới cháu còn nhút nhát và khả năng
tiếp thu kém.
Trong tiết học các cô chưa xác định được với tiết này thì cần sử dụng phương
pháp , biện pháp nào cho phù hợp để giúp trẻ nhận thức tốt.
Khi cô sử dụng biện pháp đàm thoại thì những câu hỏi mà cô dặt ra cong rất
đơn giản, chưa khai thác được khả năng sáng tạo của trẻ.Ví dụ: truyện “ Sơn
Tinh- Thủy Tinh” Cô hỏi? Bỗng nhiên có mấy người cùng một lúc đến xin thi
tài ? đó là ai? Nhưng cũng với câu hỏi về ý đồ đó thì có cô lạihỏi cách khác, để
gây kích thích trí tưởng tượng của trẻ và khả năng tái tọa truyện của trẻ bằng
ngôn ngữ của chính bản thân trẻ.

Ví dụ : Cùng một lúc có mấy chàng trai đến xin thi tài? chàng trai đó có tên là
gì? và họ đã trổ tài ra sao?
Nhìn chung các câu hỏi mà cô đặt ra chưa thể hiện được sự gợi mở để trẻ có
thể dẽ hình dung, tưởng tượng và sống với tác phẩm , với câu chuyện thần thoại
mà mình được nghe. Do vậy khi trẻ kể lại truyeenj trẻ cũng chưa có sự sáng tạo,
thậm chí nếu trẻ có thể kể khác đi một chút nhưng nội dung truyện vẫn không
thay đổi thì cô giáo lại uốn nắn để trẻ kể lại giống như trong sách.
Phần đông các cô chưa đặt ra được biện pháp kích thích mọi trẻ đều được tham
gia vào hoạt động học tập. Do đó mà tiết học trở nên nhàm chán và buồn tẻ
không gây được hứng thú cho trẻ.
- Về phía trẻ: Phần đông trẻ chưa chú ý vào tiết học, khả năng kể lại truyện của
trẻ còn kém ( chủ yếu là kể theo kiểu thuộc truyện)
3. Nguyên nhân đẫn đến thực trạng điều tra trên.
Trong quá trình điều tra thực trạng kể lai truyện của trẻ. Tôi có dự các tiết học
của cô giáo trong giờ kể chuyện cho trẻ nghe. Qua các tiết này tôi nhận thấy các
cô đều rơi vào tình trạng kể như thuộc truyện, kể với giọng đều đều và kể lần 1,
lần 2, lần 3 đều như nhau.
Khi kể cử chỉ điệu bộ của cô chưa thể hiện được, ngữ điệu của cô chưa phù
hợp diễn biến câu chuyện, chưa thể hiện rõ giọng điệu của từng nhân vật trong
chuyện, cô kể chưa có sự sáng tạo và chưa được diễn cảm .
12
Khi cho trẻ kể lại truyện cô có sử dụng biện pháp đàm thoại, những câu hỏi đặt
ra chưa phong phú.
Nhìn chung các cô chưa nhìn thấy tầm quan trọng, vị trí vai trò của hoạt động
văn học nghệ thuật. Trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Do vậy mà chưa xem
trẻ không chỉ là một chủ thể tiếp thu mà còn là một chủ thể sáng tạo. Giáo viên
chưa nắm vững được phương pháp ,biện pháp dạy trẻ kể lại truyện. Do đó mà
khi tổ chức cho trẻ hoạt động còn lúng túng và cứng nhắc.
Các cô chưa hiểu rõ vai trò của truyện thần thoại đối với khả năng sáng tạo
của trẻ. Cho nên chưa tạo điều kiện và có được những biện pháp nâng cao khả

năng làm việc độc lập sáng tạo của trẻ, giúp trẻ hứng thú trong tiết học.
Trương mẫu giáo là môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn
diện. Vì trẻ có khả năng tự hoạt động nghệ thuật sáng tạo. Cách thức tổ chức tiết
học ở trường mẫu giáo cũng có vai trò rất lớn trong quá trình giáo dục trẻ. Tổ
chức làm sao để phat huy được ở trẻ tích cực độc lập sáng tạo trong mọi hoạt
động, nhất là hoạt động văn học nghệ thuật .
Qua việc điều tra sư bộ thực trạng trong việc tổ chức cho trẻ kể lại truyện thần
thoại ở một trường mầm non, kết hợp với khả năng phát triển của trẻ. Tôi thấy
rằng cần thiết phải có các biện pháp để giáo viên sử dụng linh hoạt trong việc tổ
chức cho trẻ kể lại truyện. Kích thích trẻ kể sáng tạo và phát huy tính tích cực
của tư duy và khả năng tự hoạt động nghệ thuật của trẻ.
CHƯƠNG III: CÁC BIỆN PHÁP MỚI ĐÃ THỰC HIỆN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ QUAN NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO: là bất cứ hoạt động nào của con
người, tạo ra một cái gì mới không kể rằng cái được tạo ra ấy là một vật nào đó
của thế giới bên ngoài hay một cấu tạo nào đó của trí tuệ hoặc tình cảm, chỉ sống
và biểu lộ trong bản thân con người.
Bộ não không chỉ là một cơ quan giữ lại và tái hiện kinh nghiệmcũ của chúng
ta. Nó còn là cơ quan phối hợp chỉnh lý một cách sáng tạo và xây dựng lên
những tình thế mới và hành vi mới bằng những yếu tố của kinh nghiệm cũ đó.
Nếu như hoạt động của con người chỉ hạn chế ở việc tái hiện cái cũ thì con
người chỉ là một sinh vật chỉ hướng về quá khứ và chỉ biết thích ứng với tương
lai trong chừng mực mà cái tương lai đó tái hiện cái quá khứ này. Chính hoạt
động sáng tạo của con người đã làm cho con người trở thành một sinh vật
hướng về tương lai của mình.
Hoạt động sáng tạo dựa trên năng lực phối hợp của bộ náo chúng ta dược khoa
học tâm lý gọi là tưởng tượng. Thường thường nói đến tưởng tượng hoặc huyền
tưởng ta không hoàn toàn hiểu đúng từ những từ đónhư chúng ta đẫ hiểu được
trong khoa học. Theo thói quen sử dụng hàng ngày ta thường gọi tưởng tượng
13
hay huyền tưởng là tất cả những gì không có thực, không phù hợp với hiện

thực. Do đó không thể có một ý nghĩa thực tế nghiêm chỉnh nào. Nhưng thực ra
trí tưởng tượng là cơ sở của bất cứ hoạt động sáng tạo nào biểu hiện hoàn toàn
như nhau trong mọi phương diện của đời sống văn hóa. Nó làm cho một sáng
tạo nghệ thuật khoa học và kỹ thuật có khả năng thực hiện.
Theo quan điểm thông thường thì sáng tạo là lĩnh vực của một số ít người,
những thiên tài, những tài năng đã sáng tác ra những tác phẩm vĩ đại. Tìm ra
những phát minh khoa học lớn hoặc nghĩ ra một cải tiến nào đó trong kỹ thuật ở
đây tôi nhất trí với quan điểm của Vưgôtxki “ Sáng tạo thực ra không chỉ có ở
những nơi tạo ra sản phẩm lịch sử vĩ đại mà ở khắp nơi nào dù có con người
tưởng tượng ,phối hợp, biến đổi ra một cái gì mới, dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa
so với sáng tạo của những bậc thiên tài”. “Tuyệt đại đa số những phát minh là do
những người vô danh làm ra. Như thế một quan điểm khoa học về vấn đề này
buộc ta phải xem xét sự sáng tạo là một qui luật hơn là một ngoại lệ”. Tất nhiên
những biểu hiện cao nhất của sáng tạo cho đến nay vẫn là một số ít thiên tài
chọn lọc trong nhân loại, nhưng trong đời sống hàng ngày xung quanh ta sáng
tạo là một điều kiện cần thiết của sự tồn tại và tất cả những gì vượt qua ngoài
khuôn khổ cũ dù chỉ một nét của cái mới thì nguồn gốc phát minh của nó đều do
quá trình sáng tạo của con người.
Đối với trẻ mẫu giáo hoạt động sáng tạo được thể hiện trong mọi hoạt động:
hoạt động vui chơi, hoạt động học tập…
Trong hoạt động học tập, sự sáng tạo được thể hiện ngay trong quá trình học
mà chúng ta có thể quan sát được qua hoạt động, qua diễn đạt ngôn ngữ của trẻ,
Đặc biệt nó được thể hịên rõ nhất thông qua hoạt động văn học nghệ thuật ở trẻ
như : đọc , thơ, kể chuyện, đóng kịch…
2. Kể lại truyện một cách sáng tạo có thể được quan niệm như sau:
Vẫn giữ nguyên nội dung cốt truyện, làm phong phú cốt chuyện hay nói cách
khác kể chuyện sáng tạo không làm biến dạng thần thoại. Sáng tạo không có
nghĩa là sáng tạo ra một văn bản thần thoại mới mà căn cứ vào những yếu tố
động, Biến đổi của truyện để sáng tạo trong kể. Sáng tạo trong diễn đạt ngôn
ngữ kể làm câu chuyện thêm sinh động, hấp dẫn hơn những nội dùn cốt chuyện

thì không thay đổi.
Như vậy ở đè tài này tôi nhằm hệ thống hóa những biện pháp và xây dựng
một số biện pháp mới dựa trên các phương pháp chung cơ bản cho trẻ làm quen
với tác phẩm văn học : Trao đổi, gợi mở, sử dụng các phương tiện đồ dùng trực
quan…giúp trẻ sáng tạo truyện thần thoại dân gian làm cho câu chuyện thêm
phong phú về hình thức, sâu sắc về nội dung và nâng cao hiệu quả giáo dục ,
sáng tạo gắn với hoạt động kể. Do đó sáng tạo được giới hạn trong hoạt động
của chủ thể và được thể hiện trong quá trình vận động những đặc trưng thi pháp
14
của thần thoại dân gian. Mức độ sáng tạo được thể hiện ở chỗ: làm biến đổi, làm
khác, làm mới ít nhiều bản kể.
II/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ KỂ LẠI TRUYỆN SÁNG TẠO:
Một trong những vấn đề quan trọng nhất của giáo dục học mẫu giáo cũng như
tâm lý học mẫu giáo là vấn đề sáng tạo ở trẻ. Sự phát triển năng lực sáng tạo và
ý nghĩa của công việc sáng tạo đổi mới, sự phát triển chung và sự trưởng thành
của trẻ.
đẻ thực hiện được vấn đề quan trọng của giáo dục học mẫu giáo chúng ta cần
hoàn thiện cách thức tổ chức tiết học và vận dụng các biện pháp thích hợp để
kích thích tính tích cực tư duy, tưởng tượng nghệ thuật và khả năng sáng tạo
trong tiết học “ Dạy trẻ kể lại truyện thần thoại” ở lớp mẫu giáo lớn.
Theo từ điển tiếng Việt “ Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ
thể” như:
Mục đích đề tài đặt ra.ở đề tài này tôi hệ thống hóa và đưa ra một số biện pháp
mới dựa trên những cơ sở khoa học liên ngành, các phương pháp chung cơ bản
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học để giúp trẻ kể lại truyện sáng tạo .
Có nhiều phương pháp , biện pháp có thể sử dụng trong tiết học “ Dạy trẻ kể lại
truyện” ở đây tôi chủ yếu dựa trên 2 phương pháp cơ bản: phương pháp trao đổi
gợi mở, và phương pháp sử dụng các hình tượng trực quan.
Trao đổi gợi mở với trẻ về một vấn đề trong tác phẩm văn học, phương pháp
này nhằm kích thích hoạt động nhận thức của trẻ. Nó đòi hỏi phải lôi cuốn trẻ

tham gia trao đổi, bộc lộ suy nghĩ cảm nhận riêng của mình. Nói cách khác đi là
khêu gợi để trẻ bộc lộ cảm thụ của cá nhân tự do, hồn nhiên. Dựa vào phương
pháp trao đổi, gợi mở chúng tôi xây dựng một số biện pháp sau:
1. Biện pháp trao đổi gợi mở bằng hệ thống câu hỏi dựa vào các mốc, sự kiện,
tình tiết chính của chuyện.
Mục đích của biện pháp này là giúp trẻ nhớ lại trình tự côt truyện và kể bằng
ngôn ngữ, trí tưởng tượng sáng tạo của mình.
Ví dụ: Truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” ta có thể trao đổi với trẻ như : Có một
nàng công chúa mà biết bao nhiêu chàng trai muốn được cầu hôn…
Bằng những câu hỏi khái quát gợi mở dần dần trẻ nhớ vào một số mốc, sự kiện
tình tiết để kích thích khả năng tái hiện và sáng tạo ở trẻ như:
Truyện kể về vua Hùng thứ 18 có một người con gái xinh đẹp?
Vua đã mở hội kến rể ra sao?
Cuộc thi tài của Sơn Tinh và Thủy Tinh diễn ra như thế nào?
Ai là người đón được công chúa đi ?
Thủy Tinh đã tức giận như thế nào?
Hai người đã tranh đấu ra sao ?
Ai là người thắng cuộc ?
Bây giờ tháng bảy tháng tám hàng năm thiên nhiên có hiện tượng gì?
15
2. Biện pháp sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung
tâm.
Hoạt động nhân vật trong truyện là nội dung cốt truyện. Cô giáo có thể trao
đổi với trẻ theo hoạt động của nhân vật chính diện hoặc hoạt động của nhân vật
mà để trẻ tự kể lại những chuỗi hành động của nhân vật mà để trẻ tự kể.
Ví dụ: Truyện “ Sự tích bánh chưng- bánh dầy” cô giáo có thể trao đổi với trẻ
theo hoạt động nhân vật như nhân vật Lang Liêu cô giáo có thể hỏi:
Lang Liêu là người như thế nào?
Lang Liêu đã làm lễ vật gì để để dâng vua cha tế trời đất nhân ngày đầu
năm?

3. Trao đổi với trẻ theo những mô típ giúp trẻ nhớ lại nội dung cốt truyện và
kích thích trẻ kể lại truyện có sáng tạo.
Ví dụ: Truyện “Sơn Tinh –Thủy Tinh” cô giáo có thể trao đổi theo một mô
típ như:
Mô típ: thử tài
Mô típ: trổ tài
Mỗi mô típ cô giáo có thể trao đổi với trẻ theo những câuhỏi khác nhau.
Mô típ thử tài:
Thủy Tinh ra oai như thế nào?
Sơn Tinh ra oai làm phép gì?
4. Trao đổi với trẻ theo hệ thống các câu hỏi hướng vào các yếu tố thần kỳ.
Tùy đối tượng trẻ mà ta đặat câu hỏi sao cho phù hợp. Tuy nhiên câu hỏi phải
luôn kích thích sự sáng tạo trong diễn đạt ngôn ngữ và hoạt động kể của trẻ.
Ví dụ : Truyện “ Sơn Tinh- Thủy Tinh” Yếu tố thần kỳ là phép lạ cuả Thủy
Tinh.
Với trẻ kém cô giáo có thể hỏi:
Thủy Tinh ra oai như thế nào?
Trên đay là một số biện pháp dựa vào phương pháp trao đổi gợi mở để dạy trẻ
kể lại truyện. Tuy nhiên tùy từng tiết học và đối tượng trẻ mà cô giáo sử dụng
cho phù hợp để luôn gây hứng thú đối với trẻ. Kích thích khả năng kể lại truyện
có sáng tạo và phát triển ngôn ngữ mạch lạc, trí tưởng tượng phong phú ở trẻ.
Hình tượng trực quan rất quan trọng đối với trẻ. Bởi tư duy của trẻ chủ yếu là
trực quan hình tượng , bản thân nội dung cốt truyện là những yếu tố gây hứng
thú hấp dẫn và lôi cuốn trẻ, gây cho trẻ hứng thú và thích được tự mình kể
chuyện . Khi có đồ dùng trực quan để minh họa cho câu chuyện mà trẻ kể thì nó
không chỉ giúp trẻ nhớ truyện, kể lại truyện, mà nó còn giúp trẻ kể lại truyện có
sáng tạo.
5. Tranh được sắp sếp theo trình tự cốt truyện:
Cô giáo có thể tiến hành cho trẻ xem lần lượt những bức tranh để trẻ nhớ lại và
kể lại truyện theo trình tự

16
6. Sử dụng tranh không theo trình tự cốt truyện Cô giáo có thể sắp sếp các bức
tranh xen phần kết, phần giữa, phần đầu truyện… Như truyện” Sự tích bánh
chưng bánh dầy”
Lang Liêu dâng lễ vật lên vua cha.
Lang Liêu cùng vợ con làm bánh.
Lang liêu cùng bà con gắt lúa.
7. Sử dụng một hoặc một số bức tranh tiêu biểu để thể hiện nội dung chính của
tác phẩm .
8. Sử dụng sa bàn:
Ví dụ: truyện “ Sơn Tinh Thủy Tinh” Cô giáo có thể hiện sa bàn để giúp trẻ
nhớ lại truyện và trẻ tự kể lại truyện như : Có một dãy núi, một khu biển, mộttòa
lâu đài và một số con vật như voi, gà…
Ngoài ra ta còn có thể sử dụng 1 số biện pháp khác để đưa trẻ vào tự hoạt động
văn học nghệ thuật cụ thể là: trẻ tự kể truyện và tự kể có sự sáng tạo .
Cô kể 1 đoạn diễn cảm , kích thích trẻ nhớ lại truyện để trẻ kể tiếp.
Cho trẻ nhận xét bạn kể, khích lệ trẻ thi đua kể hay hơn bằng hệ thống ngôn
ngữ của mình.
Khi trẻ kể cô giáo luôn chú ý, khêu gợi hớng thú và khả năng tích cực tư duy
sáng tạo của trẻ. bạn kể đã hay chưa? Vì sao? Bạn kể hay nhất đoạn nào? Cháu
có thích đoạn bạn vừa kể không? tại sao?
Tất cả các biện pháp cô giáo đều luôn luôn phải hướng trẻ thi đua để trẻ kể hay
hơn, bằng cách cho trẻ hướng vào ngôn ngữ trong kể chuyện sáng tạo vào những
đặc điểm thi pháp của truyện thần thoại, sáng tạo trong hoạt động kể( cử chỉ,
điệu bộ trên nét mặt, ánh mắt, sự giao tiếp với người nghe để bộc lộ thái độ tình
cảm với người kể) Sáng tạo trong diễn cảm lời kể cho phù hợp với nội dung.
Đặc biệt là chú ý hướng trẻ sáng tạo các chi tiết làm phong phú truyện.
Vậy việc dạy trẻ kể lại truyện thần thoại có sáng tạo có thể sử dụng kết hợp hài
hòa, hợp lý các biện pháp trên. Tuy nhiên không phải tiết nào cô cũng sử dụng
hết các biện pháp đó mà cô phải sử dụng linh hoạt và thay đổi biện pháp trong

các tiết học cho phù hợp với khả năng của trẻ.
CHƯƠNG IV
HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN
I/ Thực nghiệm :
1. Địa bàn thực nghiệm : Trường mầm non Hạ Long- Thành phố Hạ Long-
tỉnh Quảng Ninh. Nơi mà địa bàn chủ yếu phần đông là công nhân và nội trợ
buôn bán.
2. Yêu cầu đối với thực nghiệm .
- Chia 2 nhóm đối tượng.
+ Nhóm đối chứng (20cháu)
17
+ Nhóm thực nghiệm (20 cháu)
- Trẻ ở hai nhóm này có cùng trình độ.
- Nội dung bài dạy như nhau
- Biện pháp sử dụng khác nhau.
- Các yếu tố tâm lý tương đương.
3. Tiêu chí đánh giá kết quả thực nghiệm: Gồm 4 mức độ
- Mức độ 1: Trẻ có thể tái tạo lại truyện hoàn toàn bằng trí nhớ, ngôn ngữ và trí
tưởng tượng của trẻ.
- Mức độ 2 : Trẻ bước đầu biết sáng tạo ở mỗi số các chi tiết hoặc sáng tạo ở
hành động nhân vật, ở ngôn ngữ kể truyện… cho phong phú gây ra sự hồi họp
đối với người nghe.
- Mức độ 3 : Trẻ nhớ trình tự nội dùn truyện, thuộc truyện.
- Mức độ 4 : Trẻ không nhớ được truyện
4. Tiến hành thực nghiệm :
4.1 Mục đích thực nghiệm
Sử dụng một số biện pháp tổ chức cho trẻ kể lại truyện có sáng tạo ở lớp mẫu
giáo lớn để xem kết quả biểu hiện như thế nào?
4.2. Nội dung thực nghiệm : Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài tôi tiến hành hai
thực nghiệm sau:

Thực nghiệm 1: Dạy trẻ kể lại truyện :
“ Sơn Tinh Thủy Tinh”
Thực nghiệm 2: Dạy trẻ kể lại truyện:
“ Sự tích bánh chưng bánh dầy”
4.2.1 Những điều cần chú ý trước khi tổ chức cho trẻ kể lại truyện.
- Xác định mục đích yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục cần đạt trong tiết học.
- Đề ra một số biện pháp tổ chức.
- Theo dõi mức độ kêt lại chuyện sáng tạo của trẻ qua 2 thực nghiệm
Mục đích yêu cầu chung.
- Trẻ kể được chuyện “ Sơn Tinh Thủy Tinh” “ Sự Tích bánh chưng bánh
dầy”
- Trẻ hứng thú tự nguyện, tích cực có nhiều sáng tạo trong khi kể.
- Giáo dục trẻ tình cảm thẩm mỹ , tình cảm đạo đức, tính kiên trì, sự nỗ lực
của bản thân để hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
- Rèn luyện kỹ năng kể diễn cảm và khả năng ghi nhứ coa chủ định ở trẻ.
- Phát triển ở trẻ tính tích cực tư duy, tính độc lập sáng tạo , trí tưởng tượng
, ngôn ngữ mạch lạc và khả năng tự hoạt động nghệ thuật .
4.2.2. Một số biện pháp trong hai thực nghiệm : như đá trình bày ở ( chươngIII)
tôi tiến hành thực nghiệm với những biện pháp sau:
Biện pháp 1 : Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào
các mốc, sự kiện, tình tiết của truyện
18
Biện pháp 2: Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung
tâm.
Biện pháp 3 : Trao đổi bằng hệ thống câu hỏi hướng vào yếu tố thần kỳ.
Biện pháp 4 : Sử dụng một hoặc một số bức tranh tiêu biểu thể hiện nội dùn
chính của tác phẩm .
biện pháp 5 : Cô kể một đoạn diễn cảm , kích thích trẻ nhớ lại truyện để trẻ kể
tiếp.
Biện pháp 6 : Sử dụng sa bàn.

biện pháp 7 : Cho trẻ nhận xét bạn kể, khích lệ trẻ thi dua kể hay hơn bằng hệ
thống ngôn ngữ của mình.
Trên đay là một số biện pháp mà tôi sử dụng trong thực nghiệm . Tuy nhiên
không nhất thiết phải sử dụng đầy đủ các biện pháp mà tùy vào từng thực
nghiệm, tùy khả năng của trẻ mà cô sử dụng biện pháp nào cho phù hợp để luôn
kích thích trẻ kể lại truyện có sáng tạo .
4.2.3. Mô tả thực nghiệm .
- Giáo án: Thực nghiệm 1: “Sơn Tinh Thủy Tinh”
* Mục đích yêu cầu.
Trẻ tự kể lại bằng trí nhớ, bằng ngôn ngữ và trí tưởng tượng của trẻ
Trẻ say sưa tích cực có nhiều sáng tạo trong khi kể.
Giáo dục trẻ.
* biện pháp sử dụng trong thực nghiệm .
- Trao đổi gợi mở với trẻ bằng hệ thống câu hỏi dựa vào các tình tiết của
truyện.
- Sử dụng một số bức tranh tiêu biểu thể hiện nội dung chính của tác phẩm .
- Cô kể diên cảm một đoạn, kích thích trẻ nhớ lại truyện và trẻ kể tiếp.
* Đồ dùng: một số bức tranh
- Tranh: Tòa lâu đài và nhà vua cùng các cô gái
Nhà vua cùng hai chàng trai.
Tranh Sơn Tinh đem lễ vật và rước công chúa đi
Tranh Thủy Tinh nổi giận gây sóng gió…
* Tiến hành:
- ổn định tổ chức
Cô kể diễn cảm 1 đoạn kích thích trẻ nhớ lại truyện để kể tiếp.
“ Thủa xưa vua Hùng Vương thư 18 có một người con gái rất xinh đẹp. Vua
muốn con gái của mình vua muốn con gái của mình lấy 1 chàng rể phải hiện
lành và tài giỏi. Do đó vua truyền lệnh mở hội kén rể cho con gái, nghe thế các
chàng trai khắp nơi nô nức kéo về kinh đo thi tài, biết bao chàng trai tuấn tú vô
nghệ tài ba lần lượt xin ra trổ tài, nhưng mãi vua vẫn chưa ưng chọn ai. Ông thất

vọng quá thế rồi bỗng nhiên có hai chàng trai cùng một lúc tiến vào xin thi tài”
19
Bạn nào cho cô biết cô vừa kể một đoạn trong câu chuyện gì? Bận nào giỏi lên
kể tiếp chuyện này cho cô và các bạn cùng nghe. Rất nhiều trẻ hững thú giơ tay
lên kể tiếp. Nhưng do trẻ còn rất lúng túng cách diến đạt ngôn ngữ và hành
động ( cử chiư, điệu bộ, nét mặt…) nên tôi tiếp tục sử dụng câu hỏi gợi mở với
trẻ bằng các hệ thống câu hỏi dựa vào các tình tiết của truyện.
+ Hai chàng trai có tên là gì?
+ Thủy tinh đã ra oai như thế nào? ( gây sấm sét đùng đùng, mây tuôn gió nổi,
bốn bề nước đổ, trời đất tối tăm…)
+ Sơn Tinh khoan thai làm gì? ( Vẫy tay hóa phép, dời núi, đổ cây, phá rừng
vung đất chống lại trận nước dâng lên của Thủy Tinh… Sơn Tinh giơ gậy thần
chỉ bốn phương lập tức cảnh vật trở lại bình thường, trời trong, sông lặng. Cây
cỏ xanh tươi)
+ Hai người đều tài giỏi vua đã ra điều kiện gì? “ Rạng sáng mai, ai đem của
lạ vật quí đến trước ta sẽ gả con gái cho người ấy”
+ Ai là người đến trước? (Sơn Tinh)
+ Thủy Tinh đã tức giận ra sao? ( Dâng nước lên bao vây núi, suốt ngày đêm,
đất trời đen tối, mưa gió mịt mùng…)
+ Sơn Tinh như thế nào? ( Bình tĩnh chống lại Thủy Tinh)
+ Cuối cùng như thế nào? ( Thủy Tinh Thua cuộc rút quân về…)
+ Và hàng năm cứ khoảng thánh 7, tháng 8 thì sao? ( Thủy Tinh lại dâng nước
đánh Sơn Tinh…)
Bạn nào lên kể lại truyện cho cả lớp cùng nghe? ( Có rất nhiều trẻ giơ tay- tôi
gọi trẻ lên kể). Có trẻ dã biết kể sáng tạo và sau khi bạn kể xong tôi cho trẻ
nhận xét bạn kể.
+ Bạn kể đã hay chưa? Vì sao? Cháu thích đoạn nào trong truyện? Cháu kể
đọn đó cho cô và các bạn cùng nghe. Cháu cố gắng kể khác và hay hơn bạn. Cô
thấy các bạn kể hay rồi nhưng giọng điệu của bạn còn chưa đúng. Lần sau các
con kể đoạn này cố gắng thể hiện đúng giọng của nhân vật như giọng của Thủy

Tinh thí bực tức, giận dữ…
Các bạn đã kể haảnồi những cô thấy lớp mình còn nhiều bạn có thể kể hay hơn
nữa. Bây giờ ai kể lại nào? Lúc này tôi gọi trẻ giư tay lên kể. Khi gọi cháu lên
chỉ kể được một đoạn dầu ( từ đầu đến…đó là Sơn Tinh- Thủy Tinh) . Tôi đã sử
dụng biện pháp : dùng câu hỏi gợi mở.
+ Các bạn vừa kể lại truyện gì? ( Sơn Tinh- Thủy Tinh)
+ Trong truyện có những nhân vật nào? ( Vua Hùng Vương, công chúa, Sơn
Tinh, Thủy Tinh…)
+ Nhà vua tổ chức mở hội gì?
+ Ai là người được Vua Hùng chọn thi tài?
+ Họ thi tài ba như thế nào? ( Thủy Tinh ra oai gây sấm sét, gió nổi… Sơn
Tinh Khoan thai chống trả lại bằng cách hóa phép, rời núi…) Trẻ tự kể lại
20
Tôi đã chú ý kết hợp các biện pháp để kích thích mỗi trẻ đều tham gia vào hoạt
động kể. Sau đótôi sử dụng biện pháp dùng tranh tiêu biểu để cho trẻ nhớ lại
truyện và tự kể. Trên đây có 1 bức tranh lớp mình xem đó là tranh gì?
Từ những bức tranh trên đây bạn nào có thể kể lại truyện theo nội dung của
bức tranh cho cô và cả lớp cùng nghe. ( Một trẻ lên kể: trẻ kể say xưa, hào hứng,
trí tưởng tượng của trẻ thả sức bay bổng. Có trẻ đã tái tạo lại chuyện hoàn toàn
bằng ngôn ngữ và trí nhớ của mình)
Nhận xét: Trẻ học rất sôi nổi, hào hứng, có nhiều sáng tạo trong khi kể. Những
trẻ nhút nhát, trẻ học yếu thì mạnh dạn hơn và trẻ cũng đã tự kể lại được một
đoạn của truyện. Khi kể trẻ đã kể sáng tạo dựa vào thi pháp, thời gian không
gian, công thức nghệ thuật … và sáng tạo trong hoạt động kể. Có cháu đã sáng
tạo ở tri tiết cuối của truyện kể làm phong phú truyện.
Thực nghiệm 2:
Truyện: “ Sự tích bánh chưng bánh dầy”
* Mục đích yêu cầu:
- Trẻ nhớ được các tình tiết truyện trong cốt truyện với những sự kiện hành
động, tình hướng, mô típ, các nhân vật trong truyện.

- Trẻ kể lại truyện một cách diễn cảm , sáng tạo mạch lạc, độc lập, tự tin dưới
sự tổ chức, hướng dấn của cô giáo trên tiết học.
- Giáo dục trẻ hiểu được phong tuch tập quán của dân tộc
* Biện pháp sử dụng trong thực nghiệm .
- Sử dụng câu hỏi trao đổi với trẻ theo hành động nhân vật trung tâm
- Sử dụng một số bức tranh tiêu biểu theo cốt truyện.
Ngoài ra tùy đối tượng trẻ mà cô có thể sử dụng them những biện pháp khác hỗ
trợ để làm sao kích thích trẻ tích cực và kể sáng tạo , kích thích được nhiều trẻ
tham gia hoạt động kể.
* Đồ dùng: một số bức tranh
Tranh ngày tết có bánh chưng bánh dầy, tranh vua Hùng Vương cùng dân làng,
tranh Lang Liêu gặt lúa ngoài đồng, tranh cùng vợ con giã bột làm bánh, tranh
Lang Liêu đem bánh đến dâng vua.
* Tiến hành: ổn định lớp.
Cô cho trẻ xem tranh và trò chuyện với trẻ, ngày tết mỗi nhà đều gói bánh
chưng, có nhà còn giã cả bánh dầy nữa.
Vậy ai là người đầu tiên nghĩ ra hai loại bánh này?
( hoàng tử Lang Liêu) truyện này có tên là gì?
( Sự tích bánh chưng, bánh dầy). Bạn nào lên kể lại truyện cho cô và các bạn
cùng nghe. Cô cho trẻ nhận xét bạn kể và khích lệ trẻ kể hay hơn. ( bạn kể đã
hay chưa?) Cho trẻ kể từng đoạn sau đó mới cho một trẻ lên kể lại toàn bộ câu
chuyện. Rất nhiều trẻ giơ tay và trẻ rất hào hứng, tôi gọi 1 cháu giơ tay lên kể
21
sau đó lại mời cháu tiếp theo lên kể lại và kết hợp sử dụng biện pháp câu hỏi
trao đổi với trẻ.
+ Ai là người nghĩ ra cách làm bánh chưng bánh dầy?
+ Hoàng tử Lang Liêu là người như thế nào?
+ Phong tục của nhân dân ta , tết đến làm gì?
Cứ như vậy gợi cho trẻ nhớ dần và trẻ tự kể lại. Khi trẻ đã kể xong cô nhận xét.
Sau đó gọi trẻ khác lên kể và khích lệ trẻ bằng việc sử dụng biện pháp :

Sử dụng tranh không theo trình tự cốt truyện, kết hợp câu hỏi trao đổi với trẻ
và cho trẻ sắp xếp lại các bức tranh theo trình tự nội dung cốt truyện. Trẻ vừa kể
vừa chỉ vào tranh. Khi sử dụng biện pháp này trẻ rất say sưa, hào hứng và kể rất
sáng tạo .
Ví dụ: ở đoạn đầu có thể kể “ Ngày xửa ngày xưa các con của vua Hùng
Vương thứ sáu. Trong đó có một người tên là Lang Liêu. Còn các chàng trai này
ai cũng văn hay và võ giỏi. Nhưng các chàng trai lại không thích lao động, Chỉ
có Lang Liêu là chăm chỉ hiền lành , anh đã đem vự con về quê để làm việc
đồng áng cùng với các cô các bác nông dân, rất vất vả để nuôi mình và vợ con.
Một hôm vào dịp cuối năm nhà Vua mời đông đủ bà con đến bảo. đến ngày hội
lớn đầu năm, ai tìm được của ngon vật lạ nhất đem về tế trời đất thì sẽ được ta
nhường ngôi cho. đến đoạn đó cô cho trẻ xem tranh có nhà vua cùng mọi người
và hỏi trẻ:
+ Bức tranh vẽ cảnh gì? ( Mọi người đến nghe nhà Vua truyện tin)
Tiếp tục tới ngày hội lớn mọi người mọi người đem của ngon vật lại các nơi đến
đông đủ… Hai thứ bánh của Lang Liêu tuy đơn giản nhưng đã được nhà Vua
cho mọi người nếm thử và ai cũng khen bánh có vị ngon, hương lạ mà lại có ý
nghĩa sâu xa và nó đúng là thứ qúi nhất và cuối cùng Lang Liêu dã được nhà
Vua truyền ngôi cho ông đặt tên cho hai thư bánh đó là bánh chưng – bánh dầy.
Nhận xét: Khi đưa các biện pháp trên vào tiết học tôi thấy trẻ rất thích thú khi
được lên kể truyện. Không khí lớp học sôi nổi, không gò bó trẻ và khi kể thì
bằng tưởng tượng của mình mà trẻ kể truyện này có sự sáng tạo .
II/ Phân tích kết quả thực nghiệm:
Sau khi đưa một số biện pháp vào hai thực nghiệm ta đã thu được kết quả sau:
STT Mức độtiêu
biểu
Nhóm thực nghiệm Nhóm đối chứng
1 Mức độ 1 20% %
2 Mức độ 2 60% 5%
3 Mức độ 3 15% 65%

4 Mức độ 4 5% 30%
22
PHẦN III : Kết luận và kiến nghị
I. Kết luận:
Những biện pháp để dạy trẻ kể lại truyện một cách sáng tạo được xây dựng trên
cơ sở các khoa học liên ngành. Tuy nhiên việc sử dụng những biện pháp này
tùy từng đối tượng và tùy từng nội dung bài dạy mà đòi hỏi giáo viên phải biết
kết hợp cho linh hoạt, hợp lý. Tức là tất cả những biện pháp ấy không bao giờ
dừng lại ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không
ngừng.
Qua việc tìm kiếm xây dựng tôi thấy đề tài đã thu được những kết quả nhất
định. Những vấn đề thuộc lý luận chung về đặc điểm tâm lý của trẻ giúp ta thấy
rõ khả năng, năng lực của trẻ. Dựa trên các đặ điểm ấy ta hướng tác động phù
hợp làm cho quá trình tâm lý của trẻ ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Qua việc nghiên cứu “ một số biện pháp dạy trẻ 5-6 tuổi kể lại truyện thần
thoại dân gian một cách sáng tạo trê đay. Tôi nhận thấy rằng: Trể 5-6 tuổi hoàn
toàn coa khả năng kể lại truyện sáng tạo . tuy nhiên, để tiết học đạt kết quả cao
đòi hỏi cô giáo :
1- Phải có những hiểu biết lý luận về khoa học liên ngành để có thể vận dụng
biện pháp ,và đề ra những biện pháp phù hợp với đối tượng trẻ, phát huy tính
độc lập sáng tạo ở trẻ.
2- Xuất phát từ khả năng của trẻ cô giáo khuyến khích trẻ thực hiện nhiệm vụ
học tập, không áp đặt gò bó đối với trẻ.
3- Khi rèn luyện kỹ năng kẻ lại truyện cho trẻ cô giáo cần chu ý đến cách diễn
đạt ngôn ngữ , cách thể hiện cử chỉ, điệu bọ… cho phù hợp.
4- Cô giáo phải là người sáng tạo trong hoạt động kể truyện để kích thích trẻ kể
lại truyện một cách sáng tạo
5- Tiết học cô giáo phải tổ chức sao cho tất cả mọi trẻ đều được tham gia hoạt
động kể lại truyện.
6- Cô giáo phải có lòng nhiệt tình, tình thương yêu trẻ, gợi ý động viên để trẻ

phát huy khả năng sáng tạo của mình.
Nếu làm tốt những việc trên, tôi tin rằng năng lực tưởng tượng sáng tạo thông
qua tiết học dạy “ trẻ kể lại truyện” và khả năng tự tham gia vào hạot động văn
học nghệ thuật , thái độ sáng tạo ngôn ngữ ở trẻ sẽ được năng lên một bước
mới. Trẻ mẫu giáo sẽ ngày một thông minh hơn, học tập sau này sẽ tốt hơn.
Như vậy ta đã góp phần không nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ thơ ngay từ
thuở ấu thơ.
Vì điều kiện thời gian có hạn, cũng như năng lực của tác giả còn nhiều hạn chế
nên đề tài không tránh khỏi những điều thiếu sót nhất định. Mong rằng các thầy
cô và các bạn đồng nghiệp góp ý xây dựng đề tài hoàn thiện hơn
• Bài học kinh nghiệm:
23
Mức độ 1:
Trẻ 5-6 tuổi hoàn toàn có khả năng kể lại truyện có sáng tạo. Nếu cô giáo có
biện pháp dạy trẻ kể lại truyện một cách sáng tạo.
Qua 2 thực nghiệm tôi thấy nhóm thực nghiệm kể lại truyện đạt được ở mức
độ 1 đã tăng lên nhiều so với trẻ nhóm đối chứng. Khi được kể trẻ tích cực, say
xưa, trẻ kể bằng ngôn ngữ và trí tưởng tượng của trẻ chứ không phụ thuộc vào
ngôn ngữ văn bản truyện. Trẻ đã thâm nhập vào tác phẩm và khi kể trẻ đã hướng
vào sáng tạo ở không gian, thời gian, công thức nghệ thuật , tình huống để nhân
vật thần kỳ xuất hiện… và đặc biệt có trẻ biết kể thêm chi tiết làm câu chuyện
thêm phong phú.
Mức độ 2 :
So với nhóm đối chứng thì nhóm trẻ thực nghiệm kể lại truyện đạt mức độ này
rất nhiều. Tuy trẻ chưa tái tạo truyện bằng ngôn ngữ và trí nhớ của trẻ một cách
sáng tạo ở các chi tiết làm phong phú truyện.
Thực nghiệm 1: Có cháu kể 2 chàng trai thể hiện tài ba của mình như “Thủy
Tinh ra oai gây sấm sét mưa gió còn Sơn Tinh thì khoàn thai vẫy tay hóa phép
rời núi, đổ cây…” Có cháu kể được đoạn Thủy Tinh không lấy được công chúa
đã nổi giận dâng nước lên để đánh Sơn Tinh…”

Thực nghiệm 2: Có cháu kể được đoạn đầu “ Ngày xửa ngày xưa các con của
Vua Hùng Vương thứ 6. Trong đó có một người tên là Lang Liêu… Ai đem
được …ta sẽ nhường ngội cho …đoạn cuối hai thứ bánh của Lang Liêu đã được
nhà Vua cho dùng để tế trời đất nhân ngày đầu năm và được truyền ngôi…
Mức độ3 :
ở nhóm đối chứng biện pháp sử dụng ( như thực trạng đã nêu ). Do đó rất nhiều
trẻ kể ở mức độ này. Cong nhóm thực nghiệm thì do có biện pháp mà tôi đưa
vào kết hợp với khả năng của trẻ. Trẻ không phụ thuộc vào ngôn ngữ văn bản
của truyện.
Mức độ 4:
Bằng biện pháp mà tôi đã khuyến khích trẻ cùng tham gia kể truyện và kết quả
chỉ còn 1 trẻ là không nhớ truyện so với nhóm đối chứng là 6 trẻ,
Kết luận kết quả thực nghiệm : Qua phân tích và đối chiếu kết quả thực nghiệm
tôi thấy trẻ ở nhóm thực nghiệm đã kể lại truyện thần thoại có nhiều sáng tạo.
Trẻ tích cực tham gia vào hoạt động kể và hứng thú khi được kể truyện. Nhóm
đối chứng thì trẻ còn rất lúng túng trong diến đạt ngôn ngữ và trẻ chủ yếu mới
kể được ở mức độ thuộc truyện.
Tóm lại: Khi đưa ra một số biện pháp thực nghiệm tôi đã thu được kết quả tốt
đẹp. Phần lớn trẻ đã biết kể sáng tạo. Vậy điều đó chứng tổ những biện pháp tôi
xây dựng là phù hợp với khả năng của trẻ. Tuy nhiên để đạt được kết quả đó thì
quá trình kể chuyện cho trẻ nghe cô giáo đã phải tiến hành kể sáng tạo. Trên cơ
sở cho trẻ nghe cô kể nhiều lần có sáng tạo kết hợp với khả năng và biện pháp
24
của cô tổ chức cho trẻ kể sáng tạo. Khi tổ chức cho trẻ” Kể lại truyện một cách
sáng tạo “ Tôi đã chú ý hướng trẻ vào ngôn ngữ và kích thích tính tích cực tư
duy của trẻ và tính độc lập sáng tạo ngôn ngữ mạch lạc và khả năng tự hoạt
động nghệ thuật của trẻ.
II. Kiến nghị:
Để thực hiện tốt đề tài này chúng tôi là những người làm công tác giáo
dục trực tiếp giảng dạy ở những nơi có hoàn cảnh khó khăn, phụ huynh chưa

quan tâm đến tình hình học tập của các cháu. Để trẻ tiếp thu văn học ngày càng
tốt hơn, hứng thú hơn. Rất mong muốn lãnh đạo cấp trên quan tâm nhiều hơn
nữa trong việc bổ sung thêm thiết bị, đồ dùng cho môn văn học nói riêng để trẻ
có thêm nhiều đồ dùng để phục vụ cho tiết dạy.
Bản thân giáo viên chúng tôi sẽ luôn cố gắng và cố gắng hơn nữa làm
thêm đồ dùng đồ chơi, tạo mọi điều kiện để trẻ tiếp thu bài được tốt hơn.
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, mặc dù được sự quan tâm giúp
đỡ của các chị em đồng nghiệp và đặc biệt của BGH. Nhưng không tránh khỏi
những thiếu sót rất mong được sự đóng góp ý kiến của ban lảnh đạo cấp trên và
các bạn đồng nghiệp để sáng kiến ngày càng tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Võ Miếu, ngày 20 tháng 2 năm
2011
Người viết
Hà Thị Minh Tâm
25

×