Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Tóm tắt niên biểu Lịch sử Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.71 KB, 85 trang )

Tóm Tắt Niên Biểu Lịch Sử Việt Nam
Lời giới thiệu
Nhằm đáp ứng yêu cầu tìm hiểu lịch sử nước nhà , xin trân trọng giới thiệu cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt
Nam" do Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin ấn hành, người biên soạn là Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức. Xin đăng toàn
văn "Lời giới thiệu" của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo viết về tài liệu này để bạn đọc tham khảo.
Lịch sử là một khoa học kéo dài theo thời gian, người đọc dễ bị lôi cuốn và chìm trong biết bao sự kiện nối tiếp nhau, đan
xen lớn, nhỏ vô cùng phong phú.
Cuốn sách "Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" do Hà Văn Thư và Trần Hồng Đức biên soạn giúp cho người đọc biết
được tiến trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam một cách xuyên suốt và ngắn gọn.
Ở đây, người đọc có thể nắm bắt được những sự kiện lịch sử quan trọng nhất, những anh hùng dân tộc và những nhân vật
lịch sử có tác động lớn đến sự hình thành và phát triển của Tổ quốc Việt Nam.
"Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam" là một hình thức biên soạn lịch sử tốt, giúp người đọc tìm hiểu lịch sử một cách
nhanh chóng, thuận tiện và dễ hiểu, dễ nhớ mà vẫn trung thực, khoa học.
Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này cùng bạn đọc.
Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân
Thượng tướng Hoàng Minh Thảo
A.Truyền thuyết Kinh Dương Vương họ Hồng Bàng - Lạc Long Quân
- Thời kỳ đồ đá cũ: 300.000 năm trước đây.
(Người vượn Việt Nam: Di tích núi Đọ, Văn hoá Sơn Vi)
- Thời kỳ đồ đá giữa: 10.000 năm trước đây (Văn hoá Hòa Bình)
- Thời kỳ đồ đá mới: 5 000 năm trước đây (Văn hoá Bắc Sơn, Bàn Trò).
TRUYỀN THUYẾT KINH DƯƠNG VƯƠNG HỌ HỒNG BÀNG - LẠC LONG QUÂN
Theo truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc Việt Nam là Kinh Dương Vương, hiện còn có mộ tại làng An Lữ, Thuận
Thành, Bắc Ninh.
Kinh Dương Vương làm Vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công nguyên). Kinh Dương
Vương lấy con gái Thần Long là Vua hồ Động Đình sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi vua cha
niên hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng, một
trăm trứng nở ra một trăm người con trai là tổ tiên của người Bách Việt.
Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật
khó". Bèn từ biệt, chia năm chục người con theo mẹ lên núi , năm chục người con theo cha về phía Nam miền
biển, phong cho con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi.


Hùng Vương lên ngôi Vua, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ), chia nước
ra làm 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh
Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
12. Hoài Hoan (Nghệ An)
13. Cửu Đức (Hà Tĩnh)
14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)
15. Bình Văn (?)
Các đời Vua sau đều gọi là Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng Vương(*) . Đặt các tướng văn gọi là Lạc Hầu,
tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái Vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là
Bồ Chính.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam, còn rất đơn giản, mặc dù
mới hình thành nhưng đã cố kết được lòng người. Từ tình cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ
tình đồng bào ruột thịt. Họ bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh
của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn bản làng, đất nước.
Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết
của cộng đồng các dân tộc Việt.
* Chú thích:
(*) Ngôi Hùng Vương cha truyền con nối 18 đời, kéo dài hơn 2000 năm làm cho nhiều người hoài nghi và có
nhiều cách giải thích khác nhau. Trong truyền thuyết con số 9 và bội số của 9 (18,36 99 ) thường mang tính

chất biểu tượng (số thiêng) chứ không có ý nghĩa toán học. Phải chăng 18 đời vua cũng có ý nghĩa là nhiều đời,
truyền nối lâu dài. Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ
tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương và truyền
thuyết về Sơn Tinh - Thuỷ Tinh.
Phù Đổng Thiên Vương
Vào đời Vua Hùng Vương thứ 6 có giặc Ân rất mạnh, đã thôn tính nhiều nước xung quanh. Chúng kéo sang
xâm lược nước ta. Thế giặc rất mạnh, quan quân không sao chống cự nổi. Nhà Vua cho sứ giả đi rao tìm người
tài giỏi ra giúp nước.
Lúc bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Vũ Ninh có một nhà giàu đã 62 tuổi mới sinh được một con trai, lên ba mà
vẫn chưa biết nói. Cậu bé suốt ba năm chỉ nằm ngửa không tự ngồi hay đứng được.
Khi sứ giả đến làng rao cầu hiền, cậu bé thốt nhiên nói được và xin với cha cho mời sứ giả nhà Vua vào hỏi
chuyện. Khi sứ giả đến, cậu bé xin sứ giả về tâu Vua đúc cho cậu một con ngựa sắt, một thanh kiếm, một cái
nón sắt rồi cậu sẽ ra quân diệt giặc.
Từ khi sứ nhà Vua về làng, cậu bé mỗi ngày một lớn, ăn khoẻ lạ thường. Ngày tháng trôi qua, cậu lớn phổng lên
thành người khổng lồ.
Khi giặc Ân kéo đến chân núi Châu Sơn (thuộc Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thì sứ giả đem ngựa, kiếm và nón sắt
dâng cho cậu. Cậu vươn vai đứng dậy rồi nhảy lên ngựa. Ngựa chạy đến đâu, miệng phun ra lửa đến đó. Cậu
xông vào đội ngũ giặc, sải kiếm chém giặc như chém chuối. Kiếm gẫy, cậu nhổ cả các cụm tre mà đánh giặc.
Không đương nổi sức mạnh thần diệu của chàng trai Phù Đổng, tàn quân giặc quỳ gối xin hàng.
Phá xong giặc Ân, người Anh hùng làng Phù Đổng đi lên đỉnh núi Sóc Sơn, cả người lẫn ngựa bay lên trời. Vua
nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng và sắc phong là Phù Đổng Thiên Vương.
Sơn Tinh - Thủy Tinh
Vua Hùng Vương thứ 18 kén chồng cho con gái là Mỵ Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy Tinh (Thần Nước)
cùng đến cầu hôn. Hùng vương hứa gả con gái cho người nào ngày mai mang lễ vật đến trước. Sơn Tinh đem lễ
vật đến sớm hơn và được đưa Mỵ Nương về núi. Thủy Tinh đến sau nổi giận dâng nước sông lên đánh Sơn
Tinh. Nước dâng lên đến đâu Sơn Tinh làm cho núi đồi cao lên đến đó. Cuối cùng Thủy Tinh thua trận phải rút
nước. Hằng năm, cuộc chiến thường diễn lại.
Truyền thuyết này phản ánh các trận lụt ở lưu vực sông Hồng và việc đắp đê trị thủy của tổ tiên ta có từ xa xưa.
Ngoài ra còn có các truyền thuyết tiêu biểu sau:
Thời đại Hùng Vương có nhiều truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể hiện rõ tinh thần đoàn kết

của cộng đồng các dân tộc Việt. Ngoài các truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương - Thánh Gióng và Sơn
Tinh - Thuỷ Tinh, còn có các truyền thuyết về Bọc trăm trứng, về Bánh Dày - Bánh Chưng, về Dưa hấu, về Chứ
Đồng Tử, về Cột đá thề
Bọc trăm trứng
Vua đầu nước ta - Kinh Dương Vương là cháu bốn đời Viêm Đế Thần Nông - vị thần trông coi nghề nông ở
trên trời). Kinh Dương Vương lấy Thần Long nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đi tuần thú gặp Âu Cơ
ở động Lăng Xương kết làm vợ chồng, đưa về núi Nghĩa Lĩnh. Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở thành trăm
con trai. Khi các con khôn lớn, Lạc Long Quân nói: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, không thể ở lâu với
nhau được". Bèn chia 50 con cho Âu Cơ đem lên núi, còn Lạc Long Quân dẫn 49 người con xuống biển, để lại
người con cả nối ngôi hiệu là Hùng Vương đặt tên nước Văn Lang đóng đô ở thành Phong Châu, truyền được
18 đời đều gọi là Hùng Vương.
Bánh Giày - Bánh Chưng
Vua Hùng thứ 6 muốn chọn con hiền cho nối ngôi, mới ban lệnh thi cỗ. Các hoàng tử ra sức tìm kiếm sơn hào
hải vị bày biện. Riêng Lang Liêu chỉ dùng gạo nếp thơm chế ra bánh giày, bánh chưng. Vua thấy Lang Liêu
hiếu thảo siêng năng, sáng chế ra hai bánh quý bèn truyền ngôi cho làm Hùng Vương thứ 7
Nguồn gốc Dưa hấu
An Tiêm là con nuôi Vua Hùng, nói năng kiêu ngạo, bị đày ra đảo hoang. Vợ chồng An Tiêm chỉ được mang
theo một ít lương thực và con dao phát. Chàng thấy đàn quạ đến đảo ăn thứ quả da xanh lòng đỏ, dây bò trên
mặt đất. An Tiêm lấy một quả ăn thử thấy ngon ngọt khỏe người, bèn trỉa đất rắc hạt trồng khắp đảo. Đến vụ thu
hoạch chàng gọi thuyền buôn vào bán. Vua biết tin liền cho đón về.
Chử Đồng Tử
Công chúa Tiên Dung con Vua Hùng 18 thích du chơi phóng khoáng. Nàng cưỡi thuyền xuôi sông Cái, đến bãi
Tự Nhiên sai căng màn tắm. Không ngờ dội lớp cát trôi lộ ta chàng đánh cá ở trần vùi mình trong hố, tên là Chử
Đồng Tử. Tiên Dung cho rằng duyên trời xe, bèn lấy chàng làm chồng. Vua cha biết tin giận sai quân đến bắt,
thì cả vùng đất cùng Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời.
Cột đá thề
Vua Hùng Vương thú 18 không có con trai, nhường ngôi cho con rể là Nguyễn Tuấn tức là Tản Viên. Thục
Phán là cháu Vua Hùng làm lạc tướng bộ lạc Tây Vu đem quân đến tranh ngôi, xảy ra chiến tranh Hùng - Thục.
Tản Viên khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán. Phán cảm kích dựng hai cột đá trên đỉnh núi Nghĩa
Lĩnh thề rằng sẽ kế tục giữ nước và thờ tự các Vua Hùng.

Phán sai thợ đẽo đá dựng miếu trên núi và cho mời dòng tộc nhà vua đến ở chân núi lập ra làng Trung Nghĩa
giao cho trông nom đền miếu, cấp cho đất ngụ lộc từ Việt Trì trở ngược đến hết địa giới nước nhà. Lại sai dựng
miếu ở động Lăng Xương thờ bà mẹ Tản Viên, cấp đất ngụ lộc cho Tản Viên từ cửa sông Đà trở lên phía Tây
Bắc. Sau đó Thục Phán xưng là An Dương Vương, đóng đô ở Cổ Loa đặt tên nước là Âu Lạc.
B. Nhà Thục (257- 208 trCN) 50 năm, quốc hiệu Âu Lạc, kinh đô Phong Khê (Cổ Loa,
Đông Anh, Hà Nội)
Thục Phán thủ lĩnh của người Âu Việt (phía Bắc nước Văn Lang) hợp nhất với nước Văn Lang của người Lạc
Việt, xưng là An Dương Vương đặt quốc hiệu là nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa (Đông Anh, Hà Nội).
Năm 218 TCN, Tần Thủy Hoàng huy động 50 vạn quân, chia làm 5 đạo, đi chinh phục Bách Việt, chỉ huy đạo
quân Tần là viên tướng lừng danh Đồ Thư. Các Lạc Tướng đã suy tôn Thục Phán là lãnh tụ chung để chỉ huy
cuộc kháng chiến chống quân Tần. Người Việt làm chiến tranh du kích, vườn không nhà trống, bền bỉ kháng
chiến suốt gần 10 năm, đợi khi quân Tần lâm vào tình trạng mệt mỏi, chán nản và khổ sở vì thiếu lương thực và
ốm đau nhiều vì không hợp thủy thổ, lúc đó Thục Phán mới tổ chức phản công quân Tần, bắn chết Đồ Thư. Mất
tướng chỉ huy, quân Tần mở đường máu tháo chạy về nước.
Sau chiến công vĩ đại đánh thắng 50 vạn quân Tần, An Dương Vương tổ chức xây thành Cổ Loa. Thành có 9
vòng, chu vi vòng ngoài 8km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong cùng 1,6 km.
Với vị trí thuận lợi, với cách bố trí thành có 9 lớp, xoáy trôn ốc, thành cao, hào sâu, có các ụ cao khô vượt ra
ngoài lũy để có thể từ cao bắn xuống, với vũ khí nỏ thần và những mũi tên đồng lợi hại, sức mạnh quân sự tổng
hợp của thành Cổ Loa làm cho quân thù khiếp sợ thể hiện trí tuệ quân sự tuyệt vời của tổ tiên ta. Ở ngoại thành
Hà Nội ngày nay, vẫn còn thấy dấu tích 3 lớp thành Cổ Loa thời An Dương Vương.
C.Phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất (207 trCN-39) – Nhà Triệu (207 – 111 trCN)
97 năm, quốc hiệu Nam Việt, kinh đô Phiên Ngung (gần Quảng Châu, Trung Quốc)
Triệu Đà, người Hán, huyện Chân Định, nhân lúc nhà Tần suy loạn giết Trưởng lại của nhà Tần, chiếm giữ đất
Lĩnh Nam, xưng đế đòi ngang với nhà Hán, hưởng nước truyền ngôi được 5 đời gần 100 năm.
Triệu Đà đánh mãi Âu Lạc không được, vì nước ta có thành Cổ Loa kiên cố, có nỏ thần tuyệt diệu.
Sau Triệu Đà dùng mưu hòa hoãn, rồi sai con trai là Trọng Thủy sang ở rể lấy Mỵ Châu, con gái An Dương
Vương. Trọng Thủy lấy cắp lẫy nỏ thần Kim Quy trốn về, rồi Triệu Đà đưa quân sang xâm lược nước ta.
Triệu Đà cướp được nước ta, lập thành nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (ở tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc ngày nay). Từ đó nước ta thuộc Triệu.
1. Triệu Vũ Đế (Triệu Đà, 207-136 trCN):

Triệu Đà sinh năm 256 TCN, lên ngôi Vua năm 207 TCN đến năm 136 TCN thì mất, ở ngôi vua 71 năm, thọ
121 tuổi.
2. Triệu Văn Đế (Triệu Hồ, 136-124 trCN):
Triệu Hồ là con trai Trọng Thủy, cháu nội của Triệu Đà ở ngôi được 12 năm, thọ 52 tuổi.
3. Triệu Minh Vương (Triệu Anh Tề, 124-112 trCN):
Triệu Anh Tề ở ngôi được 12 năm.
4. Triệu Ai Vương (Triệu Hưng, 112-112 trCN):
Triệu Hưng ở ngôi chưa được 1 năm.
5. Triệu Dương Vương (Triệu Kiến Đức, 112-111 trCN):
Triệu Kiến Đức ở ngôi được gần 1 năm.
Năm 113 trCN nội tình nhà Triệu rất rối ren, Vua Hán sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ Nam Việt về hàng.
Thiếu Quý nguyên là tình nhân của Cù Thị (mẹ của An Vương) nên tư thông với nhau và dụ dỗ Ai Vương dâng
nước Nam Việt cho nhà Hán. Tể tướng Lữ Gia đã cùng với một số đại thần đem quân cấm binh vào giết chết sứ
nhà Hán. Cù Thị và Ai Vương tôn Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương lên làm vua. Vũ Đế nhà Hán sai
Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang xâm lược Nam Việt. Tể tướng Lữ Gia
chống không nổi bèn đưa Dương Vương chạy trốn. Quân Hán đuổi theo bắt được. Vua tôi đều bị hại. Nhà Hán
chiếm được Nam Việt, đổi là Giao Chỉ bộ.
D.Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ nhất (207 trCN-39) 246
năm
Nhà Hán chia Giao Chỉ bộ ra làm 9 quận:
Nam Hải (Quảng Đông)
Thương Ngô (Quảng Tây)
Uất Lâm (Quảng Tây)
Hợp Phố (Quảng Đông)
Giao Chỉ (Bắc Bộ)
Cửu Chân (Thanh Hoá)
Nhật Nam (Nghệ Tĩnh)
Châu Nhai (Đảo Hải Nam)
Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam)
Nhà Hán đặt mỗi quận một viên thái thú và viên thứ sử để giám sát các quận. Còn các lạc tướng, lạc hầu vẫn

được giữ nguyên và được cha truyền con nối.
Sử cũ ca ngợi Tích Quang - Thái thú quận Giao Chỉ và Nhâm Diên - Thái thú quận Cửu Chân là những người
có công khai hoá, lấy lễ nghĩa dạy dân.
Đầu năm Giáp Ngọ (34). Vua Quang Vũ nhà Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Tô Định tham
tàn, hà khắc, nhân dân sống trong cảnh vô cùng thống khổ.
E.Trưng Nữ Vương (40 – 43) 3 năm
Kinh đô Mê Linh
Thái thú Tô Định đã giết chết Thi Sách, con quan Lạc tướng Chu Diên, là chồng của Trưng Trắc, con quan Lạc
tướng Mê Linh. Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi dậy đánh đuổi Tô Định phải bỏ chạy về nước. Các
quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp phố cũng nổi lên theo về với Hai Bà Trưng.
Đất nước sạch bóng quân thù, cả nước suy tôn Trưng Trắc lên làm vua là Trưng nữ Vương đóng đô ở Mê Linh.
Trưng nữ Vương ra lệnh miễn thuế khoá cho dân hai năm. Năm Tân Sửu (41). Nhà Hán sai Mã Viện đưa 20 vạn
quân sang xâm lược nước ta.
Trưng nữ Vương và các tướng lĩnh của hai Bà Trưng đã đưa quân ra chống giặc từ biên giới, trước thế giặc rất
hung hãn, quân ta đã anh dũng chiến đấu, các trận chiến ác liệt đã diễn ra ở Lãng Bạc, Đông Triều, Yên Phong,
Hà Bắc. Hai Bà đã thu quân rút về giữ ở Cấm Khê (Thạch Thất - Quốc Oai), hàng vạn người Việt đã ngã xuống
trong các trận chiến ác liệt để bảo về tổ quốc thiêng liêng của mình.
Ngày 6 tháng 2 năm Quý Mão (43), sau khi đã phóng những mũi lao và bắn những mũi tên cuối cùng vào kẻ
thù, Hai Bà Trưng gieo mình xuống dòng sông Hát Giang tuẫn tiết. Cả nước vô cùng thương tiếc, đã lập đền thờ
ghi công đức của hai vị nữ anh hùng của dân tộc.
Chiếm được nước ta, kẻ thù sáp nhập vào Đông Hán. Mã Viện còn cho dựng cây đồng trụ ở chỗ phân địa giới
và cho khắc sáu chữ: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt" (cây đồng trụ đổ, thì người giao Chỉ mất nòi), nhân dân ta
ai qua đó cũng ném một hòn đá vào, dần dần thành gò cao, đến nay không biết cột trụ ở đâu.
Các nữ tướng thời Hai Bà Trưng
Trong lịch sử Việt Nam và lịch sử các dân tộc trên thế giới đã xảy ra một sự kiện lịch sử thật kỳ lạ (và chỉ xảy
ra có một lần), đó là ngay thế kỷ đầu Công nguyên (39-40) dân tộc ta đã theo lời kêu gọi của hai người phụ nữ
trẻ tuổi (Trưng Trắc, Trưng Nhị) và đã tôn nhiều phụ nữ lên nắm quyền lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang để giải
phóng dân tộc, giải phóng đất nước.
Có lẽ do khí thiêng sông núi, do truyền thống bất khuất và tinh thần thượng võ của dân tộc ta mới hun đúc và
sản sinh ra hai vị nữ anh hùng kiệt xuất và hàng chục nữ tướng tài ba như vậy:

Hai Bà Trưng đã được sử sách đời đời ghi chép công ơn, còn hơn hai mươi nữ tướng của Hai Bà Trưng tài ba
lỗi lạc tuy chưa được ghi trong chính sử, song sự tích kỳ tài của các nữ tướng anh hùng đó đã được tạc trên bia
đá, ghi vào thần phả và được nhân dân ta đời đời truyền tụng.
Chúng tôi xin giới thiệu danh sách các vị nữ anh hùng đó để minh họa cho sự kiện lịch sử đặc biệt oanh liệt
dưới thời Hai Bà Trưng.
1.Thánh Thiên - nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa Yên Dũng, Bắc Đái - Bắc Giang. Được Trưng Vương phong
là Thánh Thiên Công chúa. Hiện có đền thờ ở Ngọc Lâm, Yên Dũng, Bắc Ninh.
2. Lê Chân - nữ tướng miền biển: Khởi nghĩa ở An Biên, Hải Phòng, được Trưng Vương phong là Nữ tướng
quân miền Biển. Hiện có đền Nghè, ở An Biên, Hải Phòng thờ.
3. Bát Nạn Đại tướng: Tên thực là Thục Nương, khởi nghĩa ở Tiên La (Thái Bình), được Trưng Vương phong
là Bát Nạn Đại tướng, Trinh Thục công chúa. Hiện có đền thờ ở Phượng Lâu (Phù Ninh, Phú Thọ) và Tiên La
(Quỳnh Phụ, Thái Bình).
4. Nàng Nội - Nữ tướng vùng Bạch Hạc: Khởi nghĩa ở xã Bạch Hạc (thành phố Việt Trì, Phú Thọ ngày nay)
được Trưng Vương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thủy Công chúa. Hiện thành phố Việt Trì có đền thờ.
5. Lê Thị Hoa - Nữ tướng anh hùng: Khởi nghĩa ở Nga Sơn (Thanh Hóa) được Trưng Vương phong là Nữ
tướng quân. Hiện ở Nga Sơn, Thanh Hóa có đền thờ.
6. Hồ Đề - Phó Nguyên soái: Khởi nghĩa ở Động Lão Mai (Thái Nguyên), được Trưng Vương phong là Đề
Nương công chúa lãnh chức Phó nguyên soái. Đình Đông Cao, Yên Lập (Phú Thọ) thờ Hồ Đề.
7. Xuân Nương, Trưởng quản quân cơ: Khởi nghĩa ở Tam Nông (Phú Thọ), được Trưng Vương phong làm
Đông Cung công chúa chức Nhập nội trưởng quản quân cơ nội các. Hiện có đền thờ ở Hưng Nha (Tam Nông),
Phú Thọ.
8. Nàng Quỳnh - Nàng Quế tiên phong phó tướng: Khởi nghĩa ở Châu Đại Man (Tuyên Quang), được Trưng
Vương phong làm tiên phong phó tướng. Hiện ở Tuyên Quang còn miếu thờ hai vị nữ anh hùng.
9. Đàm Ngọc Nga - tiền đạo tả tướng: Khởi nghĩa ở Thanh Thuỷ, Thanh Sơn, Phú Thọ được Trưng Vương
phong là Nguyệt Điện Tế thế công chúa giữ chức Tiền đạo tả tướng quân.
10. Thiều Hoa - Tiên phong nữ tướng: Khởi nghĩa ở Tam Thanh, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là
Đông Cung công chúa giữ chức Tiên phong hữu tướng. Hiện ở xã Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ có miếu thờ.
11. Quách A - Tiên phong tả tướng: Khởi nghĩa ở Bạch Hạc, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Khâu Ni
công chúa giữ chức tả tướng tiên phong. Hiện có đền thờ ở trang Nhật Chiêu (Phú Thọ).
12. Vĩnh Hoa - nội thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Tiên Nha (Phú Thọ). Được Trưng Vương phong là Vĩnh Hoa

công chúa giữ chức nội thị tướng quân. Đình Nghênh Tiên, xã Nguyệt Đức, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc thờ
Vĩnh Hoa.
13. Lê Ngọc Trinh - Đại tướng: Khởi nghĩa ở Lũng Ngòi, Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc. Được Trưng Vương phong
là Ngọc Phượng công chúa giữ chức Đại tướng quân. Hiện có miếu thờ ở Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.
14. Lê Thị Lan - Tướng quân: Khởi nghĩa ở Đường Lâm - Sơn Tây. Được Trưng Vương phong là Nữ tướng
quân. Hiện ở Hạ Hoà, Vĩnh Phúc có miếu thờ.
15. Phật Nguyệt- Tả tướng thuỷ quân: Khởi nghĩa ở Thanh Ba, Phú Thọ. Được Trưng Vương phong là Phật
Nguyệt công chúa giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân.
16. Phương Dung - nữ tướng: Khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh). Được Trưng Vương phong là Phương Dung
công chúa giữ chức nữ tướng quân.
17. Trần Nang - Trưởng Lĩnh trung quân: Khởi nghĩa ở Thượng Hồng (Hải Dương). Được Trưng Vương
phong là Hoàng công chúa giữ chức Trưởng lĩnh trung quân. Hiện ở Yên Lãng, Vĩnh Phúc có đền thờ.
18. Nàng Quốc - Trung dũng đại tướng quân: Khởi nghĩa ở Gia Lâm - Hà Nội. Được Trưng Vương phong là
Trung Dũng đại tướng quân. Hiện ở Hoàng Xá, Kiêu Kỵ, Gia Lâm thờ nàng Quốc.
19. Tam Nương - Tả đạo tướng quân: Ba chị em Đạm Nương, hồng Nương và Thanh Nương khởi nghĩa ở
Quất Lưu, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Trưng Vương phong Đạm Nương làm Tả đạo tướng quân. Hồng Nương và
Thanh Nương làm phó tướng. Đình Quất Lưu, Vĩnh Phúc thờ Tam Nương.
20. Quý Lan - Nội thị tướng quân: Khởi nghĩa ở Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương). Được Trưng Vương
phong là An Bình công chúa giữ chức nội thị tướng quân. Hiện ở Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc có đền thờ.
Nếu cứ để các nơi đơn độc chống đỡ với kẻ thù, không có sự liên kết với nhau, thì kẻ thù sẽ lần lượt tiêu diệt
từng nơi, như bẻ từng chiếc đũa. Thấy rõ nguy cơ đó. Hai Bà Trưng đã truyền hịch cứu nước và cử người đi
khắp nơi để tập hợp lực lượng dưới ngọn cờ chỉ huy thống nhất của Trưng Nữ vương. Các nơi đã nhiệt liệt
hưởng ứng, kéo quân hoặc cử đại biểu về Mê Linh tụ nghĩa.
Mùa xuân năm Canh Tý (3-40), Trưng Nữ vương hội quân ở Hát Môn làm lễ tế cờ chính thức phát động nhân
dân cả nước khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị hơn hai trăm năm của ngoại tộc. Nhân dân cả nước
nhất tề đứng dậy dưới cờ lệnh của Trưng Nữ vương. Sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta được nhân lên gấp
bội, khí thế ngút trời, như triều dâng thác đổ, làm cho kẻ thù không kịp chống đỡ, chỉ trong một thời gian ngắn
65 thành trì đã lần lượt về tay nghĩa quân, chỉ còn thành Luy Lâu, sào huyệt cuối cùng của Tô Định cũng bị phá
vỡ trước sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân ta, đến nỗi Tô Định phải bỏ giáp, cắt râu, quẳng cả ấn tín tìm
đường lẩn trốn về nước mới thoát chết.

F.Thời kỳ đấu tranh chống phong kiến phương Bắc lần thứ hai (43 - 453): 500 năm. Bà
Triệu khởi nghĩa (248)
Nhà Đông Hán mất, nước Trung Hoa phân làm ba nước (thời Tam Quốc): Bắc Nguỵ, Tây Thục và Đông Ngô.
Nước ta lúc đó thuộc Đông Ngô.
Bà Triệu Thị Trinh, sinh ngày 2 tháng 10 năm Bính Ngọ (225), anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng lớn ở
miền núi Quan Yên, quận Cửu Chân (Thanh Hoá).
Đông Ngô cai trị nước ta bằng một chính sách vô cùng tàn bạo, nhân dân ta vô cùng đói khổ, năm 248, bà Triệu
Thị Trinh và anh là Triệu Quốc Đạt phất cờ khởi nghĩa, tấn công quân Đông Ngô, phá tan các thành ấp của giặc.
Mỗi lần ra trận, Bà Triệu thường mặc áo giáp đồng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi dẫn đầu đoàn quân oai
phong lẫm liệt. Quân Ngô kinh hồn bạt vía đã phải thốt lên:
Hoành qua đường hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan
Nghĩa là:
Vung giáo chống hổ dễ,
Giáp mặt Vua Bà khó.
Trong vòng 6 tháng, nghĩa quân đã chiếm hầu hết đất Giao Châu. Vua Ngô hốt hoảng phái ngay Lục Dận (cháu
Lục Tốn thời Tam Quốc) là một danh tướng có nhiều kinh nghiệm trong chiến trận và rất quỷ quyệt sang đàn
áp. Hắn đưa hàng vạn quân tinh nhuệ đàn áp cuộc khởi nghĩa, vừa đánh vừa đem của cải, chức tước ra dụ dỗ các
thủ lĩnh người Việt. Một số kẻ đã làm tay sai cho giặc Ngô. Bà Triệu vẫn kiên cường chiến đấu và hy sinh trên
núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hoá), lúc đó Bà mới 23 tuổi.
Nhân dân ta vô cùng thương tiếc người nữ anh hùng, nay ở Phú Điền (Thanh Hoá) còn đền thờ Bà Triệu.
Thơ ca dân gian còn truyền tụng:
Tùng Sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Nước ta lại thuộc Đông Ngô đô hộ (từ 226 đến 265).
Năm 263, Lã Hưng, môt tướng của Đông Ngô, nổi dậy diệt Thái thú Giao Châu là Tôn Tư, giành quyền cai trị
(từ 265-271) và theo Tây Tấn.
Năm 271, Đông Ngô diệt được Lã Hưng giành lại quyền cai trị Giao Châu. Từ năm 280 Tây Tấn diệt hẳn Đông
Ngô, đất Giao Châu lại thuộc về Tây Tấn.
Nhà Tấn diệt Nguỵ, Thục, Ngô, rồi phong cho anh em thân thích ra trấn trị các phương, nhưng các thân Vương

cứ đánh giết lẫn nhau làm cho nhà Tấn ngày càng suy yếu. Nhân cơ hội đó các nước Triệu, Tần, Yên, Lương,
Hạ, Hán nổi dậy chiếm lấy cả vùng phía Bắc sông Trường Giang. Nhà Tấn chỉ còn lại vùng Đông Nam, phải
dời về Kiến Nghiệp (Nam Kinh), từ đó gọi là Đông Tấn.
Năm 420, Lư Du cướp ngôi nhà Đông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía Nam. Trung Quốc lúc đó phân chia ra thành
Nam, Bắc triều.
Nam Triều gồm: Nhà Tống, Tề, Lương, Trần kế nhau cai trị.
Bắc Triều gồm: Nhà Nguỵ, Tề, Chu nối nhau cai trị.
Nhân dân ta bị sự đô hộ vô cùng tàn bạo của nhà Lương do Thứ sử Tiêu Tư cai trị, cực khổ trăm bề. Năm 542
Lý Bôn lãnh đạo nhân dân ta khởi nghĩa, đánh đuổi Tiêu Tư, chiếm thành Long Biên lập nên Nhà nước độc lập.
G.Nhà tiền Lý và nhà Triệu (544-602) 58 năm, quốc hiệu Vạn Xuân, kinh đô Long Biên
1. Lý Nam Đế (Lý Bôn, 544-548):
Lý Bôn tức Lý Bí, quê ở Long Hưng (Thái Bình), sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17/10/503), là con hào
trưởng Lý Toản, mẹ là Lê Thị Oánh người Ái Châu (Thanh Hoá), 5 tuổi bố mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú
ruột. Vị pháp tổ thiền sư thấy khôi ngô tuấn tú xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo nuôi dạy. Hơn mười năm
đèn sách chuyên cần, lại được vị thiền sư hết lòng dạy bảo, Lý Bí trở thành người học rộng hiểu sâu, ít người
sánh kịp. Nhờ có tài kiêm văn võ, Lý Bí được tôn làm thủ lĩnh địa phương.
Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới sự đô hộ tàn ác của Tiêu Tư. Tháng 1 năm 542 Lý Bí lãnh đạo nhân
dân khởi binh tấn công quân Lương. Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước. Chưa đầy 3 tháng Lý Bí đã
chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công
chiếm lại, Lý Bí đã cho quân mai phục đánh tan bọn xâm lược.
Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược nước ta một lần nữa. Lý Bí chủ động đem quân
đón đánh giặc ở bán đảo Hợp Phố, quân Lương bị tiêu diệt gần hết.
Tháng Hai năm Giáp Tý - 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân,
đóng đô ở Long Biên.
Triều đình gồm có hai ban văn võ. Tướng Phạm Tu đứng đầu hàng quan võ. Tinh Thiều đứng đầu hàng quan
văn. Triệu Túc được phong là Thái phó.
Triều tiền Lý khởi nghiệp từ đấy.
Lý Nam Đế sai dựng chùa Khai Quốc ở phường Yên Hoa trên đảo Kim Ngư, Hồ Tây (nay là chùa Trấn Quốc,
Hà Nội).
Đầu năm 545, nhà Lương cử Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu cùng với tên tướng khát máu Trần Bá Tiên

chia hai đường thuỷ bộ kéo sang xâm lược nước ta, hòng bóp chết nhà nước Vạn Xuân non trẻ. Lý Nam Đế đem
quân chặn đánh bọn xâm lược ở vùng sông Lục Đầu (Hải Dương), nhưng vì ít quân không cản được giặc, vua
phải lui quân về giữ thành ở cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân địch hung hãn tấn công ác liệt, lão tướng Phạm
Tu hy sinh oanh liệt, Lý Nam Đế phải rút quân vào miền núi Vĩnh Yên, Phú Thọ và đóng thuỷ quân tại hồ Điển
Triệt (Lập Thạch, Vĩnh Phúc).
Trần Bá Tiên là tên tướng giặc rất xảo quyệt. Hắn lợi dụng một đêm mưa to gió lớn thúc quân vào đánh úp quân
Lý Nam Đế. Nhà Vua phải rút quân về ẩn tại động Khuất Lão (Tam Nông, Phú Thọ). Anh vua là Lý Thiên Bảo
và Lý Phật Tử (người cùng họ) đem một cánh quân lui vào giữ Thanh Hoá.
ở động Khuất Lão, Lý Nam Đế bị ốm nặng nên đã trao quyền cho Triệu Quang Phục tiếp tục cuộc kháng chiến
chống quân Lương. Ngày 20 tháng Ba năm Mậu Thìn (13/4/548) Lý Nam Đế mất.
Để tưởng nhớ Lý Nam Đế, người anh hùng dân tộc mở đầu nền độc lập tự chủ của đất nước ta, nhân dân nhiều
nơi lập đền thờ ghi nhớ công đức của ông.
2. Lý Đào Lang (Lý Thiên Bảo, 549-555):
Lý Thiên Bảo là anh họ Lý Bôn. Sau khi Lý Nam Đế bị thất bại ở động Khuất Lão, Lý Thiên Bảo cùng Lý Phật
Tử đem một cánh quân rút vào Thanh Hoá chống chọi với quân nhà Lương. Khi Lý Nam Đế mất, Thiên Bảo
xưng là Đào Lang vương (549-555) đến 555 thì mất.
3. Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục, 548-571):
Triệu Quang Phục là con Triệu Túc, Tù trưởng ở Chu Diên (Hưng Yên). Khi được Lý Nam Đế trao quyền lãnh
đạo cuộc kháng chiến chống quân Lương, ông đưa quân về Dạ Trạch (bãi Màn Trò, Hưng Yên) là một vùng
đồng lầy rộng mênh mông, lau sậy um tùm, ở giữa có một bãi đất cao khô ráo để đóng quân. Ông cho quân lính
vừa sản xuất lương thực, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến lâu dài. Đêm đêm nghĩa quân kéo ra đánh các đồn địch,
làm cho lực lượng địch bị tiêu hao và mất ăn, mất ngủ.
Ngày 13/4/548, Triệu Quang Phục lên ngôi vua, xưng là Triệu Việt Vương, dân gian gọi ông là Dạ Trạch
Vương.
Năm 550, từ căn cứ Dạ Trạch ông tiến quân ra đánh giết được tướng giặc là Dương San, thu lại được thành
Long Biên.
Trong khi đó ở Cửu Chân (Thanh Hoá) Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử bị quân Lương truy đuổi có lúc phải chạy
sang Lào. Lý Thiên Bảo đóng quân ở động Dã Năng và xưng là Đào Lang vương, đến năm
Ất Hợi (555) Lý Thiên Bảo mất, binh quyền về tay Lý Phật Tử.
Năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về đánh Triệu Việt Vương để giành ngôi vua cho nhà Lý, nhưng

đánh không thắng, Lý Phật Tử phải chia đất giảng hoà, để tỏ rõ tình hoà hiếu Triệu Việt Vương còn gả con gái
là Cải Lương cho con trai Lý Phật Tử là Nhã Lang.
Năm Tân Mão (571) Lý Phật Tử phản trắc, bất ngờ đem quân đánh úp. Vì không phòng bị nên Triệu Việt
Vương thua chạy đến cửa biển Đại Nha, cùng đường phải nhảy xuống biển tuẫn tiết. Nhân dân vô cùng thương
tiếc lập đền thờ tại đấy.
4. Hậu Lý Nam Đế (Lý Phật Tử, 571- 602):
Diệt xong Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử xưng là hậu Lý Nam Đế, đóng đô ở Phong Châu (Bạch Hạc - Phú
Thọ).
Trong lúc Lý Phật Tử làm vua ở nước ta, thì bên Trung Quốc Tuỳ Văn Đế dẹp yên được Nam Bắc triều, thống
nhất được đất nước Trung Hoa.
Năm Nhâm Tuất (602) nhà Tuỳ sai danh tướng Lưu Phương đem quân sang xâm lược nước ta.
Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng, dâng nước ta cho giặc. Từ đó nước ta lại bị nhà Tuỳ đô hộ. H.Thời kỳ
chống phong kiến phương Bắc đô hộ lần thứ ba - 336 năm (603-939)
Do Lý Phật Tử hèn nhát đầu hàng. Nhà Tuỳ chia đất Giao Châu thành 3 quận:
- Giao Chỉ (các tỉnh Bắc Bộ)
- Cửu Chân (Thanh Hoá)
- Nhật Nam (Nghệ Tĩnh)
Trụ sở quận Giao Chỉ đóng ở Tống Bình (Hà Nội).
Nhà Tuỳ ở ngôi được 37 năm (581 - 618) thì mất.
Lý Uyên lên ngôi Đường Cao Tổ trị vì Trung Hoa.
Năm 671, nhà Đường chia đất Giao Châu thành 12 châu, 59 huyện và gọi nước ta là An Nam đô hộ phủ.
Nhà Đường dùng chính sách tàn bạo, hà khắc để cai trị nhân dân ta, chúng muốn đồng hoá nhân dân ta bằng
chính sách "sát phu, hiếp phụ", nhưng với ý chí quật cường của một dân tộc anh hùng, nhân dân ta đã có nhiều
cuộc nổi dậy chống lại kẻ thù xâm lược như các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên, Đinh Kiến (687), Mai Thúc
Loan (722), Phùng Hưng (766-791), Dương Thanh (819-820) Tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa sau đây:
1. Mai Hắc Đế (Mai Thúc Loan - 722):
Mai Thúc Loan quê ở Mai Phụ, một làng làm muối ven biển Thạch Hà (Hà Tĩnh) mồ côi cha theo mẹ lên ở
vùng Ngọc Trừng (Nam Đàn), nhà nghèo phải đi kiếm củi rồi đi ở đợ, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khoẻ và
sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng. Cũng như mọi người dân Việt, Mai Thúc Loan phải đi
phu quanh năm phục dịch vất vả cho đô hộ nhà Đường.

Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu cùng ông đi gánh vải quả nộp cống cho nhà Đường
(Dương Quý Phi rất thích vải quả của đất Giao Châu) nổi dậy khởi nghĩa, nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, ái
theo về tụ hội dưới cờ nghĩa và suy tôn Mai Thúc Loan là Mai Hắc Đế, đóng đô ở thành Vạn An (Nghệ An).
Mai Hắc Đế tiến quân ra giải phóng phủ thành Tống Bình (Hà Nội), bọn đô hộ phải bỏ thành tháo chạy về nước.
Nhà Đường vội cử tên tướng tâm phúc là Dương Tư Húc đưa 100 nghìn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang
đàn áp quân khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh ác liệt từ lưu vực sông Hồng, đến lưu vực sông Lam, cuối cùng
Mai Hắc Đế thất trận, phải rút vào rừng sâu. Ông bị ốm và mất ở trong rừng, con ông nối ngôi được một thời
gian, xưng là Mai Thiếu Đế. Quân xâm lược tiến vào đàn áp nhân dân ta rất dã man.
Nhân dân ta lập đền thờ Mai Hắc Đế ở trên núi Vệ Sơn trong thung lũng Hùng Sơn để đời đời nhớ ơn Người
anh hùng dân tộc.
Hùng cứ Hoan Châu đất một vùng
Vạn An thành luỹ khói hương xông
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức
Trăm trận Lý Đường phục võ công

Đường đi cống vải từ đây đứt
Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
2. Bố Cái Đại Vương (Phùng Hưng, 791-802):
Phùng Hưng xuất thân là hào trưởng đất Đường Lâm (Ba Vì, Hà Tây), bố là Phùng Hạp Khanh, một người hiền
tài, đức độ, đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế. Ông có sức khoẻ phi thường, đã từng giết hổ ở
đất Đường Lâm để trừ tai hoạ cho dân. Trước sự thống khổ của nhân dân ta dưới ách đô hộ của Nhà Đường,
Phùng Hưng đã cùng hai em là Phùng Hải và Phùng Dĩnh phất cờ khởi nghĩa.
Phùng Hưng chiếm đất Đường Lâm làm căn cứ, khi tiến công, khi thế thủ, cuộc chiến đấu kéo dài hơn 20 năm
(766-789).
Năm Tân Mùi (791) Phùng Hưng cùng các tướng Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần chia thành
5 đạo quân, bất ngờ cùng tiến đánh thành Tống Bình (Hà Nội). Cao Chính Bình đem 40 nghìn quân ra nghênh
chiến, sau 7 ngày đêm chiến đấu ác liệt, phải rút vào thành cố thủ. Nghĩa quân vây đánh khắp bốn mặt thành
khiến Cao Chính Bình lo sợ phát ốm mà chết. Nghĩa quân chiếm được thành Tống Bình làm kinh đô xây dựng
quyền tự chủ lâu dài. Phùng Hưng được nhân dân tôn hiệu là Bố Cái Đại Vương.
Giành được chủ quyền cho đất nước được 7 năm thì Phùng Hưng mất.

Phùng An nối nghiệp cha được 2 năm thì bị vua Đường cử Triệu Xương đem quân sang đánh bại vào năm 802.
Nhân dân ta lập đền thờ Phùng Hưng ở Đường Lâm để đời đời ghi nhớ công ơn Người anh hùng dân tộc.
E.Thời kỳ xây nền tự chủ (905 - 938)
1. Khúc Thừa Dụ (905-907)
Khúc Thừa Dụ quê ở Cúc Bồ (Ninh Thanh, Hải Dương), vốn là một hào phú, tính khoan hoà, được nhân dân
kính phục. Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới ách đô hộ của nhà Đường, ông khởi binh tiến công thành
Tống Bình (Hà Nội), đuổi giặc về nước tự xưng là Tiết độ sứ. Thế cùng, nhà Đường buộc phải công nhận Khúc
Thừa Dụ là người đứng đầu đất Việt.
Ngày 23/7/907, Khúc Thừa Dụ mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
2. Khúc Hạo (907-917)
Năm 907, nhà Đường mất, nhà Hậu Lương thay thế cũng phải công nhận Khúc Hạo là " An Nam đô hộ Tiết độ
sứ".
Khúc Hạo chia nước ta thành 5 cấp hành chính: Lộ, phủ, châu, giáp, xã. Giáp, xã là cấp hành chính cơ sở lần
đầu tiên được đặt ra ở nước ta.
Năm Đinh Sửu (917), Khúc Hạo mất, truyền ngôi cho con là Khúc Thừa Mỹ.
3. Khúc Thừa Mỹ (917-923)
Khúc Thừa Mỹ thay cha nhậm chức Tiết độ sứ của nhà Lương, chứ không phục nhà Nam Hán. Năm 923, vua
Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh và bắt được Khúc Thừa Mỹ, rồi sai Lý Tiến sang
cùng với Lý Khắc Chính làm thứ sử Giao Châu.
4. Dương Đình Nghệ (Diên Nghệ) (931-938)
Dương Đình Nghệ người Ái Châu (Thanh Hoá), là tướng của họ Khúc đã khởi binh đánh đuổi Lý Khắc Chính
và Lý Tiến giải phóng thành Đại La (Hà Nội) xưng là Tiết độ sứ vào năm 931.
Giành được quyền tự chủ 6 năm, Dương Đình Nghệ bị tên nha tướng là Kiều Công Tiễn ám hại đoạt chức Tiết
độ sứ. Nhân dân ta vô cùng căm phẫn nổi lên chống lại tên phản bội, Kiều Công Tiễn vội cho người sang cầu
cứu chúa Nam Hán. K.Nhà Ngô 26 năm (939-965), kinh đô Cổ Loa
(Đông Anh, Hà Nội)
1. Ngô Vương (Ngô Quyền 939-944):
Ngô Quyền sinh ngày 12 tháng 3 năm Đinh Tỵ (897) ở Đường Lâm (thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây ngày nay),
cha là Ngô Mân, một hào trưởng có tài đức.
Ngô Quyền thông minh, khôi ngô, mắt sáng như chớp, văn võ toàn tài, được Dương Đình Nghệ tin yêu, gả con

gái là Dương Thị Ngọc và giao cho Ngô Quyền cai quản đất ái Châu (Thanh Hóa).
Khi nghe tin bố vợ bị Kiều Công Tiễn giết hại, Nhà Nam Hán lại cho con là Vạn Vương Hoàng Thao đưa quân
sang xâm lược nước ta. Ngô Quyền đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, đem quân giết chết tên phản bội Kiều
Công Tiễn và đón đánh quân Nam Hán.
Để đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, ông cho bố trí một trận địa cọc nhọn bịt sắt cắm xuống lòng sông
Bạch Đằng.
Tháng 10 năm Mậu Tuất (11-938) các chiến thuyền của giặc hùng hổ vượt biển tiến vào sông Bạch Đằng, quân
ta nhử cho thuyền giặc vượt qua trận địa cọc, đợi cho nước thủy triều xuống, quân ta bắt đầu tấn công dữ dội,
đánh vỗ mặt và hai bên sườn, làm cho thuyền giặc tháo chạy va vào cọc nhọn bịt sắt bị đắm gần hết, Hoàng
Thao bị đâm chết tại trận, quân ta giết và bắt sống gần hết quân Nam Hán. Đây là chiến thắng Bạch Đằng lần
thứ nhất trong lịch sử nước ta.
Sau chiến thắng vang dội trên sông Bạch Đằng. Ngô Quyền lên ngôi Vua, đóng đô ở Cổ Loa (Hà Nội), đặt ra
các quan văn, võ, đặt ra nghi lễ triều đình, thể hiện nền độc lập tự chủ của đất nước ta.
Ngô Quyền làm Vua được 5 năm (939-944) thì mất, thọ 48 tuổi. Ngô Quyền mất, em vợ là Dương Tam Kha
cướp ngôi tự lập làm vua là Dương Bình Vương (944-950).
2. Hậu Ngô Vương (950-965):
1. Nam Tấn Vương (Ngô Xương Căn 950-965):
Ngô Xương Căn là con thứ hai của Ngô Quyền và Dương Thị Ngọc, năm 950 đã dùng mưu lật đổ Dương Tam
Kha giành lại ngôi Vua cho nhà Ngô. Theo thỉnh cầu của các tướng lĩnh và triều thần, được sự chuẩn tấu của
Dương Thái hậu, Ngô Xương Căn lên ngôi Vua lấy niên hiệu là Nam Tấn Vương (950-965) đóng đô ở Cổ Loa.
Nam Tấn Vương cho người đi tìm anh là Thái tửu Ngô Xươnng Ngập, giả làm thầy đồ trốn ở Nam Sách (Hải
Dương) lấy vợ và có con trai là Ngô Xương Văn. Được Dương Thái Hậu chuẩn tấu cả hai anh em đều làm Vua
(như vậy nước ta lúc đó có hai Vua).
2. Thiên Sách Vương (Ngô Xương Ngập 951-959):
Ngô Xương Ngập lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thiên Sách Vương (951-959) sau Ngô Xương Ngập bị bệnh
thượng mã phong mà chết. Làm vua được 8 năm.
3. Loạn 12 sứ quân (966-968):
Từ khi Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, giặc giã nổi lên như ong, mỗi thủ
lĩnh cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau gây ra cảnh "nồi da nấu thịt" kéo dài gần 20 năm.
Năm 965, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn bị bắn chết trong một trận giao chiến ở Thái Bình, con Thiên Sách

Vương là Ngô Xương Xí nối nghiệp làm vua, thế lực ngày càng yếu kém phải lui về giữ đất Bình Kiều, từ 966
hình thành 12 sứ quân như sau:
1. Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Khoái Châu, Hưng Yên)
2. Đỗ Cảnh Thạc, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Đông).
3. Trần Lãm, giữ Bố Hải Khẩu (Kỳ Bố, Thái Bình).
4. Kiều Công Hãn, giữ Phong Châu (Bạch Hạc, Phú Thọ).
5. Nguyễn Khoan, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Sơn Tây).
6. Ngô Nhật Khánh, giữ Đường Lâm (Phú Thọ, Sơn Tây).
7. Lý Khê, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh).
8. Nguyễn Thủ Tiệp, giữ Tiên Du (Bắc Ninh).
9. Lý Đường, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên).
10. Nguyễn Siêu, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Đông).
11. Kiều Thuận, giữ Hởi Hồ (Cẩm Khê, Sơn Tây).
12. Phạm Bạch Hổ, giữ Đằng Châu (Hưng Yên).
Đinh Bộ Lĩnh là con nuôi của Thủ lĩnh Trần Lãm, sứ quân Bố Hải Khẩu. Trần Lãm chết, Đinh Bộ Lĩnh được
trao quyền, đã dẹp xong "Loạn 12 sứ quân" quy giang sơn về một mối, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. L.Nhà
Đinh 12 năm (968-980), quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư
(huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình)
1. Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh 968-979)
Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Hoa Lư, Ninh Bình), con trai ông Đinh Công Trứ, một nha
tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Châu Hoan. Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở,
thường đi chăn trâu, bắt lũ trẻ khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận giả
đánh nhau. Lớn lên rất thông minh, có khí phách và có tài thao lược. Thấy nhân dân khổ sở vì loạn 12 sứ quân,
Ông dựng cờ nghĩa, mong lập nghiệp lớn. Đinh Bộ Lĩnh theo về dưới cờ của Trần Minh Công (Trần Lãm) ở Bố
Hải Khẩu, được Trần Lãm nhận làm con nuôi. Khi Trần Lãm mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền đem quân về giữ
Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt để dẹp loạn 12 sứ quân.
Năm Mậu Thìn (968) sau khi dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Tiên
Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Đinh Tiên Hoàng phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân và phong cho
con là Đinh Liễn là Nam Việt Vương.

Năm Kỷ Mão (979) Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị tên thái giám là Đỗ Thích giết chết trong khi uống rượu
ngủ say. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 11 năm, thọ 56 tuổi.
2. Đinh Phế Đế (Đinh Toàn 979-980)
Đinh Toàn mới lên 6 tuổi, được triều thần đưa lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược
nước ta.
Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Đinh Toàn), thể theo
nguyện vọng các tướng sĩ, đã trao áo "Long Cổn" (biểu tượng của ngôi vua) cho Thập đạo Tướng quân Lê
Hoàn, tức là Lê Đại Hành.
Chỉ trong vòng một tháng, dưới sự chỉ huy tài giỏi tuyệt vời của vua Lê Đại Hành, quân và dân Đại Cồ Việt đã
phá tan được quân Tống trên cả hai mặt trận thuỷ và bộ.
Khúc sông Chi Lăng (sông Thương chảy qua xã Chi Lăng, Lạng Sơn), quân ta bắt sống tướng giặc là Hầu Nhân
Bảo đem chém đầu.
Mặt trận Tây Kết, Trần Khâm Tộ cũng bị quân ta phá vỡ, bắt sống tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng
Huân đem về Hoa Lư.
Năm 981 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho tổ quốc ta.
Như vậy nhà Đinh làm vua được hai đời cả thảy 12 năm. M.Nhà Tiền Lê, kinh đô Hoa Lư
(29 năm, 980 - 1009)
1. Lê Đại Hành (Lê Hoàn 980-1005)
Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá (có thuyết nói: Lê Hoàn sinh ở Thanh Liêm, Hà
Nam) trong một gia đình nghèo khổ, bố là Lê Mịch, mẹ là Đặng Thị Sen. Cha mẹ mất sớm, Lê Hoàn phải đi
làm con nuôi cho một vị quan nhỏ. Lớn lên, ông đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn và lập được nhiều chiến
công khi Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp Nhà Đinh. Ông được
Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập Đạo tướng quân lúc vừa tròn 30 tuổi.
Khi cha con Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó, Nhà
Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga đã trao ngôi vua cho
Lê Hoàn.
Lê Hoàn lên ngôi vua lấy niên hiệu là Lê Đại Hành. Vẫn lấy tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Sau khi chỉ huy quân dân cả nước đánh tan quân Tống sang xâm lược nước ta. Nhà vua lo xây dựng lực lượng
bảo vệ Tổ quốc, mặt khác đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp để chấn hưng đất nước.
Về đối ngoại thì dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng cương quyết bảo vệ nền độc lập của

đất nước.
Năm ất Tỵ (1005) Lê Đại Hành mất, làm Vua được 25 năm, thọ 65 tuổi.
2. Lê Trung Tông (Lê Long Việt, 1005)
Vua Lê Đại Hành có 4 hoàng tử: Long Du, Ngân Trích, Long Việt và Long Đĩnh.
Lê Đại Hành đã cho con thứ ba là Long Việt làm Thái tử. Khi vua Lê Đại Hành băng hà, các hoàng tử tranh
ngôi, đánh nhau 7 tháng, đến khi Long Việt lên ngôi làm vua là Lê Trung Tông được 3 ngày thì bị em cùng mẹ
là Long Đĩnh giết chết lúc 23 tuổi (983 - 1005).
3. Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh, 1005 - 1009)
Lê Long Đĩnh cướp ngôi của anh là Lê Trung Tông, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Đại Thắng Minh Quang Hiếu
Hoàng đế vẫn đóng đô ở Hoa Lư.
Lê Long Đĩnh đã làm việc càn dỡ giết Vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư Do
chơi bời trác táng quá, nên khi ra thiết triều phải nằm, tục gọi là Lê Ngoạ Triều. Lê Ngoạ Triều làm vua được 4
năm (1005 - 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, dưới sự đạo diễn của quan Chi
Hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế.
Như vậy Nhà Tiền Lê trải qua 3 đời Vua, tồn tại 29 năm. O.Nhà Lý (1010-1225) 215 năm,
quốc hiệu Đại Cồ Việt, kinh đô Hoa Lư. Năm 1010 dời đô về Thăng
Long.Từ 1054 đổi quốc hiệu là Đại Việt
1. Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn 1010 – 1028)
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất
(974), mẹ chết khi mới sinh, thiền sư Lý Khánh Văn nhận làm con nuôi, Lý Công Uẩn thông minh và có chí khí
khác người ngay từ nhỏ.
Nhờ sự nuôi dạy của nhà sư Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn trở thành người xuất chúng, văn võ
kiêm toàn, làm đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, khi Lê Ngọa Triều mất, triều thần tôn Lý Công Uẩn lên ngôi
Hoàng đế, niên hiệu Thuận Thiên, vẫn lấy Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô tại Hoa Lư.
Tháng 7 năm 1010, vua Lý Thái Tổ cho dời đô về thành Đại La, một buổi sáng đẹp trời, thuyền vừa cập bến,
Nhà Vua thấy Rồng vàng bay lên, do đó đặt tên là Kinh đô Thăng Long (tức là Hà Nội ngày nay).
Vua Thái Tổ chỉnh đốn lại việc cai trị, chia đất nước làm 24 lộ, trị vì 18 năm, thọ 55 tuổi.
2. Lý Thái Tông (Lý Phật Mã 1028 – 1054)
Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Vương Bồ, Đông Chính
Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.

Khi Vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính
Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử, nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra
chém chết Võ Đức Vương, hai hoàng tử kia bỏ chạy.
Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Lý Thái Tông.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000). Vua là người trầm mặc, có trí, biết trước mọi việc,
đánh đâu được đấy, năm 1020 quân Chiêm Thành quấy rối nơi biên ải phía Nam, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật
Mã làm Nguyên soái, đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc đem về.
Khi làm vua, Người quan tâm mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất nước, đoàn kết với các dân
tộc ít người, thể hiện rõ bằng cách ngày 7 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1029), Vua gả công chúa Bình Dương cho Châu
mục Châu Lạng là Thân Thiện Thái.
Năm Giáp Ngọ (1054), Vua Lý Thái Tông mất, trị vì 26 năm, thọ 55 tuổi.
3. Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn 1054 – 1072)
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023), là con bà Kim Thiên Thái Hậu
họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “ Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân,
trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang
việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí
của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
4. Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức 1072 – 1128)
Thái tử Càn Đức là con trưởng của Lý Thánh Tông, mẹ là bà Nguyên phi Ỷ Lan, sau là Thái hậu Linh Nhân,
Thái tử sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), khi Lý Thánh Tông mất, Thái tử lên ngôi Hoàng đế
(1072) lúc mới 6 tuổi, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan phải buông rèm nhiếp chính.
Năm 1075, thời Tống Thần Tông, Vương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta, Thái úy Lý
Thường Kiệt biết rõ âm mưu xâm lược của nhà Tống nên đã đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của
chúng ở Châu Khâm, Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây) rồi chủ động rút quân về nước lập
phòng tuyến ở bờ nam sông Cầu để chặn giặc.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 10 vạn quân và 1 vạn ngựa chiến sang xâm lược nước ta, bị chặn
lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng, quân dân ta đánh du kích tiêu hao sinh lực địch rất nhiều, làm cho giặc
hoang mang, dao động “tiến thoái lưỡng nan”.

Chính trên phòng tuyến sông Cầu này, đêm khuya thanh vắng, Lý Thường Kiệt cho người nấp trong đền
Trương tướng quân, thổi sáo và ngâm bài thơ nổi tiếng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Dịch:
Sông núi nước Nam, Nam đế ở,
Rõ ràng phân định tại sách trời,
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm?
Cứ thử làm xem, chuốc bại nhơ!
Đây chính là “Bản tuyên ngôn độc lập” lần thứ nhất của Tổ quốc ta. Quân ta tổ chức phản công mãnh liệt vào
quân Tống.
Quân Tống khiếp sợ phải rút chạy về nước. Nền độc lập của Tổ quốc ta lại được vững bền.
Năm Đinh Mùi (1127), Lý Nhân Tông mất, trị vì được 56 năm, thọ 62 tuổi.
5. Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán 1128 - 1138)
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị
Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính
đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Lý Thần Tông mất năm Mậu Ngọ (1138), trị vì được 10 năm, thọ 23 tuổi.
6. Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ 1138 - 1175)
Lý Thiên Tộ là con đích trưởng của Lý Thần Tông, con bà Lê Hoàng hậu, sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136),
lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi. Lê Hoàng hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh
Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín
nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Lý Anh Tông mất năm ất Mùi (1175), trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
7. Lý Cao Tông (Lý Long Cán 1176 - 1210)
Lý Anh Tông mất, Thái tử Long Cán lúc đó chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu Linh Thái hậu muốn lập con cả của mình
là Long Xưởng lên ngôi vua. Bà đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành, nhưng Tô Hiến Thành nhất định

không nghe cứ theo di chiếu lập Long Cán lên làm vua, hiệu là Lý Cao Tông. Lớn lên Cao Tông chơi bời vô độ,
chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi lên như ong, đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý từ đó suy
đồi.
Năm Bính Thìn (1208) có loạn Quách Bốc, vua Cao Tông đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Vĩnh Phú).
Thái tử Sảm theo Tô Trung Tự chạy về Hải ấp (làng Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình) vào ở nhà ông Trần Lý làm
nghề đánh cá. Thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp thì lấy làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước
Minh Tự, phong cho Tô Trung Tự, cậu ruột của Trần Thị Dung chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Anh em nhà Trần: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ mộ quân giúp Thái tử Sảm khôi phục kinh đô
Thăng Long rồi lên Tam Nông rước Cao Tông về kinh đô.
Cao Tông mất năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 34 năm, thọ 38 tuổi.
Một người trong hoàng tộc là Lý Long Tường đã phải ra đi trong những năm tháng đầy biến động này. Ông
phiêu dạt tới đất Cao Ly và lập nhiều chiến công chống ngoại xâm bảo vệ miền quê mới. Ông được phong tước,
được cấp đất và lập nên dòng họ Lý Hoa Sơn định cư tại Hàn Quốc. Hậu duệ của ông - tức hậu duệ đời thứ 31
của Lý Thái Tổ - là Lý Xương Căn (Lee Chang Kun) đã về Việt Nam từ năm 2000 để lập Công ty Việt - Lý tại
quê hương Đình Bảng, Bắc Ninh. Việt-Lý Co., Ltd chuyên sử dụng một số chất thải công nghiệp làm thành
nguồn nguyên liệu mới, sản xuất PEASCO - một loại vật liệu nhựa tổng hợp với tỷ lệ chính là phế liệu plastic
thay thế xi măng, sản xuất hệ thống kênh mương dùng trong các công trình tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, thoát
nước, xây dựng giao thông đường bộ.
8. Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm 1211 - 1224)
Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông, lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, phong cho Trần Tự
Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái uý, Trần Thủ Độ là Điện
tiền chỉ huy sứ.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu
Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái. Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương
Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh rồi đi tu ở chùa
Chân Giáo.
Lý Huệ Tông trị vì được 13 năm, sau bị Trần Thủ Độ ép tự tử, thọ 33 tuổi.

9. Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim 1224 - 1225)
Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu
Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Binh quyền về tay Trần Thủ Độ.
Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý
Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý
Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ,
Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng
lên triều đại nhà Trần từ đấy. DANH NHÂN THỜI LÝ
Đất nước Việt Nam ta, thời nào cũng sản sinh ra những anh hùng của dân tộc và những danh nhân của đất nước.
Xin giới thiệu một số danh nhân của thời Lý:
Nguyên phi Ỷ Lan
Tên thật là Lê Thị Yến, quê ở làng Thổ Lỗi (Thuận Thành, Bắc Ninh) nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Mẹ mất từ lúc 12 tuổi, bố lấy vợ kế nên cô Yến cũng khổ như cô Tấm trong chuyện cổ tích.
Năm ấy, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai nối dõi nên về chùa Dâu cầu tự. Dân làng đổ ra
xem, chỉ riêng cô Yến vẫn vừa hái dâu vừa hát. Nhà vua thấy lạ, cho người vời lại hỏi thì đấy là một cô thôn nữ
bội phần xinh đẹp, lại đối đáp lưu loát. Vua cảm mến đưa về triều, phong làm Nguyên phi Ỷ Lan.
Nguyên phi Ỷ Lan sinh ra Thái tử Càn Đức ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ - 1066. Khác với các hậu phi,
Ỷ Lan không lấy việc trau chuốt nhan sắc làm chính, mà chỉ miệt mài đọc sách, khổ công học hỏi, nên trong
một thời gian ngắn, triều thần đều kinh ngạc trước sự hiểu biết uyên thâm về nhiều mặt của bà.
Năm 1069, Vua Lý Thánh Tông đích thân cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành. Ỷ Lan được trao quyền nhiếp
chính, cũng năm đó nước ta không may bị lụt lớn, mùa màng thất bát, nhiều nơi bị đói khổ, bà đã cho mở kho
thóc dự trữ phát trẩn cho dân, nhờ có tài trị nước đúng đắn, quyết đoán táo bạo của bà mà loạn lạc đã được dẹp
yên, dân đói đã được cứu sống. Cảm ơn đó, nhân dân ta đã tôn thờ bà Ỷ Lan là Quan Âm nữ.
Năm 1072, Lý Thánh Tông đột ngột qua đời, vua kế vị là Lý Nhân Tông mới 7 tuổi.
Ỷ Lan trở thành Hoàng Thái hậu nhiếp chính cùng với Lý Thường Kiệt nắm quyền Tể tướng làm cho đất nước
ta ngày càng cường thịnh.
Năm 1077, nhà Tống phát đại binh sang xâm lược nước ta. Thái hậu
Ỷ Lan cử Thái uý Lý Thường Kiệt chuyên tâm lo việc binh chống giặc ngoại xâm và cho người vào Nghệ An

đón Lý Đạo Thành về làm Thái sư để cùng bà điều khiển triều đình, huy động sức người, sức của cho cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng mấy tháng quân giặc đã phải rút chạy về nước.
Thái hậu Ỷ Lan hiểu rõ nỗi khổ của nông dân. Bà lấy tiền kho chuộc những người con gái nghèo bị bán rồi
dựng vợ gả chồng cho họ.
Bà nhắc nhở nhà vua trị tội thật nặng những kẻ ăn trộm trâu và giết trâu vì cho rằng "nông dân có con trâu là
đầu cơ nghiệp".
Ngày 25 tháng Bảy năm Đinh Dậu - 1117, Hoàng Thái hậu Ỷ Lan qua đời, nhân dân ta vô cùng thương tiếc,
nhiều nơi lập đền thờ.
Thái uý Lý Thường Kiệt
Năm 1019 tại căn nhà của một võ quan ở phường Thái Hoà (phía trên vườn Bách Thảo ngày nay) con trai đầu
lòng của ông Ngô An Ngữ và bà họ Hàn ra đời, được đặt tên là Ngô Tuấn.
Năm Thiên Thành đời Lý Thái Tông, ông Ngô An Ngữ được cử đi tuần ở phía nam Thanh Hoá, ít lâu sau lâm
bệnh qua đời.
Chồng của cô ruột là Tạ Đức đem Ngô Tuấn về nuôi dạy văn võ.
Năm Ngô Tuấn 18 tuổi (1036) thì mẹ mất. Ông cùng em lo đủ các lễ mai táng. Hết tang, ông được bổ chức kỵ
mã hiệu uý. Do tính siêng năng, cần mẫn lại hết lòng trung thành, ông được vua tin yêu thăng thưởng dần lên
đến chức Đô tri và được đổi sang họ vua gọi là Lý Thường Kiệt.
Năm 1061, được cử vào trấn giữ vùng núi Thanh - Nghệ hiểm trở, ông đã vỗ về nhân dân chăm lo sản xuất, khai
khẩn đất hoang làm cho cuộc sống ấm no, biên cương vững vàng.
Năm 1075, nhà Tống do Dương An Thạch làm Tể tướng âm mưu xâm lược nước ta. Thái uý Lý Thường Kiệt
tâu với Thái hậu Ỷ Lan: "Ngồi yên đợi giặc, không bằng đưa quân ra trước". Thái hậu đồng ý cho Lý Thường
Kiệt và Tông Đản đem quân sang đánh phá các căn cứ tập kết lương thực, vũ khí của nhà Tống ở Châu Khâm,
Châu Liêm, Châu Ung (Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay) rồi chủ động rút quân về nước, lập phòng tuyến
chống giặc ở bờ nam sông Cầu.
Đầu năm 1077, Quách Quỳ và Triệu Tiết dẫn 100 nghìn quân tiến vào xâm lược nước ta, nhưng bị quân và dân
ta chặn lại bên bờ bắc sông Cầu hơn 2 tháng.
Chính trên phòng tuyến sông Cầu, Lý Thường Kiệt đã cho ra đời bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Đấy chính là "Bản Tuyên ngôn độc lập" lần thứ nhất của Tổ quốc ta. Quân Tống phải rút chạy về nước, Tổ quốc
ta lại vững bền.
Lý Thường Kiệt đã có công đánh Tống, lại có công bình Chiêm.
Tháng Sáu năm Ất Dậu - 1105, Đôn Quốc Thái uý Lý Thường Kiệt mất, thọ 87 tuổi. Ông được nhà vua truy
tặng chức Nhập nội điện đô tri hiển hiệu thái uý bình chương quân quốc trọng sự, tước Việt quốc công.
Tô Hiến Thành
Tô Hiến Thành, hiệu Phi Diên, người làng hạ Mỗ, huyện Ô Diên nay là thôn Hạ Mỗ, xã Hồng Thái, huyện Đan
Phượng, tỉnh Hà Tây.
Là người khảng khái, làm quan đến Thái phó rồi Thái uý đời vua Lý Anh Tông, ông là người trung thực và liêm
khiết.
Ông đã có nhiều công to: năm Kỷ Mão - 1159 đánh tan giặc Ngưu Thống và Ai Lao vào cướp phá biên giới
phía tây, năm Tân Tỵ - 1161 cầm quân đi tuần du biên giới tây nam và ven biển, năm Đinh Hợi - 1167 đánh
thắng Chiêm Thành.
Khi ông lâm bệnh sắp mất có Tham tri chính sự Võ Tán Dương sớm tối lo hầu hạ, còn quan Gián nghị đại phu
là Trần Trung Tá vì bận việc nước không hề đến thăm. Thái hậu hỏi: "Ông mất thì ai sẽ nối nghiệp?" Ông trả lời
không do dự: "Gián nghị đại phu Trần Trung Tá ".
Tháng Sáu năm Kỷ Hợi - 1179, Tô Hiến Thành qua đời.
Lê Phụng Hiểu
Lê Phụng Hiểu quê ở Băng Sơn, gọi là thôn Bưng (Hoằng Hoá, Thanh Hoá). Ông say mê đánh vật, đấu quyền,
quăng đao, múa kiếm.
Lý Thái Tổ tuyển người giỏi võ vào đội quân Thượng Đô. Ông lên Kinh dự thi, và được tuyển dụng.
Chỉ ít lâu sau ông được thăng đến chức Vũ vệ tướng quân.
Năm 1028, Lý Thái Tổ mất, Thái tử Phật Mã lên ngôi tức là Lý Thái Tông. Ba Hoàng tử là Đông Chính Vương,
Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương vây kinh thành để cướp ngôi - gọi là loạn tam Vương. Lê Phụng Hiểu chỉ
huy quân cấm vệ, đánh tan được bọn vương tử làm loạn, bảo vệ ngôi vua.
Lý Thái Tông phong ông là Đô thống. Năm 1043, quân Chiêm Thành sang xâm lược nước ta, Lê Phụng Hiểu
hộ giá Lý Thái Tông đi đánh giặc. Năm 1044 chiến thắng trở về, vua xét ban thưởng quan tước, ông xin trèo lên
núi Băng Sơn ném con đao lớn ra xa, đao rơi xuống nơi nào thì xin ban cho vùng đó để dựng nghiệp. Vua ưng
thuận. Ông đứng trên núi Băng Sơn vung tay ném đao rơi xuống tận thôn Đa Mi, tính đến hơn một nghìn mẫu

đất. Vùng ấy gọi là "Thác đao điền".P.Nhà Trần 175 năm (1225 - 1400), quốc hiệu
Đại Việt, kinh đô Thăng Long
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)
Sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần - 1218, con thứ của ông Trần Thừa và bà họ Lê. Tổ tiên Nhà Trần là Trần
Kính vốn gốc ở Đông Triều (Quảng Ninh) chuyên nghề đánh cá, đến ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường (nay
là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định), sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý.
Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung. Trần Thủ Độ là cháu họ, được Trần Lý nuôi
nấng từ nhỏ coi như con. Trần Thừa sinh ra Trần Liễu và Trần Cảnh là con trai, sau có mối tình với cô thôn nữ
ở thôn Bà Liệt tên là Tần, sinh ra Trần Bá Liệt. Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, lúc đó là Điện Tiền chỉ huy
sứ, ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu - 1225, Lý Chiêu Hoàng xuống chiếu nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh.
Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu - 1225, Trần Cảnh chính thức lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung,
phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ
chinh thảo sự.
Mùa hạ, tháng 6 năm Nhâm Thìn - 1232, vua Trần Thái Tông ban bố các chữ quốc huý và miếu huý.
Vì Tổ nhà Trần là Trần Lý mới đổi họ Lý sang họ Nguyễn. Năm Đinh Dậu - 1237, Trần Thái Tông lấy Chiêu
thánh Hoàng hậu đã 12 năm mà chưa có con. Trần Thủ Độ và vợ là công chúa Thiên Cực ép vua Trần Thái
Tông bỏ Chiêu Thánh để lấy chị dâu (vợ Trần Liễu) là công chúa Thuận Thiên đã có mang 3 tháng làm Hoàng
hậu. Trần Liễu tức giận đem quân ra sông Cái làm loạn. Còn vua Trần Thái Tông đang đêm bỏ trốn lên chùa
Phù Vân, núi Yên Tử, Quảng Ninh để phản đối.
Trần Thủ Độ dẫn các triều thần lên núi mời vua trở về kinh sư. Vua nói: "Vì trẫm non trẻ chưa cáng đáng nổi sứ
mệnh nặng nề, phụ hoàng lại vội lìa bỏ, sớm mất chỗ trông cậy, nên không dám giữ ngôi vua mà làm nhục xã
tắc".
Trần Thủ Độ cố nài xin nhiều lần, vua vẫn không nghe, mới bảo mọi người rằng: "Xa giá ở đâu là triều đình ở
đó". Rrồi sai người xây dựng cung điện. Bấy giờ nhà vua mới chịu về kinh đô.
Trần Liễu làm loạn ở sông Cái được vài tuần, lượng thấy thế cô, bèn ngầm đi thuyền đến chỗ vua xin hàng, anh
em nhìn nhau mà khóc.
Trần Thủ Độ nghe tin, đến thẳng thuyền vua, rút gươm định giết Trần Liễu. Nhà vua phải lấy thân mình che đỡ
cho anh. Trần Thủ Độ tức lắm ném gươm xuống sông nói: "Ta chỉ là con chó săn thôi, biết đâu anh em các
người thuận nghịch thế nào?"
Vua nói giải hoà, rồi bảo Trần Thủ Độ rút quân về.

Nhà vua lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang (nay là Đông Triều, Yên Hưng, Quảng
Ninh) là đất thang mộc và phong cho anh là Yên Sinh Vương.
Hoàng hậu Thuận Thiên sau sinh ra Quốc Khang, thái tử Hoảng, Quang Khải, Nhật Vĩnh, ích Tắc, Nhật Duật
đều được phong Vương, và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.
Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258)
Năm Đinh Tỵ - 1257, Hốt Tất Liệt sai một đạo quân do tướng Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy đánh lấy nước Đại
Lý (Vân Nam) và sai sứ sang dụ ta hàng. Vua Trần Thái Tông bắt giam sứ Mông Cổ và hạ lệnh cho các quan
ngoài biên ải đề phòng cẩn mật, ba lần sứ sang Đại Việt đều không thấy về.
Ngày 12 tháng 12 năm 1257, Hốt Tất Liệt sai danh tướng Ngột Lương Hợp Thai đem 10 vạn quân sang xâm
lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn, toàn quân và toàn quân
ta đã dũng cảm chống quân xâm lược Nguyên - Mông, một đế quốc hung hãn và mạnh nhất thời đại. Bấy giờ.
quân Nguyên - Mông đã chiếm đóng hầu khắp châu Âu, đến tận Ba Tư và đã chiếm đóng gần hết Trung Quốc.
Thế giặc mạnh quá, để bảo toàn lực lượng, ta phải bỏ kinh đô Thăng Long lui quân về giữ Mãn Trù, Khoái
Châu, Hưng Yên. Vua Trần Thái Tông hỏi ý kiến Thái uý Nhật Hiệu thì Nhật Hiệu lấy nước viết vào mạn
thuyền hai chữ "Nhập Tống". Vua lại đến hỏi ý kiến Thái sư Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ khảng khái nói rằng:
"Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".
Quân dân Đại Việt ta đã dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực kẻ thù, đợi cho kẻ
thù bị quẫn bách về lương thực, khốn khổ vì không hợp thuỷ thổ. Quân ta tổ chức phản công địch ở Đông Bộ
Đầu thắng lợi, quân Nguyên phải rút chạy về nước. Thế là đất nước ta sạch bóng quân thù, giữ vững được nền
độc lập của Tổ quốc.
Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258, vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, đây là một
cách tập sự cho con quen với việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng hoàng để cùng coi
việc nước.
Ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu - 1277, Thái Thượng hoàng mất, thọ 60 tuổi, trị vì được 33 năm, làm Thái
Thượng hoàng 19 năm.
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)
Là con trưởng dòng đích của Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng Thái hậu Lý Thị, sinh ngày 25
tháng 9 năm Canh Tý - 1240. Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ - 1258 lên ngôi hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu
Long năm thứ 1.
Thánh Tông là một vị vua nhân từ độ lượng, hết lòng chăm lo việc nước. Về đối nội, nhà vua khuyến khích khai

khẩn đất hoang, mở mang điền trang thái ấp bằng cách chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc, giúp họ an cư
lạc nghiệp. Nhà vua khuyến khích việc học hành bằng cách mở các khoa thi để lựa chọn người tài mà trọng
dụng, thời Trần đã xuất hiện "Lưỡng quốc Trạng nguyên" Mạc Đĩnh Chi, nhà sử học Lê Văn Hưu đã viết bộ
quốc sử đầu tiên của nước ta là "Đại Việt sử ký".
Về đối ngoại. Lúc đó nhà Nguyên đã chiếm toàn bộ Trung Quốc của nhà Tống, đang chuẩn bị điều kiện để thôn
tính Đại Việt, chúng sai sứ sang phong Vương cho Vua Trần Thánh Tông và bắt nước ta cứ 3 năm một lần cống
nạp nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy tướng số và những nghệ nhân giỏi mỗi loại 3 người cùng với những sản
vật: sừng tê giác, ngà voi, đồi mồi, châu báu và những vật lạ khác, chúng còn đòi đặt quan Chưởng ấp giám sát
các châu quận Đại Việt để chuẩn bị xâm lược nước ta.
Vua Trần Thánh Tông đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo những rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự
và nền độc lập của Tổ quốc. Mặt khác, quan tâm đến việc luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, vũ khí chuẩn bị
cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Vua Trần Thánh Tông ở ngôi được 20 năm, làm
Thái Thượng hoàng 12 năm. Ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần - 1290 Thái Thượng Hoàng mất ở cung Nhâm
Thọ, hưởng thọ 51 tuổi. 3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)
Con trưởng Thánh Tông, mẹ là Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu, sinh ngày 11 tháng 11 Mậu Ngọ -
1258, ngày mồng 1 tháng Giêng năm Kỷ Mão - 1279 lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Thiệu Bảo.
Vua Trần Nhân Tông là một vị vua nhân từ, hoà nhã, cố kết lòng dân, quyết đoán, hết lòng vì dân vì nước trong
thời gian 14 năm ở ngôi khi đất nước Đại Việt ta trải qua hai cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
Mông hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ.
Kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285)
Tháng 12/1284, vua Nguyên sai Thái tử Thoát Hoan đem 500 nghìn quân sang xâm lược nước ta, có thêm 100
nghìn quân của Toa Đô chỉ huy từ Chiêm Thành đánh ra Nghệ An, kẹp ta vào thế bị đánh cả hai đầu.
Giúp việc Thoát Hoan có tả tướng Lý Hằng, hữu tướng Lý Quán làm Tham tán nhung vụ và bọn đại tướng Toa
Đô, Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đải, Phàn Tiếp v.v
Trước khi quân Nguyên vào xâm lược nước ta, Thái Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông
đã sắc phong cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc công tiết chế chỉ huy toàn bộ quân dân Đại
Việt kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông.
Các vua Trần đã tổ chức Hội nghị quân sự ở Bình Than và tháng 8-1284, Hưng Đạo Đại Vương tổ chức tập trận
ở Đông Bộ Đầu. Người đã công bố "Hịch tướng sĩ" để khích lệ lòng yêu nước của toàn quân, toàn dân.
Các vua Trần đã tổ chức hội nghị các bô lão trong cả nước ở điện Diên Hồng để hỏi ý dân nên hàng hay nên

đánh, cả nước đồng lòng "đánh". Quân và dân ta khắc vào tay hai chữ "Sát Thát" (Giết giặc Nguyên). Với quyết
tâm giết giặc của toàn quân và toàn dân, dưới sự chỉ huy chiến lược tuyệt vời của Hưng Đạo Đại Vương Trần
Quốc Tuấn ta tổ chức đánh cầm cự, bỏ kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng, dùng chiến tranh du kích,
vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch, đợi cho quân địch khốn khổ vì thiếu lương thực mới tổ chức
phản công địch ở mọi phía. Với chiến thắng lẫy lừng ở Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Vạn Kiếp chỉ trong
vòng nửa năm, quân Nguyên bị đánh tơi bời, phải rút chạy. Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán bị chém đầu tại trận,
còn Thoát Hoan phải chui vào ống đồng cho người khiêng chạy về nước mới thoát chết.
Ngày 6 tháng 6 năm 1285, quân và dân ta tiến về giải phóng kinh đô Thăng Long, mở hội ca khúc khải hoàn.
Trong chiến thắng quét sạch quân Nguyên - Mông lần này ra khỏi bờ cõi, có công lao to lớn của hai anh em tù
trưởng dân tộc ít người miền núi Phú Thọ là Hà Đặc và Hà Chương đã dùng mưu trí, tổ chức dân binh địa
phương, phối hợp với quân triều đình, đánh quân Nguyên - Mông ở sau lưng địch, làm cho chúng mất ăn mất
ngủ. Hà Đặc đã anh dũng hy sinh ở A Lạp khi đánh quân giặc đang bắc cầu phao ở đó. Chiến thắng quân
Nguyên - Mông lần thứ 2 (1285) là thể hiện sức mạnh đoàn kết kháng chiến chống ngoại xâm của toàn thể cộng
đồng các dân tộc Đại Việt thời bấy giờ.
Kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (1288)
Sau hai lần xâm lược nước ta bị thất bại nhục nhã. Vua Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vô cùng căm giận, ra lệnh
huy động 500 nghìn quân ở các tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, Vân Nam và các châu ngoài biển như
Nhai, Quỳnh, Đam vẫn trao cho Thoát Hoan thống Lĩnh, cho A Bát Xích làm Tả thừa, Áo Lỗ Xích làm Bình
chương sự, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp làm tham tri chính sự, đưa quốc vương bù nhìn Trần ích Tắc đi theo đoàn
quân Nguyên - Mông sang xâm lược nước ta một lần nữa.
Lại sai Vạn Hộ hầu Trương Văn Hổ theo đường biển vận tải 700 nghìn thạch lương thực sang cung cấp cho
quân xâm lược.
Mùa đông năm Đinh Hợi - 1287, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của Trấn nam vương Thoát Hoan ồ ạt kéo vào
xâm lược nước ta.
Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Quốc công tiết chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, toàn quân và dân ta lại
dùng chiến tranh du kích, vườn không nhà trống để tiêu hao sinh lực địch.
Ngày 24/11/1287, Phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toán đánh lui địch ở eo biển Đa Mỗ (Móng Cái, Quảng
Ninh).
Ngày 28/12/1287, quân ta phục kích bắn chết Sảnh đô sự hầu Sư Đạt của giặc tại ải Nội Bàng.
Ngày 8/1/1288, quân ta đánh bắt được 300 thuyền giặc tại cửa biển Đại Bàng, giặc bị giết và chết đuối rất

nhiều.
Tại trận Vân Đồn Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi đem quân ra đón thuyền lương của Trương Văn Hổ gặp quân của
Trần Khánh Dư hai bên giao chiến, Trần Khánh Dư thất bại, vua Trần cho Trung sứ bắt về trị tội. Trần Khánh
Dư xin ở lại lập công chuộc tội.
Khánh Dư trở lại, chờ cho Ô Mã Nhi đi qua, đem quân tấn công vào đoàn thuyền trở lương thực cướp được
nhiều lương thực và vũ khí còn lại cho đánh chìm xuống biển. 11/1/1288, Trương Văn Hổ phải lẻn xuống
thuyền nhỏ trốn về nước.
Ngày 8/3/1288, quân Nguyên hội ở sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của Trương Văn Hổ nhưng không
gặp.

×