Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Bài thuyết trình môn HÓA HỌC HÓA LÝ SILICATE Đề Tài THỦY TINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.54 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
Bài thuyết trình môn: HÓA HỌC HÓA LÝ SILICATE
Đề Tài: THỦY TINH
GVHD: Hồ Thị Ngọc Sương
Nhóm thực hiện: nhóm 11
1
2
PHỤ LỤC
Giới thiệu………………………………………………3
I. Tìm hiểu chung về thủy tinh 4
I.1. nguồn gốc thủy tinh 4
II. phân loại thủy tinh 5
III. tính chất của thủy tinh 6
IV. quy trình sản xuất thủy tinh 11
IV.1. tìm hiểu sơ về các phương pháp sản xuất 11
Tài liệu tham khảo 19


Giới thiệu
Từ xa xưa, người ta chưa thể định nghĩa được thủy tinh có từ khi
nào, mà chỉ biết rằng nó đã xuất hiện cách đây vài ngàn năm
trước công nguyên.cho dù vậy nhưng chúng ta cũng không thể
không khẳng định rằng thủy tinh rất có ích trong cuộc sống, từ
những vậy phẩm nhỏ nhẹ nhất tới các vật to lớn như cái bình,
cái lọ bằng thủy tinh, nói chung thủy tinh có mặt khắp mọi nơi
3
xung quanh chúng ta, giờ đây thủy tinh còn được trở thành món
đồ trang sức quý giá đắt tiền, trong phòng thí nghiệm tạo ra các
ống nghiệm thủy tinh chịu nhiệt rất tốt,…thủy tinh nó có rất
nhiều giai đoạn phát triển qua bao thăng trầm thời đại, cũng có


lúc nó cũng bị mờ nhạt trong một thời gian nào đó, tuy nhiên đó
chỉ là vấn đề nhỏ so với nhiều tính năng phổ biến của nó. Để
hiểu sâu hơn cũng như biết nhiều hơn về thủy tinh, hôm nay
nhóm chúng tôi sẽ chọn chủ đề về thủy tinh để thuyết trình.
Nội dung bài thuyết trình bao gồm các phần sau:
1.Tìm hiểu chung về Thủy Tinh.
2. Phân loại Thủy Tinh.
3. Tính chất của Thủy Tinh.
4. Quy trình sản xuất Thủy Tinh
5. Ứng dụng của Thủy Tinh
I. Tìm hiểu chung về thủy tinh.
I.1.Nguồn gốc của thủy tinh.
Cho đến tận ngày nay, không có sự xác nhận về nguồn gốc của thuỷ tinh.
Tuy nhiên, có thể nói nguồn gốc của nó từ Mesopotamia hoặc Ai Cập khoảng
hai nghìn năm trước Công nguyên. Khi đó thủy tinh được sử dụng như là
men màu cho nghề gốm và các mặt hàng khác. Những nền văn hoá cổ xưa
này đã làm ra những đồ vật bằng thuỷ tinh với phương pháp đúc thô sơ.
Những người thợ thuỷ tinh đầu tiên tạo hình cho thuỷ tinh bằng cách đắp
4
thuỷ tinh lỏng xung quanh một cái lõi bằng cát hay đất sét, sau đó dỡ bỏ
nguyên liệu làm lõi. Cuối cùng thuỷ tinh đã nguội được cắt bẻ và mài bóng.
Trong thế kỷ 1 trước công nguyên kỹ thuật thổi thủy tinh đã
phát triển và những thứ trước kia là hiếm và có giá trị đã trở
thành bình thường. Trong thời kỳ đế chế La Mã rất nhiều loại
hình thủy tinh đã được tạo ra, chủ yếu là các loại bình và chai
lọ. Thủy tinh khi đó có màu xanh lá cây vì tạp chất sắt có
trong cát được sử dụng để sản xuất nó. Thủy tinh ngày nay
nói chung có màu hơi ánh xanh lá cây, sinh ra cũng bởi các
tạp chất như vậy. Các loại thủy tinh có nguồn gốc tự nhiên,
gọi là các loại đá vỏ chai, đã được sử dụng từ thời kỳ đồ đá.

Chúng được tạo ra trong tự nhiên từ các nham thạch (magma)
núi lửa. Trong thiên niên kỷ tiếp theo, việc chế tạo thuỷ tinh
được thực hiện rộng rãi hơn trong thế giới cổ đại và đã có một
số cải tiến trong phương pháp chế tạo thuỷ tinh cơ bản, ví dụ
như công việc cắt. Người nguyên thủy dùng đá vỏ chai để làm
các con dao cực sắc và học được cách cho thêm một số thành
phần vào thuỷ tinh để tăng độ bền, làm cho thuỷ tinh trong
hơn hay tạo ra màu sắc đặc biệt. Tuy nhiên việc chế tạo thuỷ
tinh vẫn còn rất khó và thuỷ tinh chủ yếu được dùng trong
hoàng gia cho những nghi thức tôn giáo.
II. phân loại thủy tinh.
1. Thủy tinh dùng trong xây dựng: kính là; thủy tinh bọt; gạch
thủy tinh; thủy tinh cốt thép.
2. Thủy tinh dân dụng: chai, lọ, bao bì, cốc, bát, đĩa …
5
3. Thủy tinh bền hóa chịu nhiệt:dụng cụ thí nghiệm, thủy tinh
thạch anh, thủy tinh hàm lượngSiO2 cao, thủy tinh làm bóng
đèn, phích nước …
4. Thủy tinh quang học:dùng trong các dụng cụ quang học, có
thể trong suốt hoặc có màu.
5. Thủy tinh điện chân không
6. Thủy tinh sợi và cốt thép dùng trong công nghệ vỏ tàu thủy,
các chi tiết bao che bền hóa bền cơ.
7. Thủy tinh an toàn làm kính ô tô, máy bay (tác động lực lớn
không bị vỡ, khi bị vỡkhông tạo thành mảnh sắc).
8. Men tráng kim loại là loại thủy tinh có độ co giãn nhiệt
tương đương với vật cần tráng
9. Thủy tinh đặc biệt có những tính chất đặc biệt như chịu va
đập, chịu nhiệt cao hơn; thủy tinh ngăn hoặc cho một số tia đi
qua.

10. Sitan: là loại thủy tinh có các tinh thể kết tinh đều đặn, độ
bền nhiệt, hóa và cơ rất cao.
III. Tính chất của Thủy Tinh.
* Thuỷ tinh có các tính chất sau:
Thủy tinh có thể thay đổi tính chất, tùy theo việc lựa chọn tạm
chất và hàm lượng pha thêm khi nấu thủy tinh.
Truyền sáng: Một trong những đặc trưng rõ nét nhất của thủy
tinh thông thường là nó trong suốt đối với ánh sáng nhìn thấy,
6
mặc dù không phải mọi vật liệu thủy tinh đều có tính chất như
vậy do phụ thuộc vào tạp chất. Độ truyền sáng của thủy tinh
trong vùng bức xạ tử ngoại và hồng ngoại thay đổi tùy theo việc
lựa chọn tạp chất.
Ánh sáng nhìn thấy: Tính trong suốt của thủy tinh trong ánh
sáng nhìn thấy là do sự vắng mặt của trạng thái chuyển tiếp của
các điện tử trong khoảng bước sóng của ánh sáng nhìn thấy, và
trạng thái này là thuần nhất trong mọi bước sóng hơn là chỉ
trong khoảng bước sóng của ánh sáng nhìn thấy (sự không thuần
nhất làm cho ánh sáng bị tán xạ, làm tán xạ hình ảnh được
truyền qua).
Các kim loại và ôxít kim loại được bổ sung thêm vào thủy tinh
trong quá trình sản xuất nó để thay đổi màu sắc của nó. Mangan
có thể thêm vào với một lượng nhỏ để loại bỏ màu xanh lá cây
tạo ra bởi sắt hay trong một lượng lớn hơn để cho thủy tinh có
màu tím amêtít. Giống như mangan, sêlen có thể sử dụng với
một lượng nhỏ để làm bay màu của kính, hay trong một lượng
lớn hơn để tạo ra màu hơi đỏ. Một lượng nhỏ côban (0,025 đến
0,1%) sinh ra thủy tinh màu xanh da trời. Ôxít thiếc với
antimoan và ôxít asen sinh ra thủy tinh màu trắng đục, lần đầu
tiên đã được sử dụng ở Vênidơ để sản xuất đồ giả sứ. 2 đến 3%

của ôxít đồng sinh ra màu xanh lam. Đồng kim loại nguyên chất
sinh ra thủy tinh mờ có màu đỏ thẫm, nó đôi khi được sử dụng
thay thế cho thủy tinh màu hồng ngọc của vàng. Niken, phụ
thuộc vào nồng độ, sinh ra thủy tinh có màu xanh da trời hay
màu tím hoặc thậm chí là màu đen. Sự bổ sung titan sinh ra thủy
tinh có màu nâu vàng. Vàng kim loại trong một lượng rất nhỏ
7
(khoảng 0,001%), sinh ra thủy tinh có màu hồng ngọc thẫm,
trong khi một lượng thấp hơn sinh ra màu đỏ nhạt hơn, thông
thường gọi là màu "cranberry". Nguyên tố uran (0,1 đến 2%) có
thể thêm vào để thủy tinh có màu vàng phản quang hay màu
xanh lá cây. Thủy tinh uran nói chung là không nguy hiểm về
phóng xạ, tuy vậy nếu nó ở dạng bột, chẳng hạn như đánh bóng
bằng giấy nhám, và dạng bụi thì nó là tác nhân gây ung thư. Hợp
chất của bạc (thông thường là nitrat bạc) có thể sinh ra một
khoảng màu từ đỏ da cam đến vàng. Phương thức đốt nóng và
làm lạnh thủy tinh có thể có ảnh hưởng đáng kể tới màu sinh ra
bởi các chất này. Các chất này tham gia vào cấu trúc thủy tinh
như thế nào hiện nay vẫn chưa được nghiên cứu kỹ. Các loại
thủy tinh màu khác vẫn thường xuyên được tìm ra.
Tính ổn định hoá học: Kính có độ bền hoá học cao. Độ bền hoá
học phụ thuộc vào thành phần của kính. Các oxýt kiềm càng ít
thì độ bền hoá học của nó càng cao.
Tính chất quang học: là tính chất cơ bản của kính. Kính silicat
thường cho tất cả những phần quang phổ nhìn thấy được đi qua
và thực tế không cho tia tử ngoại và hồng ngoại đi qua. Khi thay
đổi thành phần và màu sắc của kính có thể điều chỉnh được mức
độ cho ánh sáng xuyên qua.
+ Tử ngoại: Thủy tinh thông thường không cho ánh sáng có
bước sóng nhỏ hơn 400 nm, hay tia cực tím hoặc UV đi qua. Có

điều này vì sự bổ sung của các hợp chất như tro sô đa (cacbonat
natri). Thủy tinh thuần SiO2 (còn gọi là thủy tinh thạch anh)
không hấp thụ tia UV và nó được sử dụng trong các ứng dụng
yêu cầu độ trong suốt trong khoảng bước sóng này, mặc dù nó
8
đắt hơn thủy tinh thường. Có thể pha thêm xêri vào thủy tinh để
tăng việc hấp thụ tia cực tím (các bức xạ ion hóa nguy hiểm về
mặt sinh học).
+ Hồng ngoại: Thủy tinh có thể sản xuất đến mức độ tinh khiết
mà hàng trăm kilômét thủy tinh vẫn là trong suốt ở bước sóng
hồng ngoại trong các sợi cáp quang. Một lượng lớn của sắt được
sử dụng trong thủy tinh có khả năng hấp thụ nhiệt, chẳng hạn
như các tấm lọc hấp thụ nhiệt cho các máy chiếu phim.
Chiết suất: Chiết suất của thủy tinh có thể thay đổi khi có các thành phần
khác thêm. Thủy tinh có chứa chì, chẳng hạn như chì tinh thể hay thủy
tinh đá lửa, là “rực rỡ” hơn vì nó làm tăng chiết suất và sinh ra sự 'lấp
lánh' có thể nhận thấy rõ hơn. Việc bổ sung bari cũng làm tăng chiết
suất. Ôxít thori cho thủy tinh có hệ số chiết suất rất cao và nó được sử
dụng để sản xuất các lăng kính chất lượng cao
Khối lượng riêng của kính thường là 2500kg/m3. Khi tăng hàm lượng
oxýt chì thì khối lượng riêng có thể lên đến 6000kg/m3. Modun đàn hồi
của kính dao động trong khoảng 48.000 ÷ 83.000kg/cm2 (đối với kính
thạch anh ÷ 71.400kg/cm2). Sự có mặt của các oxýt CaO và B2O3 (có
thể đến 12%) làm modun đàn hồi tăng lên.
Kính có cường độ nén cao (700 ÷ 1000kg/cm2), cường độ kéo thấp (35
÷ 85kg/cm2), độ cứng của kính silicat thường là 5 ÷ 7. Kính giòn (cường
độ uốn va đập khoảng 0,2 kg/cm2). Hệ số nở nhiệt của kính thấp: kính
thạch anh 5,8.10-7/00C-1; kính xây dựng thường 9.10-6 ÷ 15.10-6/00C.
Độ dẫn nhiệt của kính thường khi nhiệt độ nhỏ hơn 1000C là 0,34 ÷ 0,71
kCal/m.0C.h. Kính thạch anh có độ dẫn nhiệt lớn nhất

(1,16kCal/m.0C.h). Kính chứa nhiều oxýt kiềm có độ dẫn nhiệt nhỏ.
Kính có khả năng gia công cơ học, cưa, cắt được bằng dao có đầu kim
cương; mài nhẵn đánh bóng được. Ở trạng thái dẻo (khi nhiệt độ 800 ÷
10000C) có thể tạo hình, thổi kéo thành tấm, ống, sợi.
9
Nhiệt độ nóng chảy: Như mọi chất rắn vô định hình, thủy tinh không có
điểm nóng chảy nhất định. Natri nói chung được thêm vào để hạ nhiệt
độ nóng chảy của thủy tinh. Sự bổ sung sô đa hay bồ tạt đôi khi còn hạ
nhiệt độ nóng chảy xuống thấp hơn.
Độ dẫn điện: Độ dẫn điện và độ dẫn nhiệt của thủy tinh có thể thay đổi
khi thêm bo, chẳng hạn như ở Pyrex.
 nói chung thủy tinh có rất nhiều tính chất, để dễ thấy hơn,
nhóm xin tóm tắt lại một cách gạn gàng như sau: gồm 7 tính
chất cơ bản.
1. Tính cứng : Thủy tinh là chất rắn trong suốt tương
đối cứng, khó mài mòn và gần như trơ về mặt hóa học
ở điều kiện thường, dễ bị gãy vỡ dưới tác động của lực,
nhiệt độ.
2. Tính truyền sáng : Cũng nhờ có cấu tạo đặc biệt này,
mà thủy tinh trở nên trong suốt. Độ truyền sáng của thủy
tinh trong vùng bức xạ tử ngoại và hồng ngoại thay đổi
tùy theo việc lựa chọn tạp chất.
3. Màu sắc:
* Thủy tinh loại thường có màu xanh lục gây nên
bởi màu của sắt (II) silicat.
* Các kim loại và Oxit kim loại được bổ sung
thêm vào thủy tinh trong quá trình sản xuất để thay đổi
10
màu sắc của thủy tinh.
4. Khả năng hấp thụ tia tử ngoại và hồng ngoại:

* Thủy tinh thông thường không cho tia cực tím
(UV) đi qua.
* Thủy tinh có thể sản xuất đến mức độ tinh khiết
mà hàng trăm kilômét thủy tinh vẫn là trong suốt ở bước
sóng hồng ngoại trong các sợi cáp quang.
5. Chiết suất : của thủy tinh có thể thay đổi khi có các
thành phần khác thêm vào.
6. Nhiệt độ nóng chảy : như mọi chất rắn vô định
hình, thủy tinh không có điểm nóng chảy nhất
định.
7. Độ dẫn điện : Độ dẫn điện và độ dẫn nhiệt của
thủy tinh có thể thay đổi khi thêm Bo, chẳng hạn
như ở Pyrex.
IV.Quy trình sản xuất Thủy Tinh
1. Chọn nguyên liệu.
2. Chuẩn bị phối liệu.
3. Tạo pha đồng nhất và làm trong.
11
4. Tạo hình.
5. Làm nguội – tôi.
6. Xử lý và gia công tiếp theo.
Trước tiên hãy tìm hiểu sơ về các phương pháp sản xuất thủy
tinh.
IV.1. Các phương pháp sản xuất thuỷ tinh
- Phương pháp Crown (vương miện): Công nghệ thủy tinh
Crown đã được sử dụng cho đến giữa những năm 1800. Trong
công nghệ này, ống thổi thủy tinh có thể xoay tròn khoảng 9lb (4
kg) thủy tinh lỏng tại phần cuối của ống cho đến khi nó được
làm phẳng thành đĩa đường kính khoảng 5 ft (1,5 m). Đĩa sau đó
được cắt thành tấm chữ nhật. Thủy tinh của người Vênidơ là cao

giá giữa thế kỷ 10 và thế kỷ 14 bởi vì họ giữ được bí quyết.
Khoảng năm 1688, công nghệ đúc thủy tinh đã được phát triển,
dẫn tới việc sử dụng nó như một vật liệu thông dụng. Sự phát
minh ra máy ép thủy tinh năm 1827 cho phép sản xuất hàng loạt
các đồ vật từ thủy tinh rẻ tiền hơn.
Sau khi hoàn thành việc này, sự yêu cầu hình thù Crown là hâm
nóng lại đến khi nó đến khi hóa mềm và quay với tốc độ cao, sử
dụng thanh iron như một axit.
Lực ly tâm làm miệng của Crown sau đó mở ra rộng, mức độ
như dạng hình đĩa khoảng 1 mét trong thấu kính.Đây là cắt để
hoàn thành tấm kính.
- Phương pháp ống xi lanh:
Được phát kiến bởi William J. Blenko trong những năm đầu của
12
thập niên 1900. Trong phương pháp này, vật liệu cơ bản tan ra là
ống hình trụ, hoặc nếu sắp xếp rộng, vật liệu trở thành miệng
hình trụ dạng ống. Sau đó, tất cả các phần cuối của ống cần kỹ
năng rất cao và hình trụ dọc tách ra thành khoảng rộng.
Công việc này cần tiến hành trên nền tảng của tấm kim loại của
lò luyện với một thanh sắt nối với gỗ châm lửa trong sự đun
nóng kim loại đến nhiệt độ gia công hình trụ trong lò luyện.
- Phương pháp kính kéo nổi:
Phương pháp này đã phát triển vào những năm 1960. Những
công ty có bản quyền công nghệ kính nổi của Pilkington đã nâng
cao năng suất của mình và giảm giá kính, gây ra những khó
khăn đối với những công ty chưa có công nghệ kính nổi. Cho
đến năm 1975, số dây chuyền kính nổi chiếm tới 97% số dây
chuyền sản xuất kính trên thế giới, qua đó có thể khẳng định
công nghệ của Pilkington là một trong những phát minh vĩ đại
nhất trong lịch sử của ngành công nghiệp kính.Thuỷ tinh tan ra

trên đỉnh của kim loại nấu chảy là sản phẩm của tấm thuỷ tinh.
Thuỷ tinh tan là sự chuyển từ lò luyện, đặt trên tấm trôi và sau
đó chảy lỏng theo chiều dài đỉnh của kim loại nấu chảy trên tấm
đó. Trong quy trình này, nhiệt độ dưới sự điều khiển nghiêm
ngặt và thuỷ tinh trôi sẽ dày và rộng hơn ở miệng.
Bề mặt của tấm kim loại nóng chảy là hoàn toàn nằm ngang, do
vậy làm cho tất cả các mặt của thủy tinh trôi cũng hoàn toàn
nằm ngang. Trong khoảng thời gian giữa, thuỷ tinh nóng từ cả
hai mặt trên và dưới và không tiếp xúc bởi bất kỳ một vật liệu
rắn nào. Vì vậy, cả hai mặt đều bóng và nóng tự nhiên.
Ngoài ra, thuỷ tinh lạnh có mức độ trở thành không bị biến
13
dạng, méo mó khi chống chất lên trên trục lăn. Sau đó nó được
rửa sạch, để khô và cuối cùng cắt trở thành các cỡ rộng.
Công nghệ kính nổi cho ra đời nhiều công nghệ mới và những
sản phẩm kính mới. Lần đầu tiên, kính tấm chất lượng cao được
làm ra với nhiều độ dày khác nhau từ 0,5-19mm hay lớn hơn.
Kính được làm dày hơn vì mục đích an toàn, chống ồn mà vẫn
đảm bảo những tiêu chuẩn thẩm mỹ. Thêm vào đó công nghệ
này còn cho phép những nhà sản xuất thay đổi thành phần phối
liệu để làm ra những sản phẩm mới, trong số đó có kính màu.
Do cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu vào đầu những năm
1970, nhu cầu kính tấm có suy giảm và ảnh hưởng đến toàn
ngành công nghiệp. Vì những lý do hiệu quả năng lượng, kính
được sử dụng ít hơn trong những cao ốc. Công nghiệp xây dựng
nhà ở bên bờ vực do sự tụt hậu nghiêm trọng của nền kinh tế.
Những chiếc xe hơi nhỏ gọn sử dụng ít kính hơn, và như là để
làm cho tình hình càng xấu hơn, hãng Ford Motor bắt đầu sản
xuất kính nổi cho nhu cầu riêng của họ, làm giảm nghiêm trọng
mức kính bán cho ngành chế tạo ôtô. Thực tế, năm 1970 công ty

Nashville của Ford là nhà sản xuất kính nổi lớn nhất thế giới.
- Phương pháp thuỷ tinh tan:
Trong phương pháp này, sản phẩm thuỷ tinh tan trực tiếp qua hai
trục lăn nuớc lạnh.
Trong sản phẩm thuỷ tinh tan, bề mặt thủy tinh được khắc với
các khuôn mẫu trên trục lăn thấp hơn và sau đó thuỷ tinh tan đã
được gửi trong một dạng hình dải băng tiếp diễn lên trên thùng
chứa lạnh.Ở bên ngoài thùng chứa, dải băng sẽ cắt thành cỡ cụ
thể để sản xuất hoàn thành sản phẩm.
14
sau khi đã tìm hiểu sơ về các phương pháp sản xuất thủy tinh và
bây giờ hãy đi sâu vào quy trình sản xuất.
Trước tiên là công đoạn chọn nguyên liệu: Nguyên liệu nấu
Thủy Tinh gồm có:
1. Cát là thành phần chủ yếu, chiếm 60-70% lượng phối liệu.
Cát cung cấp SiO2.
2. Tràng thạch cung cấp chủ yếu Al2O3 cho thủy tinh, làm
tăng độ bền nhiệt, bền cơ, bền hóa cho thủy tinh. Ngoài ra nó
còn cung cấp cho thủy tinh oxit kim loại kiềm và SiO2.
3. Đá vôi và Đolomi cung cấp CaO và MgO làm tăng độ bền
hóa, hạ thấp nhiệt độ nấu cho thủy tinh.
4. Borac (hàn the) có công thức Na2B4O7.10H2O cung cấp
B2O3 và một phần oxit kiềm. Có tác dụng làm tăng độ bền
nhiệt, bền hóa cho thủy tinh.
5. Xôđa (Na2CO3) hoặc Na2SO4 hoặc K2CO3 cung cấp oxit
kiềm,
nhằm hạ thấp nhiệt độ nấu của thủy tinh, ngoài ra khi phân hủy
chúng còn tỏa khí có tác dụng khử bọt ở nhiệt độ thấp.
15
6. Mảnh thủy tinh vỡ có thể dùng với lượng khoảng 15-30%.

Mảnh vỡ được dùng như 1 phối liệu nhưng phải bổ sung thêm
chất chảy, oxit mất mát do nấu lần trước.
7. Nguyên liệu phụ làm thay đổi tính chất nào đó của thủy tinh
hoặc rút ngắn thời gian nấu. Nguyên liệu phụ bao gồm chất khử
bọt và chất nhuộm màu.
Tiếp đến là phối liệu:
Trước khi phối liệu vào lò nấu thủy tinh thì ta cầm làm
một số công đoạn sau :
* Làm giầu cát : chủ yếu là tách oxit sắt và các tạp chất hữu cơ.
* Sấy nguyên liệu: các loại đá đập nghiền rồi sấy (ở dưới
4000C),cát sấy ở nhiệt độ 9000C-10000C.
* Đập, nghiền, sàng nguyên liệu: đến cỡ hạt yêu cầu khoảng
7mm.
* Đóng bánh: nhằm mục đích giảm thiểu bụi phối liệu bay đột
ngột khi phối liệu vào lò, tránh gây sai số thành phần phối liệu.
Tiếp theo là giai đoạn nấu thủy tinh: bao gồm 5 giai đoạn chính:
1. Giai đoạn tạo Silicat: nhiệt độ đến 900C-1000 độ. Trong giai
đoạn này phần lớn khí
16
trong các phối liệu bay đi, các phản ứng giữa các oxit chủ yếu ở
trạng thái rắn. Cuối quá trình là các hợp chất Silicat.
2. Giai đoạn tạo Thủy tinh: nhiệt độ đến 12500C-13000C. Toàn
bộ vật chất đã chảy lỏng, khối thủy tinh đã trong nhưng vẫn còn
vân và bong bóng.
3. Giai đoạn khử bọt: nhiệt độ đến 14000C-15000C. Ở nhiệt độ
này độ nhớt khối thủy tinh bé, chất khử bọt bị phân hủy tạo khí,
khí thoát ra làm đảo lộn khối thủy tinh lỏng. Cuối giai đoạn này
ta thấy khối thủy tinh trong suốt.
4. Giai đoạn đồng nhất: lưu ở nhiệt độ khử bọt. Khối thủy tinh
không còn vân và bọt nữa. Cả khối thủy tinh đã đồng nhất.

5. Giai đoạn làm lạnh: giảm nhiệt độ của khối thủy lỏng xuống
còn 11000C-13000C. Ứng với độ nhớt đảm bảo quá trình tạo
hình sản phẩm.
TẠO HÌNH
Muốn tạo hình thủy tinh, phải đưa khối thủy tinh
nóng chảy đến một nhiệt độ ứng với độ nhớt thích
hợp làm cho thủy tinh linh động dễ tạo hình. Một số phương
pháp tạo hình là :
1. Ép.
2. Phương pháp thổi
3. Phương pháp kéo
17
4. Phương pháp dát
5. Chắp nối
Gia công sản phẩm
Gia công nhiệt :
-Hấp (hay ủ).
- Tôi thủy tinh.
Gia công cơ học :
- Mài và đánh nhẵn.
Gia công hóa học :
- Dùng chất hóa học làm thay đổi tính chất bề
mặt của thủy tinh.
Và cuối cùng là ứng dụng của thủy tinh.
* Rất nhiều đồ dùng trong gia đình làm từ thủy tinh.
* Trong phòng thí nghiệm để làm các thí nghiệm
trong hóa học, sinh học, vật lý và nhiều lĩnh vực khác.
* Thủy tinh ngày nay có thể thay thế cho các dây thép.
* Ngôi nhà bằng thủy tinh
18

Tài liệu tham khảo :
1.
2.
3.Hóa lý silicat - Đỗ Quang Minh - Nhà xuất bản đại học quốc
gia Tp HCM
4.
19

×