Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Câu hỏi lý thuyết môn tái bảo hiểm và hướng dẫn trả lời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.64 KB, 19 trang )

1.1.Khái niệm,bản chất,vai trò của tái bảo hiểm
* Khái niệm:
-Tái bảo hiểm là hoạt động bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm .
-Tái bảo hiểm là hình thức mà thông qua đó công ty bảo hiểm tăng khả năng
nhận tái bảo hiểm và bảo vệ mình khỏi những tổn thất nghiêm trọng.
-Tái bảo hiểm là một phương thức bảo hiểm,bảo hiểm cho một công ty bảo
hiểm(công ty bảo hiểm gốc).Thông qua hình thức này khoản tiền tái bảo hiểm sẽ
được bồi thường cho thiệt hại theo các đơn bảo hiểm do công ty nhượng tái bảo
hiểm cấp.
⇒ Tái bảo hiểm là việc một công ty bảo hiểm có thể bảo vệ cho chính mình chống
lại các rủi ro tổn thất bằng việc chuyển giao rủi ro cho một công ty khác.Nói cách
khác,tái bảo hiểm là việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho một công ty bảo
hiểm.
* Bản chất:
Bảo hiểm là một phạm trù kinh tế mà mục đích chủ yếu là góp phần ổn định
kinh tế cho người tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống , đồng
thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước.Thực chất của hoạt
động bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những
người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh khi tai nạn rủi ro bất ngờ
xảy ra gây tổn thất đổi với người tham gia bảo hiểm.Chính vì vậy mà bảo hiểm có
sự đóng góp nhất định vào việc đảm bảo tính liên tục,sự ổn định và hiệu quả của
quá trình sản xuất,lưu thông và tiêu dùng của xã hội.
Mọi thành viên trong xã hội đều có thể được bảo vệ về mặt tài chính bởi mạng
lưới bảo hiểm,còn các công ty bảo hiểm thì sao?Họ nhận lấy những rủi ro mà các
thành viên trong xã hội chuyển giao cho,nhưng đến lượt nó,nó cũng có thể gặp
phải những rủi ro bất thường không thể lường trước được.Nhu cầu được bảo hiểm
của các công ty bảo hiểm lúc này cũng phát sinh và một trong những giải pháp hữu
hiệu để bảo đảm duy trì hoạt động kinh doanh của họ chính là tái bảo hiểm.
Về bản chất tái bảo hiểm là bảo hiểm cho người bảo hiểm.Nhiệm vụ chủ yếu
của tái bảo hiểm phân chia các rủi ro đã được bảo hiểm của các công ty bảo hiểm
gốc cho một tập thể các công ty tái bảo hiểm và thông qua đó sẽ tận dụng một cách


tối ưu
các quy luật thống kê.Với nhiệm vụ trên tái bảo hiểm ổn định kinh doanh cho các
công ty bảo hiểm gốc và tạo điều kiện cho các công ty này có thể nhận bảo hiểm
cho những rủi ro vượt quá khả năng tài chính của mình.
Nhưng dù thế nào thì bản chất của tái bảo hiểm cũng được thể hiện ở những nội
dung sau:
+ Tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro cho nhà bảo hiểm,thay vì một nhà bảo
hiểm gánh chịu tất cả các tổn thất xảy ra với đối tượng bảo hiểm thì sẽ có nhiều
nhà bảo hiểm khác cùng chia sẻ tổn thất đó với họ.Vì vậy giá trị tổn thất mà mỗi
nhà bảo hiểm gánh chịu được giảm đi nhiều lần.
+ Hoạt động tái bảo hiểm không cung cấp lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo
hiểm gốc nhưng đảm bảo sự ổn định trong kinh doanh cho họ.
+ Tái bảo hiểm hoạt động trên cơ sở số lớn nhằm phân chia rủi ro giữa những
nhà bảo hiểm với nhau.
+ Hoạt động tái bảo hiểm có tính chất quốc tế cao:Một hợp đồng bảo hiểm
gốc trong nước có thể được tái bảo hiểm sang các công ty bảo hiểm khác ở nước
ngoài.
* Vai trò của tái bảo hiểm:
Tái bảo hiểm có vai trò to lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, đối với cả những
người tham gia bảo hiểm.Vai trò của tái bảo hiểm được thể hiện:
- Phân tán rủi ro,góp phần ổn định tài chính cho công ty bảo hiểm gốc, đặc
biệt là trong những trường hợp xảy ra các sự cố thảm họa hay tích luỹ rủi ro.
- Nâng cao khả năng nhận bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc đối với những
rủi ro vượt quá khả năng tài chính của nó.Thường xảy ra đối với các hợp đồng bảo
hiểm có số tiền bảo hiểm lớn,mức trách nhiệm cao liên quan đến khả năng nhận
bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc với người tham gia bảo hiểm.Nhờ có tái bảo
hiểm mà các công ty bảo hiểm có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm lớn,vừa
đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về biên khả năng thanh toán,vừa không
phải từ chối khách hàng.
-Phòng ngừa thảm hoạ.Khi các rủi ro bất thường,rủi ro mang tính thảm

hoạ(bão, động đất,khủng bố,dịch bệnh…)xảy ra sẽ ảnh hưởng đến khả năng bồi
thường của công ty bảo hiểm gốc.Tái bảo hiểm cho phép các công ty bảo hiểm gốc
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với khách hàng bất chấp các rủi ro đó xảy
ra.
- Tái bảo hiểm là một công cụ quản trị rủi ro hữu hiệu của những nhà bảo
hiểm trong việc dàn trải rủi ro và tổn thất.
- Thông qua hoạt động tái bảo hiểm,công ty bảo hiểm gốc được hỗ trợ về mặt
tài chính nhờ khoản hoa hồng tái bảo hiểm,hỗ trợ về mặt kĩ thuật…
- Đối với khách hàng tham gia bảo hiểm: Do bảo hiểm là một hoạt động dịch
vụ đặc thù,cung cấp sự cam kết bồi thường trên cơ sở phí bảo hiểm đóng trước nên
có thể nói tái bảo hiểm là công cụ giúp cho khách hàng yên tâm hơn trong việc
đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm gốc.Nhờ có tái bảo hiểm
mà khách hàng có thể nhận được bồi thường chình xác,đầy đủ và kịp thời.
- Đối với nền kinh tế và xã hội: Tái bảo hiểm không chỉ là sự phân tán rủi ro
cho những nhà bảo hiểm mà còn là sự phân tán rủi ro giữa các quốc gia với nhau vì
vậy những tổn thất lớn hoàn toàn có thể được chia sẻ với số lượng đông người
tham gia bảo hiểm.Nhờ đó góp phần thúc đẩy và phát triển quan hệ kinh tế quốc tế
giữa các nước bởi tái bảo hiểm là hoạt động mang tính chất quốc tế : các hoạt động
nhân tái và nhượng tái diễn ra giữa các công ty bảo hiểm,tái bảo hiểm trong và
ngoài nước nhằm san sẻ rủi ro và lợi nhuận.
1.2. So sánh bảo hiểm,đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm.
* Giống nhau:
+ Cả ba hoạt động này đều bảo vệ sự ổn định về tài chính cho người được
bảo hiểm.
+ Đều tuân thủ theo quy luật số đông.
+ Đều là hiện tượng phân tán rủi ro,chuyển giao tổn thất.
+ Đều là hoạt động dịch vụ tài chính.
*Khác nhau:
Tiêu thức so sánh Bảo hiểm Đồng bảo hiểm Tái bảo hiểm
1.Bản chất Bảo hiểm là

tổng thể các mối
quan hệ kinh tế xã
hội giữa bên tham
gia với bên bảo
hiểm nhằm mục
đích ổn định cuộc
sống và sản xuất
cho bên tham gia
khi đối tượng bảo
hiểm gặp phải
những rủi ro bất
ngờ gây hậu quả
thiệt hại và đáp ứng
một số nhu cầu
khác của họ.
Đồng bảo hiểm
nghĩa là một đối
tượng bảo hiểm có
thể được bảo hiểm
bới các nhà bảo
hiểm khác nhau
cùng một lúc
Tái bảo hiểm
là hoạt động bảo
hiểm cho các công
ty bảo hiểm
2. Đối tượng được
bảo hiểm
Bao gồm tài
sản,trách

nhiệm,con người.
Bao gồm tài
sản,trách
nhiệm,con người.
+Trách
nhiệm,nghĩa vụ bồi
thường của doanh
nghiệp bảo hiểm
gốc với tài
sản,trách
nhiệm,con người
được bảo hiểm
trong đơn bảo
hiểm.
+ Giá trị hợp đồng
bảo hiểm gốc.
3.Mối liên hệ đối
với người tham gia
bảo hiểm ban đầu.
Một nhà bảo hiểm
liên hệ trực tiếp với
khách hàng.
Nhiều nhà bảo
hiểm cùng một lúc
liên hệ trực tiếp với
khách hàng.
Không bao giờ tồn
tại mối quan hệ
trực tiếp giữa khách
hàng với doanh

nghiệp tái.
4.Phương thức bảo
hiểm.
Hầu hết là tự
nguyện.
Hầu hết là tự
nguyện.
Tự nguyện và bắt
buộc tuỳ thuộc vào
khả năng tài chính
và dòng sản phẩm.
5.Khả năng sinh
lời.
Hoạt động bảo
hiểm mang lại lợi
nhuận trực tiếp cho
doanh nghiệp bảo
hiểm
Hoạt động đồng
bảo hiểm cũng trực
tiếp mang lại lợi
nhuận cho doanh
nghiệp bảo hiểm
dựa trên mức trách
nhiệm mà họ nhận
bảo hiểm.
+ Không trực tiếp
tạo ra lợi nhuận cho
doanh nghiệp bảo
hiểm là hoạt động

chia sẻ rủi ro đã
nhận cho công ty
tái.
+ Tạo điều kiện
cho doanh nghiệp
bảo hiểm nâng cao
khả năng nhận bảo
hiểm.
6.Bồi thường và
chi trả bảo hiểm.
Bồi thường và chi
trả trực tiếp cho
khách hàng.
Bồi thường và chi
trả trực tiếp cho
khách hàng.
+ Tuỳ thuộc vào
thoả thuận tái bảo
hiểm mà lựa chọn
phương thức chi trả
nào nhưng không
bao giờ doanh
nghiệp tái được
phép bồi thương
trực tiếp cho người
tham gia bảo hiểm.
1.3. Hợp đồng tái bảo hiểm
Hợp dồng tái bảo hiểm là bằng chứng,cam kết có giá trị pháp lí cao nhất về
quan hệ kinh doanh giữa người nhận và nhượng tải trong tưng nghiệp vụ cụ thể.
Hợp đồng tái bảo hiểm là thoả thuận chi tiết và rõ ràng giữa bên nhận và

nhượng tái về các điều khoản, điều kiện chu trình thực hiện.Công tác tái bảo hiểm
được thực hiện một cách tự nguyện,bình đẳng bằng hình thức văn bản.
Căn cứ vào mức độ phong phú,tính chất và mối quan hệ giữa bên nhận và nhượng
tái bảo hiểm,hoạt động tái bảo hiểm được chia thành 3 loại:
Loại 1: Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thơi.
Loại 2: Hợp đồng tái bảo hiểm cố định.
Loại 3:Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp.
*Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời:
- Khái niệm: Hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời là hợp đồng tái bảo hiểm trong
đó công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải tái bảo hiểm và ngược
lại người tái bảo hiểm có quyền nhận hoặc từ chối rủi ro đó.
- Đây là hình thức tái bảo hiểm cơ bản và cổ điển nhất.
- Để thực hiện được hình thức tái bảo hiểm nay,trước hết công ty nhượng tái
phải thông báo cho nhà tái một dịch vụ nào đó mà họ cần tái bảo hiểm.Hình thức
thông báo được thực hiện bằng phiếu đề nghị.Trên phiếu đề nghị bao gồm các
thông tin:
+ Đặc điểm chính của rủi ro được tái bảo hiểm bao gồm tên, địa chỉ của
người được bảo hiểm,tính chất của rủi ro được bảo hiểm,ngày bắt đầu và chấm dứt
của thời hạn bảo hiểm.
+ Số tiền bảo hiểm,phí bảo hiểm,phần giữ lại của công ty nhượng.
+ Tỷ lệ thủ tục phí bảo hiểm.
+ Phương thức tái,thủ tục thanh toán,bồi thường…
Sau khi nhận được đề nghị,nhà tái bảo hiểm có quyền lựa chọn nhận toàn bộ
hay một phần tỷ lệ nào đó hoặc một số tiền cố định trên cơ sở rủi ro được đề
nghị.Nhà tái bảo hiểm xác nhận phần tham gia của mình vào một phiếu đề nghị và
gủi lại cho công ty nhượng, đồng thời nhà tái bảo hiểm có thể yêu cầu cung cấp
thêm thông tin cần thiết.Nhà tái bảo hiểm quyết định từ chối hoặc chấp nhận căn
cứ vào các yếu tố: đặc điểm rủi ro được tái,kinh nghiệm bảo hiểm,khả năng tài
chính…Khi nhận được giấy thông báo chấp nhận từ phía nhà nhận tái bảo hiểm thì
dịch vụ tái bảo hiểm này mới có hiệu lực và cũng tự động chấm dứt vào ngày đến

hạn nếu không có bổ sung thêm.
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Giúp các công ty nhượng đặc biệt là các công ty mới thành lập,các công ty
bảo hiểm ở thị trường mới ít kinh nghiệm có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm
cho những đơn vị rủi ro có giá trị lớn vượt quá khả năng tài chính của họ trên cơ sở
sử dụng chuyên môn và khả năng của thị trường tái bảo hiểm quốc tế.
+ Giúp các công ty nhượng chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm, đặc biệt
với những nhu cầu bảo hiểm mà không được chấp nhận trong các hợp đồng tái bảo
hiểm cố định.Ví dụ như:các rủi ro động đất,chiến tranh, đình công,bạo loạn…
- Nhược điểm của hình thức này:
+ Khi thực hiện hợp đồng tái bảo hiểm này thì khối lượng công việc tương
đối phức tạp, đòi hỏi công ty bảo hiểm và công ty nhận tái bảo hiểm phải xem
xét kĩ ở lần kí hợp đồng tái đầu tiên cũng như lần tái tục kế tiếp nên thường có xu
hướng làm gia tăng chi phí của hai bên.
+ Công ty bảo hiểm phải liên lạc với nhà tái bảo hiểm để cung cấp thông tin
và thiết lập hợp đồng.Trên thực tế thường họ phải liên lạc với nhiều nhà tải trong
cùng một thời gian cho một đơn vị rủi ro dẫn đến lãng phí thời gian và cũng làm
gia tăng chi phí.
+ Công ty bảo hiểm gốc không thể bảo đảm ngay cho người được bảo hiểm
những rủi ro vượt quá khả năng thanh toán khi nhà tái chưa chấp nhận bảo
hiểm.Vì vậy không đảm bảo về mặt thời gian và sự chắc chắn trong việc phân
tán rủi ro tái bảo hiểm do đó có thể sẽ bị mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm hoặc
không có khả năng để nhận bảo hiểm cho rủi ro có giá trị lớn,hay ít nhất cũng
làm cho công ty nhượng tái mất uy tín vì sự chậm trễ trả lời người được bảo
hiểm.
*Hợp đồng tái bảo hiểm cố định:
- Hợp đồng tái bảo hiểm cố định là sự thoả thuận bắt buộc bằng văn bản giữa
công ty nhượng và công ty tái bảo hiểm trong đó công ty nhượng bắt buộc phải
nhượng cho nhà tái tất cả các đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc mà hai bên đã quy ước
trong hợp đồng ngược lại nhà tái bảo hiểm cũng bắt buộc phải nhận toàn bộ những

đơn vị rủi ro đó.
Thủ tục thu xếp hợp đồng được thực hiện qua các bước sau:
Bước 1: Công ty nhượng gửi tới công ty tái bảng thống kê các đơn vị rủi ro(số
lượng,số tiền bảo hiểm,tổn thất) thuộc loại hình dịch vụ dự định tái bảo hiểm theo
hợp đồng cố định.
Bước 2: Hai bên tiến hành các chi tiết của hợp đồng cố định,phạm vi bảo vệ
của hợp đồng.Sau khi thống nhất thì tiến hành kí kết hợp đồng.
Thông thường hợp đồng tái bảo hiểm cố định được thu xếp trước khi bắt đầu một
năm nghiệp vụ
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Tái bảo hiểm theo hình thức này giúp công ty nhượng chủ động trong
việc ký kêt hợp đồng với người tham gia bảo hiểm.
+ Khi công ty tái đã bị ràng buộc bởi hợp đồng tái bảo hiểm cố định thì
không nhất thiết phải cân nhắc từng rủi ro.Do vậy thủ tục kí kết hợp đồng cũng
được tiến hành nhanh chóng,tiết kiệm được thời gian,chi phí,góp phần nâng cao
năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm.
+ Theo hình thức tái bảo hiểm này,công ty nhượng được nhà tái bảo vệ
cho mọi rủi ro thuộc phạm vi hợp đồng tái,do vậy độ an toàn cao.
+ Thông thường các hợp đồng tái cố định mang tính liên tục và sẽ được
tái tục tự động hàng năm( trừ trường hợp một trong hai bên có ý định chấm dứt
hợp đồng).Vì vậy công ty nhận tái sẽ có sự phân tán rủi ro tốt hơn có lợi cho hoạt
động kinh doanh của họ.
+ Thông thường công ty nhận tái trả hoa hồng cho công ty nhượng tái
căn cứ vào phần dịch vụ mà họ nhận ,do vậy công ty nhượng có thể bù đắp một
phần chi phí khai thác dịch vụ gốc,còn công ty nhận có thể khai thác dịch vụ với
chi phí thấp hơn khi phải khai thác trực tiếp.
- Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Trong hình thức bảo hiểm này,nếu công ty nhượng tái còn non trẻ ,yếu
kém, đặc biệt trong việc đánh giá rủi ro bảo hiểm gốc thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động kinh doanh của cả hai bên.

+ Công ty nhượng phải tái đi tất cả các đơn vị rủi ro mà họ khai thác
được kể cả những đơn vị rủi ro nằm trong khả năng nhận bảo hiểm của họ. Điều
này đồng nghĩa với việc công ty nhượng phải chuyển đi một phần lớn phí gốc lớn
hơn mong muốn của họ.Do vậy công ty nhượng không thể tối đa hoá lợi nhuận.
+ Các hợp đồng cố định thường không thay đổi trong một thời gian nhất
định do vậy cứng nhắc,thiếu linh hoạt,công ty nhượng cũng phải tự ràng buộc mình
trên một số phương diện như thời gian,rủi ro tái đi…Trong khi đó việc thay đổi
mức giữ lại,cách thức tiến hành đều cần sự chấp thuận trước của bên nhận tái.
+ Tất yếu sẽ tồn tại những đơn vị rủi ro bảo hiểm gốc bị hợp đồng tái
bảo hiểm cố định loại trừ , điều này gây khó khăn cho công ty nhượng.Họ sẽ phải
giữ lại các rủi ro này hoặc lại phải thu xếp hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời.
*Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp:
- Hợp đồng tái bảo hiểm kết hợp là hợp đồng theo đó công ty nhượng không
bắt buộc phải nhượng cho nhà tái tất cả những đơn vị rủi ro mà họ nhận bảo hiểm
nhưng nhà tái bắt buộc phải chấp nhận tất cả các rủi ro đã được đem tái với điều
kiện các dịch vụ đó phù hợp với hợp đồng đã thoả thuận từ trước.
- Đối với hình thức này,công ty nhận có thể thu được phí ổn định và lớn hơn
so với hợp đồng tái bảo hiểm tạm thời.
- Ưu điểm của hình thức tái bảo hiểm này:
+ Với hình thức này công ty nhượng có điều kiện đem chào tái bảo hiểm từng
phần trách nhiệm thặng dư của khả năng giữ lại cho một hoặc một số nhà tái mà họ
lựa chọn thay vì tái tất cả theo đơn cố định.
+ Công ty bảo hiểm gốc có thể giữ lại cho mình các rủi ro tốt.
+ Còn đối với công ty nhận tái,họ có điều kiện thu nhập nguồn phí tái bảo
hiểm lớn hơn, ổn định hơn.
+ Ngày nay,trong quan hệ quốc tế đây là hình thức tái bảo hiểm dễ thực hiện
nhất vì hầu hết các công ty tái bảo hiểm chuyên nghiệp trên thế giới đều có tiềm
lực kinh tế mạnh và họ luôn muốn mở rộng thị trường đến những nước đang phát
triển và chậm phát triển.
- Nhược điểm của hình thức tái bảo hiểm này:

+ Công ty nhận tái không có quyền từ chối những rủi ro mà họ không muốn
nhận. Đây là bất lợi của công ty nhận tái.
+ Hợp đồng loại này đôi khi được coi như là phương tiện để công ty nhượng
tái cố tình đưa ra các rủi ro xấu,phí thấp,tỷ lệ tổn thất cao hoặc có tư tưởng ỷ lại
không chặt chẽ trong quá trình đánh giá rủi ro và định phí.
+ Đối với nhà tái bảo hiểm,nguồn dịch vụ theo hợp đồng tái bảo hiểm kết
hợp thường không thường xuyên ,không đồng đều ,tổn thất xảy ra bất thường.Vì
vậy đòi hỏi cả hai bên có sự trung thực tuyệt đối để đảm bảo ổn định cho các công
ty nhận tái.
+ Hình thức tái bảo hiểm kết hợp thường có mức phí cao hơn so với tái bảo
hiểm cố định.
1.4. Các phương thức tái bảo hiểm.
Phương thức tái bảo hiểm là cách thức phân chia trách nhiệm và quyền lợi
giữa công ty nhượng và công ty nhận tái.
Có hai phương thức tái bảo hiểm chủ yếu là:
+ Tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
+ Tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
1.4.1 Tái bảo hiểm theo tỷ lệ.
Là phương thức tái bảo hiểm mà theo đó quyền lợi giữa công ty nhận và công ty
nhượng đều phân chia theo tỷ lệ và dựa trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Phương pháp tái bảo hiểm theo tỷ lệ được chia thành 2 dạng chính:
+ Tái bảo hiểm số thành.
+ Tái bảo hiểm mức dôi.
Tái bảo hiểm số thành:
Tái bảo hiểm số thành là phương thức tái bảo hiểm theo đó trách nhiệm của
công ty nhượng và công ty nhận tái đối với mỗi đơn vị rủi ro được bảo hiểm được
phân bổ theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên trên cơ sở số tiền bảo hiểm.
Đặc điểm của phương thức tái bảo hiểm này là: tất cả các hợp đồng tái bảo
hiểm gốc khi được nhượng tái bảo hiểm,trách nhiệm và quyền lợi của công ty
nhận,nhượng đều được phân chia theo một tỷ lệ nhất định.Tỷ lệ này được thoả

thuận ngay từ khi kí kết hợp đồng tái bảo hiểm.
Ưu điểm của phương thức tái bảo hiểm số thành:
+ Phương thức này đơn giản, dễ tinh toán,chi phí hành chính và cách quản
lí đơn giản ít tốn kém.
+ Phương thức tái bảo hiểm này có tính cân đối, dễ chấp nhận và có khả
năng phân tán rủi ro tốt hơn so với các phương thức tái bảo hiểm khác.
+ Thủ tục phí tái bảo hiểm cao,ngoài ra điều kiện về tạm giữ phí tái bảo
hiểm cũng có tỷ lệ cao,nhờ vậy công ty nhượng có điều kiện sử dụng vốn nhàn rỗi
để đầu tư vào việc khác.
Bên cạnh những ưu điểm trên,phương thức này cũng có một số nhược điểm:
+ Công ty nhượng phải tái đi tất cả các hợp đồng bảo hiểm gốc dù số tiền
bảo hiểm là lơn hay nhỏ nên không khai thác hết khả năng của công ty.
+ Công ty nhượng tái không khống chế được tỷ lệ bồi thường đối với mức
giữ lại,không có khả năng làm giảm hệ số biến thiên của phần tổn thất thuộc mức
giữ lại làm ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Tái bảo hiểm mức dôi:
- Là phương thức tái bảo hiểm theo đó công ty nhượng giữ lại cho mình một số
tiền bảo hiểm nhất định phù hợp với khả năng,phần còn lại được tái đi cho công ty
nhận.
- Đặc điểm :
+ Căn cứ vào khả năng nhận bảo hiểm,công ty nhận tái có thể chấp nhận một
mức nhất định.
+ Căn cứ vào khả năng tài chính của mình,công ty nhượng tái sẽ quyết định
mức giữ lại chung cho tất cả các hợp đồng.
+ Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa công ty nhận và công ty
nhượng tái dựa trên tỷ lệ phần trăm trách nhiệm mà mỗi bên gánh chịu so với tổng
giá trị của hợp đồng gốc.
+ Tỷ lệ giữ lại và tỷ lệ tái trong mọi hợp đồng gốc không giống nhau.
- Ưu điểm:
+ Đơn giản,dễ hiểu,vì vậy kết hợp với các phương pháp khác rất dễ dàng.

+ Phát huy khả năng tài chính của công ty nhượng và giúp công ty nhượng có
điều kiện kinh doanh ổn định hơn vì đối với những đơn vị rủi ro có số tiền bảo
hiểm bằng mức giữ lại trở xuống công ty nhượng sẽ giữ lại toàn bộ.
+ Phương pháp này rất phù hợp với những nghiệp vụ bảo hiểm mà có số tiền
bảo hiểm biến thiên mạnh do nó quy định hạn mức trách nhiệm của công ty
nhượng nên công ty nhượng không sợ bảo hiểm những hợp đồng bảo hiểm có số
tiền lớn vượt quá khả năng của mình như trong phương pháp tái bảo hiểm số thành.
-Nhược điểm:
+ Chi phí hành chính tốn kém
+ Sử dụng nhiều nhân lực.
+ Có ảnh hưởng lớn đến kinh doanh trong trường hợp tổn thất rơi nhiều vào
những rủi ro dưới mức giữ lại của công ty nhượng tái.
Thủ tục phí bảo hiểm(hoa hồng nhượng tái):
Thủ tục phí bảo hiểm là khoản tiền mà công ty nhận tái bảo hiểm hỗ trợ (trả)
cho công ty nhượng tái bảo hiểm nhằm mục đích hỗ trợ một phần cho các chi phí
cố định của công ty gốc trong việc khai thác bảo hiểm,giám định và bồi thường.
Có hai loại thủ tục phí:Thủ tục phí cố định và thủ tục phí theo thang luỹ tiến.
+ Thủ tục phí cố định:Trong trường hợp này công ty nhượng và công ty
nhận tái bảo hiểm thoả thuận với nhau một tỷ lệ thủ tục phí tái bảo hiểm cố định so
với phí nhận tái cam kết cho mọi hợp đồng.
+ Thủ tục phí theo thang luỹ tiến:Là cách tính phí tái bảo hiểm không chỉ
nhằm chia sẻ phí khai thác,giám định,bồi thường mà còn khuyến khích các công ty
bảo hiểm gốc nâng cao chất lượng khai thác.Công ty nhận tái cam kết trả phí tái
bảo hiểm theo thang luỹ tiến phụ thuộc vào tỷ lệ bồi thường theo hướng:tỷ lệ bồi
thường càng cao phí tái bảo hiểm càng thấp và ngược lại.
1.4.2 Tái bảo hiểm phi tỷ lệ.
Là phương thức tái bảo hiểm mà trong đó công ty nhượng tái sẽ giữ lại cho
mình một số tiền bảo hiểm nhất định tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của họ.Phần
tổn thất vượt quá mức giữ lại này được chuyển sang cho các công ty nhận tái.
Tái bảo hiểm phi tỷ lệ có những đặc điểm chung sau:

+ Trách nhiệm của công ty nhượng và công ty nhận không chia sẻ theo tỷ lệ,bất
kể phí,số tiền bảo hiểm hay số tiền bồi thường.
+ Tiêu chuẩn cơ bản để phân định trách nhiệm giữa các bên là số tiền bồi
thường cho các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của đơn bảo hiểm gốc.
+ Công ty nhượng tái bảo hiểm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho những
tổn thất dưới hoặc bằng hạn mức bồi thường tự giữ lại(mức tự bồi thường)
+ Công ty nhận tái chỉ bồi thường cho phần tổn thất vượt quá mức bồi thường
của công ty nhượng và tối đa bằng mức giới hạn đã thoả thuận theo hợp đồng tái
bảo hiểm(còn gọi là mức trách nhiệm của công ty tái).
Ưu điểm của phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:
+ Công ty nhượng có thể xem xét căn cứ vào khả năng tài chính của mình để
ấn định một mức bồi thường nhất định, ít bị phụ thuộc vào quy mô và hậu quả của
tổn thất xảy ra.
+ Do nhà tái không có trách nhiệm bồi thường cho các tổn thất nhỏ hơn điểm
tự bồi thường của công ty nhượng,do vậy công ty nhượng có thể thu được phí bảo
hiểm nhiều hơn.
+ Chi phí hành chính ít tốn kém hơn (do công ty nhượng không phải phân
loại từng đơn vị rủi ro bảo hiểm,tính toán mức giữ lại,phí tái bảo hiểm,mức tái bảo
hiểm )
Nhược điểm của phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:
+ Việc tính phí bảo hiểm sẽ rất phức tạp và khó chính xác đòi hỏi kĩ năng và
kĩ thuật tính toán cao đặc biệt là đối với các hợp đồng tái bảo hiểm phi tỷ lệ vượt
mức bồi thường đảm bảo cho thảm hoạ.
+ Mức tự bồi thường nếu được tính quá cao có thế ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của công ty nhượng,nếu tính quá thấp thì chi phí hành chính của công
ty tái sẽ tăng.
+ Tái bảo hiểm phi tỷ lệ không có tác dụng nhiều trong việc hỗ trợ cho công
ty nhượng trong việc dàn trải chi trả tài chính trong hoạt động kinh doanh do phải
đóng phí nhượng tái trước.
Các phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ:

* Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường:
-Khái niệm: Là phương thức tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó công ty nhượng
tái giới hạn trách nhiệm của mình ở một số tiền bồi thường nhất định nếu tổn thất
xảy ra có giá trị lớn hơn mức bồi thường đó,phần vượt quá sẽ được chuyển sang
công ty nhận tái. Đồng thời khả năng tài chính của công ty nhận tái không phải là
vô hạn,do vậy họ cũng giới hạn mức trách nhiệm của mình ,phần vượt quá mức
trách nhiệm này sẽ chuyển đến công ty nhận tái khác hoặc chuyển trả lại cho công
ty nhượng.
- Thu xếp tái bảo hiểm:Công ty nhượng sau khi kí kết hợp đồng bảo hiểm gốc
với người được bảo hiểm sẽ tìm kiếm công ty nhận tái bảo hiểm cho phần vượt
mức giữ lại của họ.Có thể có nhiều nhà nhận tái khác nhau tham gia trong một hợp
đồng.Trách nhiệm của các nhà nhận tái sẽ được sắp xếp theo lớp.Các lớp chính là
mức nhận tái của mỗi công ty nhận tái.Các lớp này không cần phải bằng nhau theo
hợp đồng trách nhiệm của các nhà nhận tái được xếp theo trình tự lần lượt các nhà
nhận tái lớp sau chỉ bồi thường khi thiệt hại bồi thường vẫn tồn tại và người nhận
tái lớp trước đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Có hai loại tái bảo hiểm vượt mức bồi thường:
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo thảm hoạ: Là phương thức
tái bảo hiểm phi tỷ lệ bảo vệ công ty nhượng tránh những trường hợp tổn thất quá
mức bình thường trong những sự cố nằm ngoài khả năng kiểm soát bảo hiểm thông
thường (Ví như các đơn vị rủi ro tích tụ hoặc kết gộp nhiều tổn thất xảy ra từ sự cố
và tổn thất mang tính thảm khốc)
Các rủi ro được bảo hiểm thường liên quan đến một đối tượng nhưng được bảo
hiểm bởi nhiều nghiệp vụ,đặc biệt là trong các trường hợp :các rủi rỏ thiên tai như
động đất,lũ lụt ;các rủi ro xảy ra trong các ngành hàng không,dầu khí,vệ tinh hằng
hải.Các nghiệp vụ bảo hiểm nàydo một công ty bảo hiểm gốc cung cấp.
+ Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ: Là phương thức
tái bảo hiểm phi tỷ lệ trong đó mức tự bồi thường của công ty nhượng được ấn
định sao cho khi một số nghiệp vụ bị tổn thất,thong thường xảy ra thì nhà tái vẫn
phải chịu trách nhiệm bồi thường.

Có hai phương thức tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ:
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ không giới hạn①
sẽ không giới hạn số nghiệp vụ bồi thường cũng như tổng số tiền bồi thường.Các
nhà tái đảm bảo cho tất cả các trường hợp theo hợp đồng tái bảo hiểm.
Tái bảo hiểm vượt mức bồi thường có hạn mức từng sự cố:② đối với
loại này quy định trách nhiệm tối đa của nhà tái trong từng trường hợp tổn thất
hoặc trường hợp tổn thất nặng nề có quá nhìu rủi ro xảy ra dẫn đến số tiền bồi
thường lớn.
*Tái bảo hiểm vượt tỷ lệ bồi thường: Đặc trưng của phương thức này là công ty
bảo hiểm gốc giữ lại cho mình một tỷ lệ bồi thường nhất định,phần vượt quá được
tái đi.
Ưu điểm: Đối với một số nghiệp vụ bảo hiểm có tỷ lệ bồi thường cao hoặc ổn
định có thể áp dụng phương thức tái bảo hiểm này để phân tán rủi ro cho công ty
bảo hiểm gốc.
Đặc điểm:
+ Căn cứ vào tình hình kinh doanh công ty nhượng tái có thể lựa chọn cho
mình một tỷ lệ bồi thường nhất định để giữ lại trong phạm vi tỷ lệ đó.
+ Công ty nhận tái thường giới hạn trách nhiệm của mình trong một khoảng
tỷ lệ bồi thường nhất định.
+ Phí tái bảo hiểm được tính toán tương tự như phí bảo hiểm gốc dựa trên
kết quả nhận,nhượng tái bảo hiểm trong một khoảng thời gian nhất định giữa hai
công ty.
Thị trường tái bảo hiểm việt nam
Kể từ khi quy định các DN buộc phải tái ít nhất 20% qua Tổng CTCP Tái
bảo hiểm Việt Nam (Vinare) bị bãi bỏ đã khiến cho lĩnh vực này trở nên cạnh tranh
hơn. Không chỉ nhận/nhượng tái trong nước, một số DN bảo hiểm đã mạnh dạn
nhận/nhượng tái từ thị trường bảo hiểm nước ngoài. Nhiều DN bảo hiểm phi nhân
thọ đang tích cực tăng vốn với mục tiêu nâng tỷ lệ giữ lại và mở rộng hoạt động
kinh doanh tái bảo hiểm. Tuy nhiên, hoạt động này cũng đặt ra không ít vấn đề cần
chấn chỉnh kịp thời.

Hoạt động tái bảo hiểm hiện chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực bảo hiểm phi
nhân thọ, khu vực có nhiều DN trong nước tham gia. Theo số liệu từ Bộ Tài chính,
năm 2009, phí bảo hiểm giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là 9.366 tỷ
đồng, chiếm 68,5% phí bảo hiểm gốc, tăng 1,5% so với tỷ lệ phí bảo hiểm giữ lại
năm 2008. Phí nhượng tái toàn thị trường năm 2009 đạt 4.302 tỷ đồng, trong đó
phí tái trong nước khoảng 1.937 tỷ đồng và phần lớn được tái qua Vinare. Theo
đánh giá của Vinare, sở dĩ hoạt động tái bảo hiểm năm 2009 ,2010 sôi động là do
kinh tế Việt Nam vẫn tăng trưởng khá tốt (5,32%). Đây là cơ sở để thị trường bảo
hiểm tiếp tục phát triển mạnh mẽ (phi nhân thọ tăng 21%). Bên cạnh đó, các DN
bảo hiểm đã linh hoạt hơn trong việc tái bảo hiểm trên cơ sở phân tích đánh giá rủi
ro các mảng nghiệp vụ.
Tuy nhiên hiện có không ít thách thức có thể ảnh hưởng đến hiệu quả của
nghiệp vụ tái bảo hiểm. Khó khăn trong việc thu xếp tái bảo hiểm do cạnh tranh về
phí, điều kiện bảo hiểm trong nước, về dịch vụ với nhà tái bảo hiểm và môi giới
nước ngoài. Trên cả vấn đề về số lượng phí, ngành tái bảo hiểm còn phải đối mặt
với vấn đề "làm sạch" dòng phí mà các công ty bảo hiểm trong nước nhượng tái
lẫn nhau.Sau sự kiện công ty tái bảo hiểm độc lập thứ hai ra đời, ngành tái bảo
hiểm Việt Nam dường như đang nỗ lực cải thiện năng lực ngành bằng việc nâng
cao số phí tái bảo hiểm giữ lại trong nước. Nhưng trên cả vấn đề về số lượng phí,
ngành tái bảo hiểm sẽ còn phải đối mặt với vấn đề "làm sạch" dòng phí mà các
công ty bảo hiểm trong nước nhượng tái lẫn nhau. Nhìn qua báo cáo của các DN,
cả những DN bảo hiểm hàng đầu cũng có tỷ lệ bồi thường trên phí rất cao. Trong
năm 2010, Bảo Minh đã bồi thường gần 43% số phí nhận tái bảo hiểm 170 tỷ
đồng, còn PJICo phải bồi thường cho nghiệp vụ này 39% số phí tái bảo hiểm 82 tỷ
đồng. Cũng chung tình trạng đó, Công ty Bảo hiểm BIC cũng ghi nhận mức bồi
thường 43% cho nghiệp vụ tái bảo hiểm. PVI, khả quan hơn các DN trên, với tỷ lệ
bồi thường 35% số phí nhận tái bảo hiểm trong năm 2010, nhưng đáng nói là tỷ lệ
bồi thường này của PVI đã tăng vọt từ mức 29% năm 2009.
Có một thực tế trong ngành tái bảo hiểm đó là trình độ chuyên môn của
chính đội ngũ cán bộ trong ngành này vẫn còn rất yếu. Gần đây, lãnh đạo một công

ty tái bảo hiểm khẳng định, có đến 80% số cán bộ của các công ty không hiểu về
tái bảo hiểm. Điều đó càng làm trầm trọng thêm cho tình trạng các công ty nhận tái
bảo hiểm "ẩu" và dẫn đến hậu quả là công ty bảo hiểm phải chịu những tổn thất
lớn.
Ngoài các nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân từ chính các DN
bảo hiểm làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của hoạt động tái bảo hiểm.
Năm 2010 là năm cạnh tranh quyết liệt ở tất cả các dịch vụ bảo hiểm, trong đó có
tái bảo hiểm. Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm là vấn đề đáng lo ngại (chi phí, tỷ lệ
bồi thường tăng, phí bảo hiểm giảm và điều kiện bảo hiểm mở rộng) khi các DN
đẩy mạnh doanh thu phí, mở rộng điều kiện bảo hiểm.Theo số liệu từ Hiệp hội Bảo
hiểm Việt Nam, 6 tháng đầu năm 2011 gần 70% tổng phí nhượng tái bảo hiểm
được chuyển qua các công ty nước ngoài (tương ứng 2.600 tỷ đồng phí nhượng tái)
và chỉ 30% phí (tương ứng 1.100 tỷ đồng ) được giữ lại trong nước. Nếu xét về tỷ
lệ, con số này đã tăng lên so với mức 66% của năm 2010 (4.100 tỷ đồng tái ra
nước ngoài, 2.100 tỷ tái trong nước) và 64% của năm 2009.
Việc phần lớn phí nhượng tái bảo hiểm của Việt Nam chảy ra nước ngoài
xuất phát từ thực tế các DNBH trong nước bị hạn chế về vốn và chuyên môn để
nhận tái bảo hiểm. Khi nhận tái bảo hiểm các hợp đồng bảo hiểm của Việt Nam,
các công ty bảo hiểm nước ngoài tuân theo quy trình đánh giá rủi ro nghiêm ngặt
mà trong đó các dự án nếu muốn được bảo hiểm sẽ phải đạt những tiêu chuẩn nhất
định. Do đó, độ rủi ro của các hợp đồng tái bảo hiểm mà các công ty này nhận tái
có thể được định trước và đảm bảo không gây thua lỗ cho công ty bảo hiểm.Trong
khi đó, các công ty trong nước thường ít tuân theo những quy trình đánh giá rủi ro,
nhận về những hợp đồng không qua kiểm duyệt chặt chẽ và do đó, tự họ đẩy mình
vào tình thế phải đối mặt với nguy cơ bồi thường tổn thất với tỷ lệ lớn.
Tính đến thời điểm này, sau hàng chục năm phát triển ngành tái bảo hiểm
mới có 2 công ty hoạt động với tư cách pháp nhân độc lập là Vinare và PVI Re.
Các công ty bảo hiểm khác đều có bộ phận tái bảo hiểm với tư cách là một hoạt
động kinh doanh phụ thêm bên cạnh mảng kinh doanh cốt lõi với mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận cho công ty.

×