Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

mấy vấn đề về thơ Trào phúng Nguyễn Khuyến và Tú Xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.39 KB, 46 trang )

Đến với Nguyễn Khuyến - nhà thơ trữ tình, trào phúng xuất sắc

ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN KHUYẾN VỚI ĐỀ TÀI NÔNG THÔN VÀ NHỮNG CÁCH
TÂN NGHỆ THUẬT
Nguyễn Khuyến là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX, tài năng nghệ thuật
cũng như những đóng góp to lớn của ông cho nền văn học dân tộc là rất lớn và có ý nghĩa sâu
sắc. Làm nên giá trị thơ văn của ông là toàn bộ những sáng tác chữ Hán và chư Nôm, trữ tình
cũng như trào phúng. Những làm nên cái độc đáo của nhà thơ thì chủ yếu là những vần thơ viết
về nông thôn, bao gồm những vần thơ viết về con người, cảnh vật thiên nhiên, những phong
tục tập quán. Về phương diện này không có nhà thơ đương đại nào viết được bằng ông, và
trước đó trong lịch sử cũng không ai viết được như thế. Nguyễn Khuyến xứng đáng trở thành
nhà thơ số một về nông thôn Việt Nam. Quả thực Nguyễn khuyến là nhà thơ quê cảnh kiệt xuất
nhất của văn học Việt Nam từ cổ chí kim. Mảng thơ về cảnh sắc, con người và văn hóa thôn quê
Việt Nam của ông có những nét độc đáo, đặc sắc mà không ai có thể vươn tới được.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu Nguyễn Khuyến nói chung và vấn đề thơ Quê cảnh của Nguyễn
Khuyến nói riêng cho đến nay vẫn được xem là một dòng nước chưa vơi cạn. Nguyễn Khuyến
luôn nhận được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình, lí luận,…
Mã Giang Lân đã đánh giá: “làm nên giá trị thơ văn của Nguyễn Khuyến là toàn bộ những
sáng tác của nhà thơ, những làm nên cái đặc sắc riêng của Nguyễn Khuyến là những bài thơ viết
về cảnh và người ở chốn quê, những bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, trước đó cũng có
những nhà thơ viết về làng cảnh Việt Nam những chưa có ai để lại ấn tượng sâu đậm bằng
Nguyễn Khuyến” [8;74]. Như vậy, theo Mã Giang Lân thì mảng thơ viết về quê cảnh đã tạo nên
nét đặc sắc riêng trong thơ Nguyễn Khuyến. Còn theo Nguyễn Lộc thì “gọi Nguyễn Khuyến là
nhà thơ của nông thôn, trước hết không phải vì ông viết về chủ đề nông thôn mà ông viết với
tình cảm, với sự trăn trở lo âu của con người ở nông thôn thực sự, mà chủ yếu là người nông
dân” [8;71].
Vũ Thanh cũng có lời: “Nguyễn Khuyễn sống đời sống của người nông dân quê ông và ông
viết về cuộc đời họ, cảnh đời họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần nghìn ngàn năm của
văn học dân tộc Việt Nam đời sống nghèo khó của người nông dân với những cảnh sinh hoạt
bình thường ở thôn quê trờ thành đối tượng phản ánh của thơ ca”, và “Nguyễn Khuyễn chính là
nhà thơ viết về nông thôn số một của văn học dân tộc (…). Chỉ đến Nguyễn Khuyến mới làm


được những điều mà thơ ca truyền thống chưa làm được (và ngay cả trong thơ hiện đại có lẽ
cũng chưa có được một nhà thơ nông thôn nào tầm cỡ như Nguyễn Khuyến). Một nông thôn
thật sự đã hiện ra trong thơ Yên Đỗ. Đó là một nông thôn từng gắn bó máu thịt với nhà thơ
ngay từ thưở lọt lòng” [10;18-19] .
Lê Trí Viễn viết: “Cho đến khí vị thanh đạm (…),đồng thời cũng chan chứa mối thông cảm
của ông đối với đời sống lao động của người nông dân” [8;189]. Nguyễn Khuyễn cả đời gắn bó
máu thịt với làng quê, am hiểu về quê hương.
Nguyễn Đức Quyền viết: “Làng cảnh Việt Nam đã hiện lên trong thơ với những nét tươi sáng,
thanh đạm, hồn hậu. Mỗi màu sắc, mỗi đường nét, mỗi hình ảnh đều thể hiện tâm hồn của thi
nhân. Một nhà thơ yêu quê hương làng mạc đến say đắm và điều không kém phần quan trọng
là nhà thơ đủ bút lực và tài hoa để ghi lại quê hương làng cảnh Việt Nam dưới màu sắc của mùa
thu và vẻ đẹp của chính tâm hồn thi nhân” [14;635] .
Nguyễn Huệ Chi còn nhận định về nhà thơ như sau: “Nguyễn Khuyến đã đưa lại cho bức
tranh làng cảnh Việt Nam cũng như cho khung cảnh sinh hoạt của nông thôn Việt Nam hương
vị, màu sắc, đường nét, sức sống như nó vẫn tồn tại, mà ủ kín trong đó là cái hồn muôn đời của
con người, đất nước Việt Nam” [13;24].
Xuân Diệu cũng đã viết: “Thơ Yên Đỗ vẫn phảng phất bay lượn giữa quê hương đồng
chiêm trũng Hà Nam, trên quê hương làng mạc Việt Nam tất cả; bởi Nguyễn Khuyến đã tạo nên
một tình yêu quê hương làng mạc trong văn học, tình yêu đồng bào, bà con dân quê trong xóm
mình” [8;48]. Cũng chính Xuân Diệu gọi Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.
PGS.TS Nguyễn Phong Nam cũng có lời nhận định: Cuộc đời và văn chương Nguyễn
Khuyến gắn rất chặt với đời sống thôn quê. Ông được coi là “nhà thơ quê hương làng cảnh Việt
Nam”.
Như vậy việc tìm hiểu những nhận định, những nhận xét về Nguyễn Khuyến – nhà thơ quê
cảnh giúp chúng ta có cái nhìn mới mẻ và thấy được phần nào những đóng góp của thế hệ
người đi trước. Trên cơ sở kế thừa kết hợp nguồn tư liệu, chúng tôi đi vào việc nghiên cứu của
mình. Việc nghiên cứu này sẽ khẳng định thêm một lần nữa vị trí của nhà thơ cũng như bức
tranh làng cảnh Việt Nam qua trang thơ của ông.

QUÊ CẢNH NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

2.1. Bức tranh thiên nhiên - cảnh sắc của làng quê Việt Nam
Quê hương Việt Nam từ bao đời nay vốn bình dị, thân quen trong kí ức của bao thế hệ với
những cảnh thiên nhiên gắn liền với cuộc sống lao động của người nông dân “chân lấm tay
bùn”. Thơ ca chính là sự cảm nhận hồn nhiên và thuần khiết của con người về cái đẹp, cái
chuẩn, thước đo của cái đẹp đó thường bắt đầu từ thiên nhiên. Đến với thơ Nguyễn Khuyến cái
đẹp đó không phải là những cảnh vật cao sang, xa lạ mà đó là những bức tranh quen mộc mạc
nơi làng quê yên ả:
Một khóm thuỷ tiên dăm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa.
Lời thơ mang một chút hóm hỉnh, vui nhộn thể hiện sự sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ “thập
thò hoa” đã cho chúng ta thấy được cái trăn trở cựa mình của thiên nhiên, của cuộc sống.
Nguyễn Khuyến có những vần thơ viết về mùa rất hay và đặc sắc. Điều đó đã góp phần làm nên
giá trị thơ văn của ông trong mảng thơ trữ tình trào phúng. Nhiều bài thơ thật sự là những bức
tranh thiên nhiên kiệt tác. Chúng ta hãy hình dung cảnh sắc của bốn mùa:
Đông:
Xương buốt, tai ù, mình tưởng mượn,
Nón che tới phủ khách thưa lời.
Hạ:
Bờ dậu mưa rào tung lá thắm,
Non xa sấm động toát mây vàng.
Xuân:
Tựa của gió reo man mác mặt,
Ngẩng đầu trời nắng hấp hây mi.
Thoáng thơm cánh mũi hoa đâu nhỉ,
Rí rít bờ tre có tiếng chi.
Cái tài của tác giả là không trực tiếp tả cảnh, chỉ nói cái ấn tượng mà mình cảm nhận được, ấy
thế mà cảnh vật lại hiện lên như vẽ. Cái sống động náo nức rực rỡ như một vũ hội âm thanh và
ánh sáng; màu sắc và hương vị trên đây rất gần với giọng điệu, phong cách của một nhà thơ
mới nào đó.
Tuy nhiên cái làm nên vẻ vang nhất cho Nguyễn Khuyến là những bài thơ Nôm về cảnh sắc thu.

Với chùm thơ thu tiêu biểu là ba bài:Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh đã đánh dấu tuyệt đỉnh cho
mảng đề tài thơ Nôm nước Việt. Cảnh trong ba bài là cảnh thu điển hình nhất của mùa thu Việt
Nam, ở miền Bắc nước ta, không thể nhầm lẫn với nước nào khác. Cảnh thực ở nông thôn Việt
Nam. Nhưng con mắt của nhà thơ đã chiều theo rung động của tâm hồn lựa chọn những cảnh
vật những hình sắc nhẹ nhàng, thanh lịch, đạm bạc nhưng gợi cảm, trong ba bài thơ thu thì bài
Thu điếu là đặc sắc hơn cả :
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biết theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Bài thơ đã đưa ta về cảnh sắc mùa thu đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hiện lên trước
mặt cảnh ao chuôm, cảnh thật, cảnh sống, chứ không ước lệ theo sách vở. Ai cũng đã từng đọc
ba bài thơ thu hầu hết đều thuộc, mà nhiều bài thơ thu khác lại không thuộc. Trước đó có nhiều
nhà thơ viết về mùa thu Việt Nam nhưng chưa ai bắt được cái hồn của nó. Họ còn quá phụ
thuộc vào sách vở.
Trong bài Thu ẩm không có ước lệ văn hoa sang trọng rèm trâu, lầu ngọc, chén vàng,… mà rất
đỗi bình dân :
Năm gian nhỏ cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè.
Những hình ảnh rất thật, rất gần gũi với cuộc sống người dân. Hình ảnh đơn sơ nhưng khêu gợi.
Mùa thu thôn quê lại ***g trong hình ảnh vòm trời với mấy cành trúc phất phơ :
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Trong bài Thu vịnh mang cái hồn của cảnh vật mùa thu, cái thanh, cái trong, cái nhẹ, cái cao.
Mang cái thần của cảnh mùa thu. Trời cao xanh ngắt toả xuống cảnh vật. Cây tre Việt Nam xanh
non cong vút in trên nền trời, song thưa để mặc ánh trăng vào. Có gắn bó với vùng quê Nguyễn

Khuyến mới cảm nhận được sự chuyển mình nhẹ nhàng của cây cỏ hoa lá :
Hạ quất ngoài vườn chờ nứt vỏ,
Giò tiên trong chậu chửa bung hoa.
Nguyễn Khuyễn có lòng yêu thiên nhiên cảnh vật thiết tha. Những cuộc du ngọn đều để lại
trong ông những ấn tượng khó phai. Ông đặc biêt yêu dấu cảnh sắc nông thôn: Thửa vườn
quanh nhà, hàng giậu trước sân, con đường quanh co, tiếng ngỗng lưng trời, rất gần gũi với
nông thôn Việt Nam. Nó trái ngược với cảnh sắc hoa lệ giả tạo của tầng lớp quý tộc. Là làng
cảnh Việt Nam mộc mạc đơn sơ, nhưng qua tâm hồn dào dạt tình yêu đất nước nó lại chan
chứa thi vị. Lên núi an lão nhìn xuống đồng bằng:
Một lá về đâu xa thăm thẳm,
Nghìn làng trông xuống bé con con.
Có yêu quê hương, có đắm mình trong cảnh quê mới có thể cảm nhận hết được cảnh sắc của
quê hương. Mộc mạc, giản dị nhưng ánh qua ngoài bút của tác giả trở nên thi vị hơn. Nguyễn
Khuyến là nhà thơ làng cảnh việt Nam, tình yêu quê hương đất nước của ông ngấm vào từng
câu thơ. Đọc thơ ông ta thấy yêu quê hương đất nước mình hơn, thấy những hình ảnh của nông
thôn Việt Nam hiện lên trước mặt, không lẫn vào đâu. Đó là đặc trưng của nông thôn Bắc Bộ
Việt Nam. Điều này trước đó chưa có nhà thơ nào đặt tới vấn đề khêu gợi tình yêu quê hương
làng mạc đến thế.
2.2. Bức tranh sinh hoạt hàng ngày của chốn làng quê
Nhà thơ Nguyễn Khuyến không chỉ có một tâm hồn nhạy cảm với thiên nhiên, yêu thiên nhiên
tha thiết mà ở ông còn toát lên một tấm lòng yêu mếm, đồng cảm với đời sống của người dân
lao động. Có khi là sự miêu tả trực tiếp song ông cũng thường gửi gắm tâm trạng hay miêu tả
cuộc sống của con người dưới những bài thơ tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Khuyến càng rời xa chốn
quan trường, căm thù giặc Pháp bao nhiêu càng thể hiện thái độ chân thành với nhân dân bấy
nhiêu. Bởi không ai hết ông thấu hiểu nỗi gian khổ của nông dân, là người rất mực gần gũi với
người nông dân, là nhà thơ nông thôn. Ông viết bằng tất cả những tình cảm chân tình và sâu
lắng nhất của mình. Đúng như lời nhận xét của Xuân Diệu cho rằng Nguyễn Khuyến là nhà thơ
“dân tình làng cảnh Việt Nam”.
Đọc thơ Nguyễn Khuyến ta mới thực sự thấy cái hay. Ta cảm nhận thấy thật sự ông bước xuống
đồng ruộng, đến với người dân thôn dã và từ cuộc sống đầy lam lũ, gian lao vất vả nhưng không

kém phần thơ mộng của làng cảnh Việt Nam:
Năm nay cày cấy vẫn chân chua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
Phần thuế quan Tây, phần trả nợ,
Nửa công đứa ở, nửa thuê bò.
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua.
Tằn tiện thế mà sao chưa khá !
Nhờ trời rồi cũng mấy gian kho.
Có gần gũi với người dân mới có thể hiểu hết mọi khó khăn của họ, mới hiểu được cái nhọc
nhằn của nhà nông phải gánh! Nguyễn Khuyến đã phản ánh cuộc sống của người dân với một
sắc thái đậm đà đằm thắm. Cũng trăn trở, lo toan không khác một lão nông chi điền. Ông trải
lòng mình với nỗi buồn vui của quê hương lam lũ. Ăn uống cũng kham khổ, cũng tằn tiện như
dân quê. “Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”, kinh tế sao eo hẹp đến thế? Không khác gì những
người nông dân cũng biết đất đai cũng chi li cụ thể sát sườn như họ.
Thửa mạ rạch ròi chân xấu tốt,
Đấu lương đo đắn tuổi non già.
Câu thơ rất đỗi bình thường, không có gì đặc sắc nhưng cái hay ở đây tác giả thấu hiểu công
việc đồng áng của người nông dân. Đối với người nông dân một hạt thóc cũng quý. Nguyễn
Khuyến đã thấu hiểu điều đó. Ông đứng trong cuộc chứ không đứng trên cao, không dựng
ngoài để nói. Có như vậy mới hiểu được sự cơ cực, sự lo lắng của người nông dân khi bị lụt:
Quai mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi.
Tác giả còn nhìn thấy cảnh lụt tràn đồng, đầy đau thương:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong lượn trước nhà.
Nguyễn Khuyến còn có con mắt quan sát tinh tế, khéo thu được những nét điển hình vào những
câu thơ ngắn gọn:
Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người.

Đọc hai câu thơ này ta thấy cảnh làng xóm thật quen thuộc, gần gũi. Hình ảnh chú trâu già, hình
ảnh chú chó – những con vật thường gắn với cuộc sống của người nông dân. Và cả những cảnh
lo toan, cảnh đi vay nợ lãi, bán lúa non, rồi phải đem bán vợ đợ con, mất nhà mất ruộng, cái
thong long lúc nào cũng chực thắt cổ người dân:
Lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi,
Chục ba chục bảy tính làm sao?
Bức tranh nông thôn Việt Nam hiện lên trong thơ Yên Đỗ với đầy đủ những âm thanh và màu
sắc đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kì. Ngoài những
bộn bề của lo toan và làm lụng của cuộc sống ta còn thấy có cái vui - hạnh phúc của những ngày
tết. Người dân Việt Nam rất coi trọng ba ngày tết, dù đói kém thế nào chi nữa cũng chuẩn bị
chu tất cho tất cả, rượu thịt, bánh chưng, mâm cổ đầy đủ…
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
Ông còn hoà mình vào cuộc sống dân quê để nghe thấy tất cả:
Ình ịch đêm qua trống các làng,
Ai mà chẳng trước xuân sang.
Nguyễn Khuyến tâm hồn còn trẻ trung như con trẻ, còn yêu đời và luôn hoà mình vào cuộc
sống. Không chỉ những lo toan sinh hoạt hằng ngày mà ngay cả những cái tầm thường, nhỏ mọn
nhất cũng được ông đón nhận thật nhân ái. Đây là cảnh bà chửi tục và kia là nỗi lòng của bác
trai goá vợ:
Lưng trời gió vút điều ngân vắng,
Khắp chốn cành cao chim ríu ran.
Ầm xóm, gái già văng cãi tục,
Rộn ràng, trai goá ngủ không an.
Qua ngòi bút sắc sảo sinh động và rất đỗi gần gũi với người nông dân Nguyễn Khuyến. Ta thấy
cuộc sống của người nông dân gắn bó với ruộng đồng thôn xóm như hiện hữu trước mặt với
đầy đủ khía cạnh, kể cả những cái vụn vặt nhỏ nhặt nhất. Trước và sau Yên Đỗ không có nhà
thơ nào viết về cuộc sống hàng ngày sắc cạn, gần gũi và đầy đủ như ông.
2.2. Tình cảm gia đình, bạn bè, làng xóm sâu đậm
Nguyễn Khuyễn cáo quan về quê những không hề thoát ly cuộc sống. Ngoài tình cảm yêu nước

ra, Nguyễn Khuyến còn gắn bó cuộc đời, bằng nhiều tình cảm khác: đó là tình thương vợ con,
thương bạn bè, thương láng giềng, tình mến yêu đối với cảnh vật nông thôn…. Đó là những tình
cảm rất bình thường, đó là cuộc sống hàng ngày. Nhưng trong Nguyễn Khuyến, những cái bình
thường ấy đi vào thơ văn với một giá trị đặc biệt. Từ những tình cảm rất đỗi thường ấy ta thấy
ông là một con người tình cảm và tế nhị.
Cuộc sống tuy nghèo nhưng nhờ có người vợ đảm đang chu đáo nên sinh hoạt gia đình cũng đỡ
hơn. Khi vợ ông mất ông thực sự đau xót, lời ông khóc vợ đã thể hiện tình cảm và tấm lòng thuỷ
chung:
“Nhà chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay
đũa chạm tay chén, cùng ai kể chuyện trăm năm! ”.
Một tình cảm chân thành, xúc động, một tiếng khóc thầm kín lắng đọng trong tâm hồn tác giả!
Tình yêu thương đối với con của ông cũng vô bờ bến. Ông luôn quan tâm lo lắng đối với các con
mình. Khi con đi vào Huế đi thi, ông lo lắng:
Bấm đốt, con ta đường vào Huế,
Hôm nay chắc sẽ qua Đèo Ngang.
Không chỉ có tình cảm sâu đậm với vợ con, mà ngay với bạn bè ông cũng rất đỗi gần gũi. Khi
nghe tin có lụt ở quê của bạn (Bùi Văn Quê) ông viết thơ hỏi thăm như một bà quê mùa thật
thà. Trong bài Nước lụt thăm bạn.
Ai lên nhắn hỏi bác Châu - cầu,
Lụt lội năm nay bác ở đâu?
Mấy ổ lợn con mua đắt rẻ,
Vài gian nếp cái ngập nông sâu?
Phận thua suy tính càng thêm thiệt,
Tuổi cả chơi bời hoạ sống lâu.
Em cũng chẳng no mà chẳng đói,
Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu!
Nghe tin Dương Khuê mất Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ Khóc Dương Khuê nói lên tình cảm
đau xót của mình đối với bạn. Tuy không cùng đường thơ văn nhưng đã là bạn đồng môn thì dù

sau “vật đổi sao dời”, họ vẫn giữ tình bạn thuỷ chung.
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tin tôi bong chân tay rụng rời!
Nguyễn Khuyến cũng là con người, cũng biết đau xót trước những mất mát gia đình, bạn bè,
tình cảm riêng tư. Trước đó đã có nhiều nhà thơ nói đến vấn đề này nhưng mỗi người đều có
một sắc thái riêng. Trong văn học tình cảm riêng tư thường mang sắc thái chung, có tình cảm
đạo đức cộng đồng. Đặc sắc của Nguyễn Khuyến là tình cảm của ông giữ được nguyên vẹn tính
cá thể, cụ thể của nó, mà không tan biến vào cái chung, và cái cụ thể ấy lại có tính chất nông
thôn rõ rệt. Như đã phân tích ở trên, ông không chỉ làm thơ, làm câu đối về vợ con, mà ông còn
làm thơ, làm câu đối tặng người láng giềng, một bà thông gia, một anh chàng hàng thịt, một chị
thợ rèn, thợ nhuộm,… câu nào bài cũng chân tình thiết tha.
Cho tới cảnh bạn chơi nhà, cảnh nhà nghèo không có gì thiết đãi bạn.
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
… … … … …
Đầu trò tiếp khách, trầu không có.
Cái gì cũng có nhưng lại không có gì hết. Bài thơ bóc dần sự khách sao màu mè của xã hội, để
cuối cùng, lớp vỏ hình thức không còn nữa ta thấy một tình bạn trong sang cao quý.
Bác đến chơi đây, ta với ta !
Bài thơ có thể chịu ảnh hưởng của thi tứ bài Khách chí của Đỗ Phủ, nhưng sáng tác của Nguyễn
Khuyến có những đặc sắc, độc đáo diễn tả thiên nhiên, gần gũi, tình cảm và rất Việt Nam.
Anh em làng xóm xin mới cả,
Giò bánh, trâu heo cùng.
Chu đáo bên làng lêm với tớ,
Ông từ ngõ chợ lại cùng ta.
Người nông thôn luôn sống trong tình nghĩa, quây quần trong những ngày tết, đêm giao thừa
và cả những ngày mừng thọ,… Những bài thơ có sức diễn tả không khí, sắc màu, âm thanh của
cuộc sống văn hoá độc đáo của nông thôn Việt Nam, rõ nét và tưởng như chính xác lạ lùng.
Người dân quê sống “tối lửa tắt đèn có nhau”, tình cảm chia sẻ ngọt bùi. Họ không kín cổng cao
tường như người dân thành phố. Nguyễn Khuyến hiểu rõ điều đó, ông sống trong hoà mình vào

cuộc sống nơi đây. Ông thấu hiểu tình cảm của họ. Một nhà thơ của nông thôn Việt Nam đã nói
lên tình cảm tốt đẹp của người dân quê Việt Nam.
2.4. Nghệ thuật miêu tả dân tình làng cảnh Việt Nam
Nguyễn Khuyến là nhà Nho - một ông quan Tổng đốc nhưng lại vô cùng gần gũi với cuộc sống
nông thôn. Ông am hiểu về con người cũng như cảnh sắc nơi đây. Chính vì điều này là nền tảng
trong sáng tác của ông. Ông sáng tác theo quan niệm Văn dĩ tải đạo, Thi ngôn chí và ông thấy
hoàn toàn thoải mái trong quan niệm này. Đôi lúc ông cũng vượt rào. Thơ văn ông miêu tả hiện
thực khách quan một cách trung thực.
Trong sáng tác của ông đề tài dân tình làng cảnh luôn chiếm vị trí cao. Ông là nhà thơ nông thôn
xuất sắc nhất. Nguyễn Khuyến viết về tất cả những vấn đề của nông thôn kể cả những vấn đề
nhỏ nhặt nhất.
Không chỉ ở đề tài, nội dung mà cả trong ngôn ngữ. Ông đã kế tục và phát huy thêm truyền
thống của các nhà văn đời trước. Sử dụng ngôn ngữ có tính chất dân tộc và đại chúng rõ rệt.
Không quá lệ thuộc vào chữ Hán và hầu như không lấy điển tích Trung Quốc. Tiếng Việt ông
dùng đều thuộc ngôn ngữ phổ thông, lắm khi là những danh từ, những cách nói, những tục ngữ
thành ngữ thường dùng ở nông thôn. Không phải chỉ có “búi tóc củ hành, buông quần lá toạ”,
“thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng”, mấy ổ lợn con, vài gian nếp cái, xôi, bánh, trâu, heo, hay
cây cải, cây cà, cây bầu, cây mướp mới là nông thôn mà phải có lối nói: “Thửa ruộng rạch ròi
chân xấu tốt”, “Nhờ được bà hay lam hay làm”, “Sớm trưa dưa muối cho qua bữa”,… mới là
nông thôn máu thịt. Cách sử dụng ca dao, tục ngữ một cách lưu loát và thành thục.
Ngôn ngữ nông thôn trải qua hàng nghìn đời nên vô cùng phong phú và đa dạng với những cách
nói khác nhau. Bên cạnh đó Nguyễn Khuyến còn có tài sử dụng diễn tả của các từ ghép: Thấp le
te, đóm lập loè, bé tẻo teo,… cách dùng tiếng cũng hết sức chính xác: Bóng trăng trên mặt ao
rung động được ghi lại một cách thân tình “Làn ao long lanh bóng trăng loe”, một tiếng “làng
nhàng”,… Từ ngữ trong thơ Nguyễn Khuyến giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu. Ngôn ngữ thơ đi sát
vào đời sống, gần gũi thân quen với người nông dân.
Thiên nhiên được khắc hoạ với những đường nét, màu sắc đẹp gợi lên những rung động trong
sáng. Con người với đời sống sinh hoạt, với những chi tiết chọn lọc đã nói lên được cái thần thái
ở nông thôn. Bên cạnh đó cùng với sự kết hợp thể thơ truyền thống dân tộc như lục bát, song
thất lục bát, ca trù…. Nhiều lúc ông phá vỡ tính quy phạm của văn chương trung đại, nhờ vậy

hồn thơ ý thơ phúng túng, tinh tế và sâu lắng.
Gần gũi gắn bó với cuộc sống nông thôn. Từ cách cảm, cách nghĩ cho tới cách viết đều rất
gần gũi với người dân Việt Nam. Ngôn ngữ không trau chuốt, gọt giũa, không xa hoa, tráng lệ
mà vô cùng bình dị. Ông sử dụng những ngôn ngữ bình dân hàng ngày kết hợp với thể thơ
truyền thống của dân tộc tạo nên những bức tranh nông thôn đặc sắc, chỉ có ở Việt Nam không
lẫn đâu được.
II. Nguyễn Khuyến nhà thơ trào phúng:
Thời kỳ văn học trung đại kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút trào phúng
Tú Xương - Nguyễn Khuyến. Nếu Tú Xương mang đến cho người đọc những câu thơ trào phúng
cay độc, bốp chát thì Nguyễn Khuyến lại mang đến một hồn thơ nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà thâm
thúy. Bằng những sáng tác thấm đẫm chất trào lộng, Nguyễn Khuyến thực sự đã bộc lộ được tài
năng trào phúng bậc thầy của mình.
Nhắc đến cụ Tam Nguyên Yên Đỗ có lẽ điều người ta nghĩ đến trước hết chính là những bài thơ
trữ tính thật hay, thật tinh tế viết về thiên nhiên vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ, về tình
cha con, vợ chồng, bè bạn, xóm giềng rất chân thành, thắm thiết. Nguyễn Khuyến là nhà thơ số
một của làng cảnh Việt Nam. Cảnh sắc trong thơ ông thanh sơ, đẹp và phơn phớt một sắc buồn
từ cõi lòng mang tâm sự thời thế. Chùm ba bài thơ thu đã trở thành "quán quân" về thơ thu
Việt Nam xưa nay chính vì lẽ đó.
Hơn thế Nguyễn Khuyến còn có thể được xếp vào hàng ngũ những nhà thơ hàng đầu đất Việt
khi viết về tình bạn, tình tri âm tri kỷ Nguyễn Khuyến và Dương Khuê như trong thi phẩm 'Khóc
Dương Khuê" đã thể hiện liệu có còn gì sâu sắc hơn?
Tóm lại, nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ trữ tình xuất sắc chắc hẳn chẳng có gì phải bàn cãi.
Thế nhưng không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến đã thật sự gây ấn tượng mạnh mẽ với người
đọc bởi những vần thơ mang tiếng cười rất đặc sắc: nhẹ nhàng, kín đáo mà lại thâm thúy, chua
cay. Tiếp cận với những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến ta mới thấy hết cái đặc sắc, cái
giọng điệu riêng của ngòi bút trào phúng này.
Phải thấy rằng đối tượng trào phúng trong thơ Yên Đỗ hết sức phong phú, đa dạng. Ông cười
bọn quan lại tham quan vơ vét hại dân, cười bọn hãnh tiến nhố nhăng, cười cái bi hài của nền
Hán học cuối ngày tận số, cười cả Vua, cả Tây và cười cả chính mình. Chính vì thế mà tiếng cười
mang những sắc thái khác nhau. Khi để bông đùa cùng bạn, tiếng cười Nguyễn Khuyến thật

hóm hỉnh, thâm mật, duyên dáng:
Đã bấy lâu nay bác tới nhà
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa
Ao sâu nước cả, khôn chài cá
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà
Cải chửa ra cây, cà mới nụ
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa
Đầu trò tiếp khách trầu không có

(Bạn đến chơi nhà)
Với sự hào hiệp và tấm lòng chân tình của mình, nhà thơ muốn dành những gì sang trọng nhất,
ngon lành nhất để tiếp đãi bạn. Thế nhưng ước muốn đó không thể thực hiện được, oái ăm
thay cái gì cũng có mà thành ra không có gì vì tất cả đang ở dạng "tiềm năng" còn non tơ nên
không thể thu hái được, đến cả miếng trầu làm đầu câu chuyện cũng không có nốt. Thật ra tác
giả đang khoe sự giàu sang hay đang giải bày sự thiếu thốn? Có lẽ là cả hai song điều đáng nói ở
đây là nhà thơ đã sử dụng bút pháp cường điệu hóa rất đặc sắc, sự thiếu thốn đạm bạc của gia
cảnh được cường điệu một cách tối đa và sự giàu có sang trọng cũng cường điệu không kém với
mục đích đùa vui với bạn đồng thời tỏ rõ được tấm chân tình của mình. Chính sự đối lập giữa
giàu sang và đạm bạc trong cái nhìn mang tính phóng đại, hài hước của nhà thơ đã tạo ra sự hài
hước rất riêng của Nguyễn Khuyến.
Tuy nhiên, sắc thái đẫm nét nhất trong tiếng cười của Nguyễn Khuyến chính là cười tâm huyết,
cười ra nước mắt, cười với giọng nhẹ nhàng mà không kém phần chua cay. Tiếng cười ở đây
không phải để đùa vui nữa mà là để phê phán, để tố cáo hiện thực xã hội. Đối tượng trước hết
trong xã hội cần phải lên án, vạch trần chính là bè lũ thống trị, bọn tham quan:
Tôi nghe kẻ cướp nó lèn ông
Nó lại lôi ông đến giữa đồng
Lấy của đánh người, quân tệ nhỉ
Xương già da cóc có đau không?
Bây giờ trót đã sầy da trán
Ngày trước đi đâu mất mảy lông

Thôi cũng đừng nên ki cóp nữa
Kẻo mang tiếng dại với phường ông.
(Hỏi thăm quan tuần mất cướp)
Bằng những câu hỏi thăm rất đỗi tận tình, một người quan tuần bị mất cướp lại còn bị kẻ cướp
đánh cho, nhà thơ đã khiến chúng ta bật cười bởi chính giọng điệu "tử tế" ấy. Nhà thơ đã "hỏi
thăm" đã nói những điều lẽ ra theo phép lịch sự thông thường thì không nên hỏi, không nên
nói, hay có hỏi, có nói thì phải hỏi, phải nói một cách tế nhị, đằng này ông lại hỏi thẳng, nói
thẳng. Những câu thơ cứ như những mũi dao nhọn cứ ngoáy mãi vào một vết thương nên càng
ngoáy càng đau. Ban đầu nhà thơ còn nói ỡm ờ, chế dễu nhưng về sau thì đả kích thật sự. Ông
quan "đáng kính" chỉ như một món đồ để cho bọn cướp lôi từ nơi này sang nơi khác lại còn bị
đánh cho "sầy da trán", thật là đau xót! Nhà thơ còn tỏ ý thông cảm với tuổi già của tên quan
để rồi sau những lời hỏi han sức khỏe ấy, nhà thơ thốt ra lời khuyên "thôi cũng đừng nên ki cóp
nữa". Nghe thật tử tế làm sao! Thật ra cả bài thơ tác giả chỉ nhắm một mục đích duy nhất là cho
người đọc bông đùa thỏa thích trước sự "xui xẻo" của tên quan để rồi chốt lại lời châm biếm đả
kích gay gắt về cái thói tham lam, hà tiện, bủn xỉn của không chỉ tên quan tuần mà các tầng lớp
quan lại thời bấy giờ. Mượn thành ngữ "ki cóp cọp ăn' của dân gian xưa, Nguyễn Khuyến đã
giúp ta hiểu sâu sắc về bộ mặt thật của bọn quan lại đương thời, những "nạn nhân" bị cướp thứ
tài sản đã đi cướp!
Hiện thực xã hội xấu xa cần phải vạch trần không chỉ ở bè lũ quan lại mà ở cả hiện tượng lố lăng
trong buổi giao thời. "Hội tây" được viết để lên án hiện tượng ấy. Mở đầu bài thơ Nguyễn
Khuyến giới thiệu ngay khung cảnh nhộn nhịp của ngày hội:
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Quả là ngày hội lớn của người Pháp trên đất Việt, có âm thanh rộn rã của tiếng pháo, có màu
sắc lấp lánh của đèn treo, cờ kéo… Cả con người trong ngày hội ấy cũng rất háo hức:
Bà quan tranh ngất xem bơi trải
Thằng bé lom khom ghé hát chèo
Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún
Tham tiền, cột mỡ lăm anh leo.
Bằng những hình ảnh đậm sắc thái tạo hình, người đọc dễ dàng tưởng tượng không khí vui vẻ

của ngày hội, thế nhưng cũng chính bằng những cách miêu tả ấy, giọng điệu ấy đã tỏ rõ lên án
thói mị dân, nhố nhăng của bọn thống trị, quan Tây và quan Ta. Bà quan thật nực cười trong cái
thế “tênh nghếch” thăng bé thì nom thật tội nghiệp trong điệu bộ “lom khom”. Chỉ hai hinh ảnh
đặt đối xứng đã lột trần thực tại xót xa của cảnh đất nước trong cảnh nô lệ, dưới gót giày của lũ
xâm lược. Đau xót hơn, những con người nô lệ ấy không nhận thức được nỗi nhục mất nước lại
còn cuốn vào những trò chơi mà bọn thực dân Pháp bày ra để mị dân. Nhận thức rỏ điều đó, từ
chổ gián tiếp đã kích, Nguyễn Khuyến đã chỉ thẳng:
Khen ai khéo vẻ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêu!
Nhà thơ như đang đứng từ xa, từ chối việc nhập cuộc ngày hội nhộn nhịp để miêu tả không khí
náo nhiệt của ngày hội, nhận ra nỗi nhục của nô lệ để rồi cảnh tỉnh cho người dân Việt Nam
đang bị thói mị dân làm cho mờ mắt. Có lẽ hiếm có bài thơ nào mà thái độ châm biếm của
Nguyễn Khuyến được thể hiện trực tiếp đến như vậy.
Xã hội đổi thay, những kỳ thi Hán học như “những phiên chợ chiều đã tàn”. Để chế giễu cảnh
thi nửa mùa - nửa Tây nửa Ta - lúc bấy giờ chẳng ra gì, Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh “tiến
sĩ giấy” - một nhóm đồ chơi yêu thích của trẻ em ngày trước, qua đó nhằm miêu tả những “tiến
sĩ thật”:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Điệp từ “cũng” kết hợp nghệ thuật liệt kê cho thấy những tiến sĩ thời bấy giờ cũng có đầy đủ
từng thứ một những thứ áo xiêm diêm dúa. Họ cũng được gọi là những “ông nghè” chẳng kém
ai, thế nhưng học vị danh giá, vẻ vang ấy thực chất cũng chỉ là một mảnh giấy có đóng dấu son
đỏ lòe loẹt của triều đình:
Mãnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi
Hơn thế nữa, kẻ học vị tiến sĩ, ông nghè cao quý giờ chẳng còn chút giá trị, nó mới “nhẹ” mới
đơn giản làm sao khi có thể mua được bằng tiền. Cuộc mua bán này vô cùng có lợi “cái giá khoa
danh ấy mới hời” bởi sự nghiệp quan trường còn có biết bao những cuộc mua bán đổi chác
khác. Tất cả bọn chúng chỉ là một lũ ngu dốt, bất tài, vô dụng leo lên được vị danh giá thực chất
chỉ nhờ có đồng tiền. Tiếng cười trào phúng cất lên hóm nhẹ mà càng ngẫm càng thấy sâu cay.

Bằng nghệ thuật đột giáng, Nguyễn Khuyến đã đem lại sự rẽ ngoặt bất ngờ trong ý thơ:
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi
Miêu tả món đồ chơi để đã kích đồ thật nhưng đồ thật chỉ hóa ra như đồ chơi đó là tài châm
biếm ý vị của nhà thơ Yên Đỗ. Nó đem đến cho bài thơ sự đa nghĩa đầy bất ngờ: đồ chơi, đồ
thật, tiếng hư hư thực thực lẫn lộn khó mà phân biệt.
Cười người, cười đời chưa đủ, Nguyễn Khuyến còn đem mình ra để mà cười, cười mình có tài
mà luẩn quẩn mà bế tắc. Ta nhận ra trong bài thơ “Tiến sĩ giấy” chút ngậm ngùi, chua xót bởi
yếu tố tự trào mà nhà thơ muốn thể hiện. Là tam nguyên, từng vinh quy bái tổ rất vẻ vang, vinh
hiển nhưng vì thời thế không thể giúp được gì cho dân, cho nước, ngẫm ra mình cũng chỉ là
“Tiến sĩ giấy” với danh vờ danh hảo mà thôi. Nguyễn khuyến bộc lộ một tiếng cười chua xót đến
tội nghiệp.
Thậm chí đã có lúc ông còn chế giễu cái bất lực, bạc nhược của chính mình một cách thẳng
thắn:
Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng
Đối với cụ Tam Nguyên lúc này bìa xanh, bảng vàng có ý nghĩa gì đâu khi bản thân không thể
góp sức phò vua, giúp nước, giúp dân. Điệp từ “mình” trở đi trở lại thể hiện niềm day dứt khôn
nguôi, xoáy sâu vào bản thân mình mà chế giễu, mà trào phúng bởi thấy cuộc đời mình mới
đáng cười làm sao. Cười chính mình có lẽ cái cười sâu sắc nhất mà cũng xót xa nhất.
Như vậy, những sáng tác trào phúng của Nguyễn Khuyến hầu như đã điểm mặt đủ mọi đối
tượng, mọi hiện tượng đáng phê phán trong xã hôi nửa thực dân, nửa phong kiến đương thời.
Tiếng cười Nguyến Khuyến thực sự mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Bởi lẽ, Nguyễn Khuyến làm thơ
trào phúng không phải xuất phát từ nổi đau nhân thế mà xuất phát từ tấm lòng trong sạch, cao
khiết của một bậc đại nho có lòng yêu nước kín đáo, thâm trầm tìm cách phản ứng lại những
cái xấu xa đen bạc của thời thế. Chính nỗi đau về thời thế đã khiến tiếng cười của Nguyễn
Khuyến mang đậm tình yêu nước, tâm huyết với cuộc đời. Bởi trào phúng thực chất là trữ tình
mà ở đó tình yêu thương được thay bằng sự căm thù. Cụ thể ở đây, tình yêu nước, thương dân
được thể hiện bằng sự ẩn giấu dưới sự phê phán cái rởm đời, lố lăng của buổi giao thời đã hủy
hoại bao giá trị tinh thần tốt đẹp, quý giá cộng với sự tố cáo tội ác của bọn xâm lược vô nhân
đạo. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu đã cho rằng: “Nguyễn Khuyến dù không cầm gươm chiến đấu

dưới là cờ phấn nghĩa Cần Vương vẫn đáng được xếp vào hàng những nhà thơ yêu nước”.
Phải thấy rằng, tiếng cười trong thơ Nguyễn Khuyến hết sức đặc sắc: nó nhẹ nhàng, thâm thúy
không vang lên thành tiếng nhưng hết sức sâu cay. Với nững điều ông viết ra, người đọc càng
nghĩ càng thấm thía cái dụng ý sâu sắc trong lời thơ. Trong khi đó, nhà thơ trào phúng - Tú
Xương thì lại gây tiếng cười dữ dội, quyết liệt, sắc sảo đến bốp chát.
Cũng nói đến cảnh nghèo, cái đạm bạc của gia cảnh, nếu Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng đùa vui
trong “Bạn đến chơi nhà” thì Tú Xương lại nói thẳng, nói thật đến mức chua xót về cảnh nghèo
của mình:
Van nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.
Để giễu cợt bọn quan tham, Nguyễn Khuyến gửi gắm tâm sự đã kích trong “Hỏi thăm quan tuần
mất cướp”, trong khi đó Tú Xương lại châm biếm hết sức chua cay qua việc nhắc lại lời chúc đầu
năm mới của bọn quan lại với nhau:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang
Đứa thời mua tước đứa mua quan

Nó lại mừng nhau cái sự giàu

Nó lại mừng nhau cái sự lắm con…
(Năm mới chúc nhau)
Sau mỗi lần nhại lại một lời chúc là thêm một lần Tú Xương có cơ hội vạch trần bộ mặt xấu xa
của bọn quan lại. Chúng là một lũ tham sống, sợ chết, bản chất trơ tráo lì lợm, vô liêm sỉ thay
nhau thực hiện hành vi mua quan bán tước bỉ ổi, tỏ rỏ lòng tham vô độ mà lại keo kiệt bủn xỉn
vô cùng. Để rồi đến đoạn thơ kết, Tú Xương bày tỏ thái độ muốn tống khứ chúng đi bởi dưới
mắt ông chúng chỉ là một lũ khỉ ngày ngày diễn trò làm rối loạn xã hội.
Phố phường chật hẹp người đông đúc
Bồng bế nhau lên ở núi non.

Những câu thơ chẳng khác nào những ngọn roi mạnh quất thẳng vào bọn người đáng ghét ấy.
Quả thật trào phúng của Tú Xương thật sắc sảo, thật bốp chát chứ không thâm trầm, kín đáo
như cụ Yên Đổ.
Cũng nói đến sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của luân thường đạo lý, Nguyến Khuyến
thể hiện một cách kín đáo qua việc miêu tả không khí vui nhộn của ngày “Hôi tây” thì Tú Xương
lại đặt ngay môỵ câu hỏi lớn đối với xã hội:
Có đất nào như đất ấy không
Phố phường tiếp giáp với bờ sông
Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
(Đất Vị Hoàng)
Rồi ngay khi cùng phê phán những kỳ thi Hán học đương suy tàn, Tú Xương vẫn chửi thẳng
không ngần ngại:
Cử nhân cậu ấm kỉ
Tú tài con đô mĩ
Thi thể mới là thi
Ơi khỉ ơi là khỉ.
Qua đó có thể thấy Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ trào phúng có phong cách rất
riêng, rất nổi bật. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khái quát được cá tính sáng tạo của hai nhà thơ này
qua hai câu thơ:
Yên Đổ khóc dẫu cười không thể giấu
Tú Xương cười như mãnh vỡ thủy tinh.
Vì sao Nguyến Khuyến cười ra nước mắt như vậy trong khi Tú Xương lại cười dữ dội, sắc nhọn
đến thế ? Phải thấy rằng Tú Xương và Nguyến Khuyến tuy sống cùng thời đại nhưng nếu Tú
Xương sống ở chốn thành thị - nơi diễn ra rất sớm và rất tập trung lối sống lai căng, lỡm đời của
buổi giao thời thì Nguyễn Khuyến quanh năm sống ở nông thôn, sau lũy tre làng với cuộc sống ở
ẩn êm đềm, thanh bình. Hiện thực xã hội mà Nguyến Khuyến chứng kiến có nhiều phần ít trực
tiếp hơn so với Tú Xương bởi thế sự phản ứng của Tú Xương mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn.
Lại cùng là người có tài nhưng nếu Yến Đỗ là bậc đại nho với ba lần đỗ đầu vị thế “Tam nguyên”
vẻ vang nhất trong lịch sử khoa bảng Việt Nam thì Tú Xương lại lận đận trong thi cử với “Tám

khoa chưa khỏi phạm trường quy”, cuối cùng thi đỗ “Tú tài rốt bang”. Vì lẽ đó mà tiếng cười
Nguyễn Khuyến là tiếng cười của bậc bề trên, luôn ý thức cái hơn hẳn người đời về tài, đức; nó
mang giọng nhẹ nhàng, hóm hỉnh mà lại rất thâm thúy, chua cay, cười mà cũng là để khóc nên
không thể có giọng điệu nào khác có thể thấy sự thâm trầm, kín đáo ấy.
Sự khác biệt trong phong cách trào phúng của hai nhà thơ này còn do một lẽ tất yếu trong sáng
tạo nghệ thuật. Nghệ thuật là một lĩnh vực của sáng tạo, của độc đáo. Nó không bao giờ chấp
nhận bất cứ sự lặp lại nào, ngay cả sự lặp lại những chân lý vĩnh hằng. Chân lý chỉ có một nhưng
người nghệ sĩ có vô vàn cách khác nhau, bằng tài năng và tâm huyết của mình, để thể hiện nó.
“Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho” là
vì vậy. Bởi thế, dù cùng vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, cùng chứng kiến buổi giao thời lố lăng, đồi
bại, lại cùng lựa chọn mảng thơ trào phúng để thể hiện thái độ của mình trước cuộc đời với Tú
Xương, song Nguyễn Khuyến đã khẳng định cá tính của mình trong sáng tác. Là bậc đại nho
sống cuộc sống ở ẩn, sống nhàn, tiếng cười của Nguyễn Khuyến thật ý nghĩa, thật kín đáo, thật
thâm nho. Cũng nhờ sắc màu trào phúng riêng biệt ấy mà những tác phẩm cũng như tên tuổi
của Nguyễn Khuyến vẫn còn ghi dấu ấn trong lòng bạn đọc bao thế hệ trong suốt hơn một thế
kỷ qua và cho đến mai sau.
Tóm lại, mảng thơ trào phúng đã góp phần bồi đắp nên tên tuổi, vị thế của Nguyến Khuyến trên
thi đàn dân tộc. Cùng với Tú Xương nhà thơ xứ Yên Đỗ đã đạt được những thành tựu đầu tiên
nhưng có giá trị vững bền trong lĩnh vực trào phúng của văn học Việt Nam. Chắc chắn rằng dù
thời gian có trôi đi, lớp bụi của nó vẫn không thể làm lu mờ dấu ấn mà Nguyễn Khuyến đã khắc
tạc vào tâm trí bạn đọc - dấu ấn về một nhà thơ trào phúng “khóc dẫu cười không thể dấu”.
Nguyễn Thanh Liêm
THƠ TÚ XƯƠNG
KIỀU VĂN
Một thành tựu lớn của thơ Tú Xương là cái tôi văn học được tô đậm hơn bao giờ hết thông qua
sự khắc hoạ một điển hình nhân vật của thời đại. Nhân vật đó không phải ai khác, chính là bản
thân Tú Xương! Một nhân vật có tâm hồn cao đẹp và lãng mạn (phong nguyệt tình hoài, giang
hồ khí cốt), có “ngạo cốt” với phẩm cách cao cường (quắc mắt khinh đời), có tài năng lỗi lạc
(được Nguyễn Khuyến thừa nhận là người kế tục ông, đứng đầu làng văn của cả nước), có cặp
mắt thần nhìn rõ chân tướng của thời đại và nhân sinh (thiên hạ xác, nhân tình trắng). Nhưng

tiếc thay, đó lại là nhân vật bất phùng thời (cho nên suốt đời chống đối với cuộc đời), bế tắc
không tìm thấy con đường dẫn đến lí tưởng, rốt cuộc trở thành một nhân vật bi kịch, luôn day
dứt, uất hận, đau buồn, chán chường, và rồi chết yểu.
Cái tôi – nhân vật điển hình ấy được Tú Xương đặc tả bằng một bức chân dung sau đây:
Ở phố Hàng Nâu có phỗng sành,
Mặt thời lơ láo mắt thời lanh.
Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,
Quắc mắt khinh đời cái bộ anh…
Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ,
Rượu chè trai gái đủ tam khoanh…
(Tự cười mình)
Một bức chân dung độc đáo trong đó những “sự phi thường” ràng rịt với đủ thứ thói hư tật
xấu, nhưng như thế mới đúng là chân dung thật của một nhân vật sống ngoài vòng cương toả
như Tú Xương! Rõ ràng nhà thơ đã vứt bỏ tất cả mọi thứ điển phạm lẫn phong cách của văn
chương cổ điển để đi đến với cái thật của một mẫu người phóng lãng dám vượt ra khỏi những
khuôn sáo cổ truyền! Chủ trương ấy của ông đã đồng nhất với chủ trương của nhà thơ vĩ đại
Pháp Baudelaire quyết sống và sáng tạo những cái thật sự mới cho thế giới, không giẫm chân
vào “vết xe cũ” của những người đi trước.
Thường đã nói đến cái tôi là nói đến một tính cách mạnh mẽ, sắc bén, ưu việt, đầy cá tính.
Chính vì vậy, cái tôi trước hết thuộc về “những đấng tài hoa” trong đời.
Tú Xương là người có đầy đủ bản lĩnh để khẳng định cái tôi của mình:
Ta nghĩ như ta có dại gì?
Ai chơi chơi với chẳng cần chi!
Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất,
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì.
Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế,
Giang hồ cho biết mặt tương tri…
(Tự đắc)
Mặc dù gặp phải một hoàn cảnh vô cùng khắt khe nhưng cái tôi ấy vẫn ngang nhiên tồn tại như
một sự thách thức với định mệnh, với cuộc đời. Trong hoàn cảnh trớ trêu ấy, Tú Xương đã dùng

tiếng cười để giải toả tất cả. Nhà thơ bèn mang chính mình ra châm chọc, biến cái bi thành cái
hài, bởi vì hình như với ông, cuộc đời chẳng khác gì một hí trường để tất cả mọi người cùng đến
đó vui chơi đú đởn:
Lúc túng toan lên bán cả trời
Trời cười: thằng bé nó hay chơi.
Cho hay công nợ là như thế
Mà vẫn phong lưu suốt cả đời…
(Tự cười mình)
Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông,
Tưởng rằng ốm dậy hoá ra không.
Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng…
(Mùa nực áo bông)
Hỏi ra quan ấy ăn lương… vợ
(Quan tại gia)
hoặc:
Thầy đồ thầy đạc
Dạy học dạy hành
Vài quyển sách nát
Dăm thằng trẻ ranh…
Ý hẳn thầy văn dốt vũ dát, vả lại vừa gàn vừa dở…
Trông thầy
Con người phong nhã
Ở chốn thị thành
Râu rậm bằng chổi
Đầu to tầy giành.
Cũng lắm phen đi đó đi đây, thất điên bát đảo,
Cũng nhiều lúc chơi liều chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh.
Nhà lính tính quan, ăn rặt những lạp xường, (…)
mặc rặt những quần vân kim tuyến,

Đất lề quê thói, chỗ ngồi cũng án thư, bàn độc,
ngoài hiên cũng cánh xếp mành mành…
(Phú thầy đồ dạy học)
Tính bi hài kịch của cái tôi Tú Xương phản ánh số phận mà ông không tài nào “giãy ra” được.
Trước hết là sự hành hạ ác liệt của cái nghèo:
- Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo.
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu…
- Van nợ lắm khi tràn nước mắt,
Chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi…
- Khách hỏi nhà ông đến,
Nhà ông đã bán rồi.
Vợ lăm le ở vú,
Con tấp tểnh đi bồi…
Bên cạnh đó là cái khổ nạn thi cử mà xưa nay có lẽ không ai phải chịu điêu đứng như ông:
Trách mình phận hẩm lại duyên ôi,
Đỗ hết hai trường hỏng một tôi!
Tế đổi làm Cao mà chó thế,
Kiện trông ra tiệp hỡi trời ơi!
(Hỏng thi khoa Quý Mão)
Bụng buồn còn muốn nói năng chi?
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì!
(Buồn thi hỏng)
Cho đến trọn đời, Tú Xương vẫn không tìm được niềm an lạc như Nguyễn Khuyến. Cái tôi của
ông đã đắm vào một nỗi buồn chán vô cùng tận, nhiều khi tưởng phát điên phát rồ:
Người bảo ông điên ông chẳng điên,
Ông thương ông tiếc hoá ông phiền.
Người yêu kẻ ghét hay gì chữ,
Đứa trọng thằng khinh chỉ vị tiền…

Khi cười khi khóc khi than thở,
Muốn bỏ văn chương học võ biền!
(Thói đời)
Muốn mù trời chẳng cho mù nhỉ?
Giương mắt trông chi buổi bạc tình?
(Đau mắt)
Nằm nghe tiếng trống trống canh ba
Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra.
Thiên hạ dễ thường đang ngủ cả,
Việc gì mà thức một mình ta?
(Chợt giấc)
Và cuối cùng, dường như cái tôi của Tú Xương đã không còn chung đụng được với cái cuộc đời
rối ren vô nghĩa thời buổi bấy giờ nữa, nó đã lặng lẽ bỏ đi trong một cơn buồn lai láng:
Trời không chớp bể với mưa nguồn,
Đêm nảo đêm nao tớ cũng buồn.
Bối rối tình duyên cơn gió thoảng,
Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng suông.
Khăn khăn áo áo thêm rầy chuyện,
Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng.
Ngủ quách, sự đời thây kẻ thức,
Bên chùa chú trọc đã khua chuông.
(Đêm buồn)
Nhưng điều đáng nói ở Tú Xương là ông không phải một người hiếu bi (thích cái buồn) như căn
bệnh của một số nhà thơ lãng mạn thời tiền chiến sau này. Tú Xương căn bản là một người lạc
quan, yêu đời. Cái nết “ham chơi” của ông vượt xa Nguyễn Khuyến và không hề thua kém các
thi nhân như Lí Bạch, Nguyễn Công Trứ… Đó chính là cội nguồn tạo nên cả một mảng thơ đáng
kể mang nội dung “Phong nguyệt tình hoài, giang hồ khí cốt”, trong đó cái hoan (vui) hết sức
nổi trội và thú vị, át hẳn cái bi (buồn). Đây là một màn kịch vui đặc sắc vào ngày Tết:
Nhập thế cục bất khả vô văn tự,
Chẳng hay ho cũng húng hắng lấy một vài

Huống thân danh đã đỗ tú tài
Ngày Tết đến cũng phải một hai câu đối.
Đối rằng:
Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài;
Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt.
Viết vào giáy dán ngay lên cột,
Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay?
Thưa rằng: hay thực là hay!
Chẳng hay sao lại đỗ ngay tú tài?
Xưa nay em vẫn “chịu” ngài!
(Tết dán câu đối)
Trong màn kịch ấy, người ta thấy Tú Xương đang vui, đang cao hứng, đang phát tiết thiên tài,
thấy bà Tú cũng bị lôi cuốn và nhập cuộc vào niềm vui lớn đó, tuy rằng trên môi bà vẫn đọng
một nụ cười hóm hỉnh pha chút mỉa mai: bà “chịu” tài của chồng, cái đó thì đã hẳn, nhưng bà
cũng còn “chịu”, còn “vái dài” cả cái nết ăn chơi bạt mạng và nết “ngông” của chồng nữa!
Lí Bạch có câu: “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan” (Vui cho đẫy khi ta đắc ý). Tú Xương với bản chất
đặc biệt sống động, còn làm được hơn thế: ông đã tận hưởng niềm vui đời ngay cả trong khi
ông gặp toàn những điều “thất ý” chứ không phải là “đắc ý”, đúng như lời của văn hào Nga L.
Tolstoy: “Khó khăn hơn cả và hoan lạc hơn cả là biết yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của
mình”. Tú Xương không giấu giếm cái lòng ham hố vui sống của mình:
Một trà một rượu một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…
(Ba cái lăng nhăng)
Tú Xương cũng là một “tay chơi” có hạng trong làng “hát ả đào”. Ông tán thưởng hình thức
sinh hoạt văn hóa dân tộc này mà ông thấy rất “hay” và “không đến nỗi tệ hại”, trong khi ông
cực lực phản đối việc đàn bà con gái Việt Nam lấy Tây cũng như trò đồng bóng:
Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,
Cùng nhau dan díu mấy đêm ngày.
Năm canh to nhỏ tình dơi chuột,
Sáu khắc mơ màng chuyện nước mây…

(Thú cô đầu)
Ngày xuân mừng quí khách,
Khi vui, lọ đàn phách!
Chuyện nở như pháo rang,
Chuyện dai như chão rách,
Đổ cả bốn chân giường,
Xiêu cả một bức vách!
(Tết tặng cô đầu)
Lòng ham vui, yêu đời ấy quả thật là nét nổi bật của cái tôi nơi Tú Xương khiến hình ảnh ông
mãi mãi không phai mờ trong tâm tưởng của chúng ta.
Một con người có bản tính vui tươi như thế mà rốt cuộc phải lìa đời trong những nỗi buồn bã
chán chường: điều ấy cho thấy cái xã hội thời Tú Xương đã tàn tạ, ảm đạm và ngột ngạt đến
mức nào!
Trước Tú Xương, cái tôi văn học đã manh nha từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc
Khoan, đã có dáng vóc rõ ràng với Hồ Xuân Hương, đã trở nên sắc sảo, nổi trội với Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến. Nhưng phải đến Tú Xương, cái tôi văn học mới thật sự đạt
tới đỉnh cao, mới mang đậm những sắc thái phong phú của một tính cách cụ thể, mang đậm
hơi thở tâm hồn của một con người cá biệt, thậm chí còn chứa đựng cả những thông điệp về số
phận riêng của nhà thơ nữa. Chẳng hạn, trong bài thơ “Đêm buồn” vừa nêu trên, câu “Ngủ
quách, sự đời thây kẻ thức” như một lời tiên tri về cái chết của Tú Xương xảy ra vào ngày hôm
sau, khi bài thơ vừa viết xong còn chưa ráo mực! Đủ biết cái tôi văn học ở đỉnh cao sẽ hoàn
toàn hoà làm một với con người tác giả, như người xưa đã nói văn là người. Điều đó không thể
có được với những loại văn học ước lệ tầm thường và văn học xu thời luôn xa rời sự thật.
Không chỉ là nhà thơ hiện thực trào phúng, Tú Xương còn là nhà thơ trữ tình lớn cuối thế kỉ XIX
– đầu thế kỉ XX. Chất trữ tình đã được thể hiện rất đậm đặc trong hình tượng “một nhân vật
của thời đại” với cái tôi văn học mà chúng tôi đã trình bày ở trên. Ngoài ra thơ Tú Xương còn
hàm chứa cả một thế giới tâm tư sâu sắc:
Nỗi thương tiếc xót xa đối với cảnh tang thương của đất nước:
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.

Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
(Sông Lấp)
Nỗi lo âu về sự suy thoái của nền văn hoá giáo dục dân tộc trong sự suy vong chung của đất
nước. Chúng ta cần biết, ở thời đại của Tú Xương, ông chưa được chứng kiến những ảnh hưởng
tích cực của văn hoá Phương Tây đối với văn hoá nước ta như trong thời Tiền Chiến sau này.
Đạo học ngày nay đã chán rồi,
Mười người đi học chín người thôi…
(Than đạo học)
Nỗi đau xót trước những cảnh thiên tai địa ách, trước nỗi thống khổ của đủ mọi lớp người trong
một xã hội đầy khốn khó gieo neo:
Bát gạo Đồng Nai kinh chuyện cũ,
Con thuyền Quí Tị nhớ năm xưa…
(Lụt năm Bính ngọ)
Người đói ta đây cũng chẳng no,
Cha thằng nào có tiếc không cho!
(Thề vơi người ăn xin)
Bài thơ cho thấy Tú Xương có tấm lòng nhân ái thật là rộng rãi: cùng một cảnh nghèo với người
ăn xin, ông đã nhìn hắn như thể một kẻ “cùng hội cùng thuyền”!
Tú Xương cũng là nhà thơ tiên khu ở thời đại mới viết về số phận của những người con gái làm
nghề ca kĩ mà sau này sẽ được thơ văn nửa đầu thế kỉ XX tiếp tục khai thác:
Chị chị hỡi, năm nay túng lắm,
Biết làm sao, tết đến nơi rồi?…
Chị em ta cùng nhau giữ giá,
Đến bây giờ ngã cả chẳng ai nâng.
Cũng liều bán váy chơi xuân…
(Tết cô đầu)
Tú Xương – với trái tim đặc biệt nhạy cảm của nhà thơ, với cặp mắt sắc sảo nhìn thấu bản chất
các sự vật, hiện tượng, với lập trường mang tinh thần nhân văn sâu sắc – có lẽ là nhà thơ đầu
tiên trong thời cận đại đã “phát hiện” tính bi kịch của những người con gái vì hoàn cảnh éo le

mà phải chôn vùi hạnh phúc nhân bản của mình để xuất gia đi tu nơi cửa Phật:
Con gái nhà ai dáng thị thành,
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh?
Nhạt màu son phấn, say mùi đạo,
Mở cánh từ bi khép cánh tình…
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh!
(Thiếu nữ đi tu)
Sự phát hiện quý báu của Tú Xương đã là tiền lệ để những nhà văn nhà thơ lớp sau như Tản Đà,
Nguyễn Công Hoan, Khái Hưng, Hàn Mặc Tử… tiếp tục viết về thân phận đáng thương cảm của
những “ni cô”.
Trong mảng thơ trữ tình của Tú Xương lấp lánh một viên ngọc quý và bất hủ: đó là bài thơ
Thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo xèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
Cái “thần” của bài thơ chính là ở cái “thật” đến không ngờ và sự sâu sắc lạ thường của nó. Mặc
dù người đàn bà Việt Nam đích thực với thiên chức làm vợ, làm mẹ, chỉ là người bình dân sống
cuộc đời giản dị, thậm chí đơn điệu, vậy mà tạo nổi một bức chân dung xác thực, viên mãn về
họ luôn là thách đố lớn cho bất kì nhà văn nhà thơ nào! Tú Xương, vẻn vẹn chỉ cần tám câu thơ
đã hoàn tất được bức chân dung hoàn thiện của mẫu “người đàn bà Việt Nam của muôn đời”,
nói cách khác, người đàn bà Việt Nam truyền thống điển hình:
Sự làm lụng vất vả quanh năm ngày tháng, hầu như luôn chỉ có một thân một mình và thật
đáng thương cảm (Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo xèo
mặt nước buổi đò đông); trách nhiệm quá mức nặng nề đối với một người thuộc phái “chân yếu

tay mềm” (Nuôi đủ năm con với một chồng); sự an bài của số phận khắt khe (Một duyên hai nợ
âu đành phận); nết “nhẫn”, tức đức tính chịu thương chịu khó và lòng quả cảm đáng khâm
phục (Năm nắng mười mủa dám quản công); và nỗi cay đắng, đau khổ ngấm ngầm vì không
được yêu thương, không được đền đáp xứng đáng (Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/ Có chồng hờ
hững cũng như không).
Có thể nói, phải có một “cặp mắt thần”, một tâm hồn chan chứa những tình cảm sâu sắc và một
tài năng thực sự mới nhìn ra nổi và miêu tả nổi bản chất con người, số phận đượm màu sắc bi
kịch cũng như những nỗi niềm ẩn giấu trong đáy lòng sâu thẳm thẳm, kín như bưng của một
người đàn bà bình thường nhưng tuyệt vời cao quý như bà vợ Tú Xương!
Tú Xương quả đã bỏ rất xa thứ văn chương hời hợt, thiếu chiều sâu, thiếu chất đời, thiếu xúc
cảm. Đó chính là lí do để bài Thương vợ đến tận bây giờ vẫn còn làm rung động người đọc.
*
* *
Tú Xương từng được tôn là bậc “thần thơ thánh chữ”, bởi vì ông có biệt tài dùng chữ rất “đắt”
và đắc địa, không kém Hồ Xuân Hương xưa kia. Ông đã có công lớn phát huy khả năng to lớn
và đặc thù của Tiếng Việt, một ngôn ngữ sắc bén, có sức công phá mạnh mẽ và vô cùng “hóm”.
Ông có biệt tài dùng những từ ngữ cửa miệng của người bình dân để sáng tác nên những bài
thơ đặc sắc mang phong cách hoàn toàn riêng biệt của ông. Tài nghệ ấy có lẽ chỉ có Nguyễn
Bính sau ông kế tục được. Ví dụ:
- Một trà một rượu một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta…
- Chí cha chí chát khua giày dép,
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
- Một tuồng rách rưới con như bố,
Ba chữ nghêu ngao vợ chán chồng
- Biết thân thuở trước đi làm quách,
Chẳng kí không thông cũng cậu bồi.
- Ông cử thứ năm, con cái ai?
Học trò quan đốc Tả Thanh Oai.
Nghe tin, cụ cố cười ha hả

Vứt cả dao cầu xuống ruộng khoai!
v.v…
Là người con rứt ruột của một dân tộc vốn thích cười, ưa trào lộng, Tú Xương đã sử dụng và
phát huy cao độ lợi khí sắc bén của tiếng cười để gây ra những “cú chết bất ngờ” cho bất kì một
đối tượng nào mà ông muốn hạ gục. Chính vì thế, ngay lúc sinh thời của ông, tất cả những ai,
kể cả những nhân vật tai to mặt lớn trong xã hội, một khi đã bị ông cho ăn đòn, dù tức hộc máu
cũng đều phải chịu một phép, không dám ho he chống cự. Họ biết rất rõ rằng không thể nào
chống cự nổi một con người sắc nước quá chừng như Tú Xương. Hoặc giả họ cho rằng Tú
Xương giống như một “Chí Phèo” trong làng văn chăng? Chẳng hạn quan tri phủ Xuân Trường
(đâu phải là một chức vụ tầm thường!) đã bị ông lột mặt nạ và giáng cho một đòn chí tử:
Chữ thôi chữ cứu không phê đến,
Ông chỉ quen phê một chữ tiền!
Quan huyện Đ (một chức vụ đâu phải không ghê!) nhân được cử làm chủ sự một kì thi ở thành
Nam đã bị ông chửi thẳng vào mặt:
Chẳng hay gian dối vì đâu vậy,
Bá ngọ thằng ông biết chữ gì?
Quan trường là người có trách nhiệm trọng đại tuyển chọn nhân tài cho quốc gia được ông
miêu tả bằng một bức biếm hoạ:
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Một nhà sư của cái thời nhố nhăng ấy bị ông… chọc sườn:
Quảng đại từ bi cũng phải tù
Hay là sư cũng vụng đường tu?
Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển
Ý hẳn còn quên một phép phù?
(Sư ở tù)
Còn dân đồng bóng thì bị ông đập cho một gậy tưởng có thể gãy xương sống:
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước?
Hay là đồng sợ súng thần công?
(Lên đồng)
Một đóng góp đặc biệt khác của Tú Xương về phương diện nghệ thuật: cũng giống như Vũ

Trọng Phụng sau này, ông thường bê nguyên xi (không cắt gọt, trau chuốt) những mảng hiện
thực hoàn toàn trần trụi của cuộc sống vào trong thơ. Vậy mà dưới những ngón tay phù thuỷ
của ông, chúng lại tạo nên một tác phẩm văn chương đích thực kèm cái cười sảng khoái cho
người đọc, chứ không hề nhảm nhí. Rõ ràng Tú Xương có cả một nghệ thuật cao cường không
dễ gì học đòi được. Ví dụ:
Ấm không ra ấm, ấm ra… nồi,
Ấm chạy lăng quăng ấm chẳng ngồi.
Chán cả đồ chuyên cùng chén mẫu,
Luộc giò, ninh thịt lại đồ xôi!
(Ông ấm)
Khen ai khéo vẽ sự lên đồng,
Một lúc lên ngay sáu bảy ông.
Sát quỷ ông dùng thanh kiếm… gỗ,
Ra oai bà giắt cái… khăn hồng!
Cô giương tay ấn tan tành núi,
Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông!…
(Lên đồng)
*
* *
Lúc sinh thời, Tú Xương mải mê “bắn phá”, chọc đời, mải mê sống, vẫy vùng và cả… chơi bời,
cho nên ông hầu như không có thì giờ suy nghĩ về cái gọi là “sự nghiệp văn chương” của ông.
Tương truyền ông sáng tác rất nhiều, thường là xuất khẩu thành thi, tức “ứng tác tại chỗ” với
bạn hữu rồi ông quên ngay, không hề ghi chép. Sở dĩ thơ ông còn được lưu giữ đến nay là nhờ
vợ ông và bạn bè ông, vì quá yêu thích và trân trọng thơ ông nên đã ghi nhớ được. Bản thân
ông, mặc dù là con người “văn chương nết đất” nhưng cũng đã từng có những ý nghĩ hết sức bi
phẫn:
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì!
Thế nhưng, trái ngược hẳn với ý nghĩ tuyệt vọng đó mà ông biểu lộ sau một lần hỏng thi, lịch sử
đã xác nhận: ông là một nhà thơ dân tộc lỗi lạc đứng bên cạnh Nguyễn Khuyến, tạo thành hai

đỉnh thơ cao nhất của Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hai ông là những người
khai sinh ra dòng văn học trào phúng – trữ tình, dòng văn học chiếm vị trí chủ đạo của văn học
nước ta thời kì đó. Bản thân Nguyễn Khuyến lúc sinh thời đã công nhận vị trí hàng đầu đó của
Tú Xương. Ông nói: “Kẻ kế tục ta là Xương chăng?” (Trên thực tế, chính Tú Xương mặc dù kém
Nguyễn Khuyến tới 35 tuổi nhưng lại mất trước Nguyễn Khuyến 2 năm).
Trong thời buổi đất nước rơi vào cơn thảm hoạ bị thực dân Pháp xâm lược và đô hộ, nền văn
hiến cùng tất cả những giá trị truyền thống của dân tộc ta đang đứng trước nguy cơ bị băng
hoại. Cũng như các sĩ phu, chí sĩ và quần chúng nhân dân yêu nước đương thời, Tú Xương và
Nguyễn Khuyến, đứng trên tầm cao của trí tuệ và nhân cách Việt Nam ở lĩnh vực văn học, đã
nhìn thấy tất cả thảm trạng đó, đã vô cùng lo lắng, đau xót, và đã xả thân làm hết sức mình cho
đến hơi thở cuối cùng để cứu vãn lấy phẩm giá của dân tộc. Trước nguy cơ không ít người
“không còn là cái giống người” nữa, Tú Xương đã điên cuồng đánh phá vào tất cả những gì xấu
xa, nhơ bẩn, hèn hạ, đồi bại và lố bịch của họ. Hành động của ông không có mục đích nào khác
là để làm sáng lại lương tri và phẩm giá Việt Nam. Đối với ông, đó là biện pháp hiệu nghiệm
nhất để bảo vệ chân giá trị vốn có của Việt Nam – cội nguồn sức mạnh của dân tộc. Ông hiểu
được rằng chỉ khi nào tất cả người Việt Nam thoát ra khỏi cơn mê chướng của thời đại và khôi
phục lại được sức mạnh cố hữu, họ mới có thể thực hiện được công cuộc vĩ đại là “xúm tay vào
kéo lại non sông”. Cho nên, tuy đứng trên địa hạt văn học nhưng Tú Xương mang tầm vóc
chung của các lãnh tụ tinh thần của dân tộc ta thời đại ấy. Thơ ông, cũng như thơ của thi hào
Đỗ Phủ, mặc dù nói nhiều những chuyện riêng tư, nhưng cái mà thơ toát lên lại chính là một
vấn đề vô cùng trong đại: số phận, sự nhục vinh và sự tồn vong của một đất nước, một dân tộc.
Những ai tưởng rằng Tú Xương chọc phá cuộc đời chỉ để “lỡm đời chơi” hoặc chỉ để thoả mãn
cái cá tính “ngang ngược, ngông nghênh” của ông, người đó thực chưa hiểu gì về bản chất con
người Tú Xương, về cái tâm sự vô cùng u uất, về những nỗi đau đời ghê gớm ông mang nặng
trong lòng. Thơ Tú Xương là thứ thơ đau buồn, uất hận, bất đắc chí với thời cuộc, trong đó có
sự bất đắc chí về mặt cá nhân.
Cùng với Nguyễn Khuyến, Tú Xương thực thi trách nhiệm cao cả của người cầm bút: đánh thức
lương tri Việt Nam, làm cho họ thấy rõ cái nhục, cái sai quấy, cái lố lăng vô nghĩa, cái kiếp sống
thừa trong nô lệ và ngu muội, khơi gợi những giá trị tinh thần cao quý của dân tộc.
Trong rất nhiều nhà thơ Việt Nam, Tú Xương là một trong số rất ít người được tôn vinh danh

hiệu Nhà thơ dân tộc bởi vì thơ ông, cả nội dung lẫn hình thức, đều chất đọng bản sắc Việt
Nam, không bị pha tạp với văn chương cổ điển Trung Hoa như phần đông các nhà thơ xuất
thân cựu học, khoa cử.
Trải qua gần một thế kỉ nhưng những tác phẩm thơ trào phúng – trữ tình của Tú Xương vẫn
tiếp tục hấp dẫn người đọc. Đặc biệt, những bài thơ trào phúng của ông đến nay vẫn “nóng hổi
tính chất thời sự”. Bởi vì, giống như vòng quay của một chiếc đèn cù, trong xã hội Việt Nam
hiện đại lại xuất hiện những hiện tượng gần như “một đồng một cốt” với những tấn tuồng xã
hội thời Tú Xương. Nổi cộm nhất là những biểu hiện lố lăng, xuống cấp về nhân cách, đạo đức,
đi ngược lại và làm phai lạt bản sắc Việt Nam. Ngoài ra là những “sản phẩm” hiện đại khác như
hiện tượng lai căng, sùng ngoại, chủ nghĩa hình thức (chỉ có cái vỏ loè loẹt bề ngoài nhưng bên
trong thì rỗng tuếch), chủ nghĩa thực dụng (coi những mối lợi nặng hơn nhân phẩm), thái độ coi
trọng vật chất, coi nhẹ tinh thần…
Chúng tôi cho rằng công việc cứu vãn và chấn hưng bản sắc và lương tri Việt Nam mà Nguyễn
Khuyến và Tú Xương đã làm trước đây, ngày nay càng cần phải được phát huy hơn nữa.
Cuối cùng, có một điều không thể không nhắc đến: chắc chắn vì sự hấp dẫn mãnh liệt của thơ
trào phúng Tú Xương mà theo gót ông đã xuất hiện liên tục cả một dòng họ Tú, mãi đến cuối
thế kỉ XX vẫn không có dấu hiệu chấm dứt, trong đó người nổi bật nhất là Tú Mỡ. Hiện tượng
đặc biệt ấy cũng là bằng chứng hùng hồn cho vinh quang chói lọi của nhà thơ trào phúng bậc
thầy Tú Xương.
Thơ trào phúng Trần Tế Xương: Cười đó rồi khóc đó
Yếu tố trào phúng và trữ tình trong thơ Trần Tế Xương thường đan xen nhau, trong cái này luôn
có cái kia và ngược lại.
)
Những bài nghiên cứu về Tú Xương, nhất là của các nhà thơ, nhà nghiên cứu có uy tín như
Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Trần Thanh Mại, v.v… đều dành bút lực tập trung khai thác nhiều
phần trữ tình, phần đau thương, xót xa của Trần Tế Xương trước thời cuộc mất nước và cảnh
nghèo khổ, bần cùng của bản thân. Nhưng có điều lạ, đông đảo độc giả lại nhớ Tú Xương nhiều
hơn với tư cách nhà thơ trào phúng, họ thường vận dụng các câu thơ có tính nghịch cảnh,
nghịch lý, gây cười của ông. Như vậy, trong văn hóa đại chúng, người đọc nhìn Tú Xương với tư
cách nhà thơ trào phúng, còn trong văn hóa hàn lâm, người ta khai thác sâu vị thế nhà thơ trữ

tình của ông.
Nhìn một cách khái lược, trong thơ trào phúng luôn có những yếu tố đi cùng đại chúng, thời
cuộc; còn thơ trữ tình hay đi với những điều nghiêm chỉnh, nghiêm ngắn. Khi thời cuộc có nhiều
nghịch lý, lố bịch và vô lý trong đời sống, những người sáng tác, nhất là sáng tác dân gian,
thường chĩa ngòi bút vào và khai thác các mặt đen trắng, mâu thuẫn đó thành tiếng cười. Do
đó, người ta tổng kết, khi trào phúng phát triển, xã hội thường có những rối loạn, loạn chuẩn;
khi trào phúng ít đi, nói chung xã hội đạt được sự nghiêm túc, căn cơ. Điều này nếu áp vào thời
của Tú Xương, sau Hiệp định 1884, triều đình Huế nhường toàn bộ quyền quản lý cho Pháp,
nước ta mất hoàn toàn vào tay thực dân, từ đây sản sinh ra một tầng lớp mới là đám công
chức đi làm cho Pháp, nảy sinh chủ nghĩa tư bản ở thành thị. Cùng với đó là lối sống mới, nhân
sinh quan mới mâu thuẫn với triết lý nhà Nho. Tất cả những điều này kích thích Tú Xương sắc
sảo nhìn ra các mặt đối lập đó. Tất nhiên, bên cạnh Tú Xương còn có những cây bút khác, có thể
tài không bằng ông, nhưng cũng tạo ra sự đồng thanh tương ứng. Đây là thời kỳ đề tài chế
giễu, bài bác, đả kích rất phát triển.
Cười người và cười mình
Thơ trào phúng của Tú Xương rất phong phú, vì nó là tấm gương soi chiếu cuộc đời nên cuộc
đời có gì thì nó hiện lên, không phân biệt đề tài lớn, nhỏ. Hễ chúng đụng vào tâm hồn, trái tim,
tư tưởng của Tú Xương thì ông đều tìm ra tiếng cười đả kích. Tuy nhiên, nhìn một cách hệ
thống, ta có thể hình dung về hai mảng đề tài lớn trong thơ trào phúng Tú Xương. Trước hết là
cảnh đời, xã hội khách quan. Ở đó, ông tìm ra những điều trái đạo lý như chuyện nhà sư phá
giới, tằng tịu với đệ tử, chuyện những kẻ dốt nát lại được làm quan, việc thi cử và thái độ ngạo
mạn của bọn thực dân, những suy vi thoái trào của đạo học và nền nếp Nho giáo.
Mảng đề tài thứ hai khá nổi bật trong thơ Tú Xương là tinh thần trào lộng, tự giễu cợt. Biết tự
cười mình luôn là bản lĩnh rất lớn và ngạo nghễ của những người có cá tính. Với Tú Xương, ông
tự thấy bản thân có những nghịch lý để tự trào. Ông là người thông minh, có tài thơ văn, nhưng
thi mấy lần cũng chỉ đỗ đến tú tài, đạt được cái bằng cũng không dùng để đi làm mà chỉ là thứ
ghi nhận một nấc thang học vấn. “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”, ông tự giễu mình, tự lấy mình
ra sỉ vả, và vì không động chạm đến ai nên ông thường phóng to nhược điểm của mình. Qua đó
cho thấy, trong những nghịch lý này có lỗi của thời đại, xã hội. Chẳng hạn, ông không có nhiều
quần áo, chỉ có một tấm áo bông rất đẹp. Do đó, khi phải tiếp khách, dù trời nóng phát sốt, ông

vẫn phải mặc áo rét. “Bức sốt mà mình vẫn áo bông - Tưởng rằng ốm dậy hóa ra không”. Cảnh
đó thật buồn cười, nhưng sau cái cười là sự thương cảm với thân phận nhà thơ nghèo khổ.
Rồi chuyện Tú xương phải lo việc nhà để vợ đi buôn bán kiếm tiền. Mặc dù không giỏi việc gia
chánh nhưng vì không biết kiếm tiền nên Tú Xương phải ở tư thế “làm vợ” với những câu tự
giễu mình như: “Vuốt râu nịnh vợ con bu nó - Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Ra đời thì quắc
mắt coi thường mọi người vì ỷ thế là người có tài, nhưng về nhà vẫn phải nịnh vợ vì kinh tế do
vợ nắm. Mà thời đồng tiền làm chủ thì kinh tế quan trọng lắm, nên vẫn phải “Vuốt râu nịnh vợ
con bu nó” là thế.
Cái hay ở Tú Xương là đằng sau việc ông tự giễu ông nhà Nho, ta thấy cả một đạo học suy vi.
Thời trước là “duy hữu độc thư cao”, chỉ người đọc thánh hiền mới đáng được coi trọng, thì bây

×