Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

BÀI TẬP NHÓM MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (792.91 KB, 37 trang )

37
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG VỐN
1. Khái niệm thị trường vốn:
Thị trường vốn là nơi mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn
nhằm giải quyết nhu cầu về vốn trung và dài hạn cho các chủ thể trong nền kinh tế. Thị
trường vốn được xây dựng để cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn của các
doanh nghiệp, chính phủ, hộ gia đình. Các công cụ trên thị trường có thời gian đáo hạn
trên một năm. (Nguồn: Tiền tệ ngân hàng – TS. Lê Thị Tuyết Hoa, PGS. TS Nguyễn
Thị Nhung – NXB Phương Đông 2011 – Trang 114).
Những người huy động vốn chủ yếu và quan trọng nhất là các doanh nghiệp.
Những người cung cấp vốn là tổ chức tài chính như ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ
hưu trí…và các công chúng. Nếu như trọng tâm của thị trường ngắn hạn là cung cấp
phương tiện giúp cá nhân, doanh nghiệp nhanh chóng điều chỉnh tình hình thanh khoản
thực của họ theo số lượng tiền mong muốn. Thì ngược lại, thị trường vốn gắn bó gần
gũi với tiết kiệm và đầu tư hơn. Là nhịp cầu để chuyển tiết kiệm của những đơn vị
thặng dư qua những cuộc đầu tư của những đơn vị thiếu hụt. Qua đó, thị trường vốn
đóng góp vào sự ổn định kinh tế bằng cách cân đối tiết kiệm với đầu tư. Do đó, một thị
trường vốn có hiệu quả sẽ đóng góp tích cực vào việc nâng cao mức sống cho dân
chúng.
2. Phân loại thị trường vốn:
 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường vốn
Thị trường sơ cấp: đây là thị trường mua bán các loại chứng khoán mới phát
hành. Thị trường sơ cấp tạo điều kiện tăng qui mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng chứng
khoán vào lưu thông.
Thị trường thứ cấp: là thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu các loại chứng
khoán đã phát hành và đang lưu thông trên thị trường. Thị trường thứ cấp không làm
thay đổi qui mô vốn đầu tư trong nền kinh tế
37
 Căn cứ vào công cụ tham gia trên thị trường vốn, thị trường vốn được cấu
thành bởi ba bộ phận
Thị trường chứng khoán nhà nước: là thị trường mua bán các loại giấy ghi nợ do


nhà nước phát hành để huy động vốn trong xã hội như công trái, trái phiếu chính phủ,
chứng chỉ đầu tư,…
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp: thị trường này tổ chức mua bán trái phiếu do
các doanh nghiệp phát hành để huy động vốn.
Thị trường cổ phiếu: là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán. Vì cổ
phiếu là loại chứng khoán không có lãi suất thường phục vụ vào hiệu quả hoạt động
công ty, do đó những nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến tình hình hoạt
động của công ty như khủng hoảng giá dầu, giá USD, lạm phát… đều ảnh hưởng đến
giá cả thị trường cổ phiếu
3. Chủ thể tham gia trên thị trường vốn
- Chủ thể phát hành chứng khoán: đây là chủ thể có nhu cầu về vốn đầu tư và
được nhà nước cho phép phát hành chứng khoán để huy động vốn. Họ đại diện cho
nguồn cung ứng chứng khoán vào lưu thông và đó là các công ty, xí nghiệp, các tổ
chức tài chính và nhà nước
- Người đầu tư: đó là những người có vốn nhàn rỗi và họ muốn mua chứng
khoán trên thị trường để kiếm lời, Với mục đích đầu tư lâu dài họ thường nắm giữ
chứng khoán của những công ty có uy tín. Những người đầu tư trên thị trường là những
pháp nhân kinh tế và các thể nhân.
- Người môi giới chứng khoán: Nguyên tắc cơ bản của hoạt động giao dịch trên
thị trường chứng khoán là nguồn cung - cầu chứng khoán thường được kết nối thông
qua tầng lớp trung gian đó là người môi giới chứng khoán. Người môi giới có thể hoạt
động với tư cách là thể nhân hay pháp nhân (công ty môi giới).
37
- Người tổ chức thị trường: là Ban điều hành của các Sở giao dịch giữ nhiệm vụ
tổ chức các khâu hoạt động trên thị trường, là người chuyển tải những luật lệ của Nhà
nước vào thực tiễn quản lý thi trường.
- Người điều hòa thi trường: là cơ quan được Nhà nước thành lập như Ủy ban
điều hành thị trường chứng khoán, Hội đồng chứng khoán Quốc gia giữ nhiệm vụ
ban hành các luật lệ, tổ chức giám sát hoạt động giao dịch và mua bán chứng khoán
trên thị trường.

Ngoài ra, để giúp cho các hệ thống giao dịch trên thị trường chứng khoán đạt hiệu
quả cón có các chủ thể phụ trợ rất quan trọng như:
- Công ty máy tính
- Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán
- Các công ty đánh giá mức tín nhiệm
4. Các công cụ trên thị trường vốn
Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm hai loại chủ yếu là những công cụ vốn
và công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên một năm. Công cụ vốn biểu hiện dưới hình
thức cổ phiếu và các công cụ nợ bao gồm các loại trái phiếu.
a) Cổ phiếu công ty:
- Khái niệm: Là một loại chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán
ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Là một chứng
khoán có giá, có quyền nhận lãi và hoa hồng. Cổ phiếu có thể dùng mua bán và thế
chấp, trở thành một trong những phương tiện tín dụng dài hạn chủ yếu của thị trường
tiền vốn.
- Đặc điểm của cổ phiếu:
+ Có tính quyết sách: Người có cổ phiếu phổ thông có quyền tham gia đại hội
cổ đông, bầu cử ban quản trị tham gia quyết sách quản lý kinh doanh xí nghiệp, quyền
lợi lớn hay nhỏ tuỳ theo số lượng cổ phiếu.
37
+ Có thể đổi tiền mặt: Cổ phiếu có thể chuyển nhượng bất kỳ lúc nào giao
dịch ở thị trường, biến thành tiền giấy.
+ Giá cả và giá trị mặt phiếu không khớp nhau: Cổ phiếu là đối tượng giao
dịch, giống như hàng hoá, có loại giá cả này chịu ảnh hưởng tình hình kinh doanh của
xí nghiệp và chịu ảnh hưởng nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội, luôn luôn thay đổi,
tăng giảm lớn, không khớp với giá trị mặt cổ phiếu. Sự không khớp ấy tạo điều kiện
hoạt động cho người đầu cơ.
+ Rủi ro: Cổ phiếu đã mua không thể trả lại vốn cũ. Người đầu cơ cổ phiếu có
thể nhận được thù lao dự kiến hay không hoàn toàn phụ thuộc vào doanh lợi của xí
nghiệp quyết định, lãi nhiều chia nhiều, lãi ít chia ít, không lãi không chia, cùng chịu

thiệt hại, bị phá sản khó có thể giữ nguyên vốn. Vì vậy, người đầu cơ cổ phiếu thường
chịu rủi ro nhất định.
- Phân loại cổ phiếu :
o Xét theo khả năng chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường thứ cấp:
+ Cổ phiếu kí danh là loại cổ phiếu ghi rõ tên tuổi, địa chỉ. Chúng không được
phép tự do chuyển nhượng và mua bán trên thị trường thứ cấp
+ Cổ phiếu vô danh: là cổ phiếu không ghi rõ tên tuổi, địa chỉ của người nắm
giữ cổ phiếu. Nó có khả năng được chuyển nhượng dễ dàng trên thị trường thứ cấp.
o Xét theo địa vị pháp lý của cổ đông trong công ty:
+ Cổ phiếu ưu đãi là cổ phiếu mà mức lợi tức cổ phần dành cho cổ đông nắm
giữ nó được công bố trước hàng năm hoặc ổn định trong một số năm, lợi nhuận kinh
doanh cuối cùng của công ty không ảnh hưởng đến lợi tức công bố trước
+ Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu mà người nắm giữ nó được hưởng lợi tức
cổ phần phụ thuộc vào kết quả kinh doanh cuối cùng của công ty cổ phần, là người
hưởng lợi sau cùng khi công ty trả hết nợ nần, thanh lý tài sản, trả lợi tức cho cổ đông
ưu đãi,
37
o Xét theo phương thức góp vốn:
Theo cách phân loại này, cổ phiếu có hai loại là cổ phiếu hiện kim và cổ phiếu
hiện vật. Cổ phiếu hiện kim dành cho những cổ đông góp vốn bằng tiền và cổ phiếu
hiện vật dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như máy móc, thiết bị, nhà
xưởng…
b) Trái phiếu :
- Khái niệm: Là một loại chứng khoán có giá là một giấy chứng nhận nợ của
người vay vốn muốn thu góp vốn và đảm bảo trả lãi với lãi suất, thời hạn nhất định, và
trả vốn gốc trong thời hạn nhất định. Trái phiếu thường chỉ loại trái phiếu có thời hạn
trung dài hạn trên một năm.
- Đặc điểm trái phiếu :
+ Có thể trong cùng một điều kiện, một thời gian thu góp số vốn lớn của nhiều
người đầu tư;

+ Sau một thời hạn nhất định trả lại vốn và lãi theo định kỳ;
+ Chủ nợ xem xét tình hình thực tế thị trường tự do chuyển nhượng trái phiếu
của họ.
- Phân loại :
+ Trái phiếu chính phủ : là một công cụ vay nợ trung và dài hạn của chính
phủ, người đứng ra vay nợ là chính phủ với một mục đích huy động vốn nhàn rỗi trong
nền kinh tế để bù đắp thâm hụt ngân sách triền miên đồng thời giúp chính phủ có
nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng Nhìn chung lãi suất của trái phiếu chính phủ là
thấp. Với nhiều kỳ hạn khác nhau, trái phiếu chính phủ có thể có kỳ hạn là 3 tháng, 6
tháng, 9 tháng, 12 tháng, 1 năm đến 2, 3 năm
+ Trái phiếu công ty : là công cụ vay nợ trung, dài hạn của công ty, huy động
vốn cho sản xuất kinh doanh của công ty. Công ty bảo đảm sẽ trả vốn (giá trị
trên mặt phiếu) trái phiếu trong thời hạn nhất định và trả lãi suất trái phiếu theo
37
thời hạn ước định (thời hạn trả lãi) và lãi suất quy định. Có loại trái phiếu được
phát hành thấp hơn giá trị mặt phiếu, còn có thể trả vốn gốc trước thời hạn.
+ Trái phiếu Coupon : tiền lãi của trái phiếu được trả hàng năm, tiền vốn gốc
được trả vào ngày đáo hạn.
+ Trái phiếu triết khấu : là trái phiếu mà ở đó người mua trái phiếu sẽ trả
cho người bán với giá mua thấp hơn mệnh giá nhưng đến ngày đáo hạn người mua
được thanh toán trả lại theo mệnh giá. Khoản chênh lệch đó chính là lãi suất. Như vậy,
đây là hình thức trả lãi trước ngay tại thời điểm mua.
+ Trái phiếu vĩnh cửu : là loại trái phiếu mà ở đó người mua nó không bao
giờ được thanh toán tiền gốc. Nó giống trái phiếu cố định ở điểm : người mua nhận
khoản cố định hàng năm và không nhận được khoản gốc cho đến khi người sở hữu trái
phiếu vĩnh cửu chết đi mà không sang tên hay thừa kế. Vì thế nó có tên là trái phiếu
vĩnh cửu.
5. Vai trò thị trường vốn
Vai trò của thị trường vốn thể hiện ở các yếu tố sau:
Thứ nhất, thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát

triển. Thông qua việc phát hành và mua bán chứng khoán, dòng vốn di chuyển từ nơi
thừa sang nơi thiếu, từ nơi sử dụng kém hiệu quả đến nơi sử dụng có hiệu quả hơn. Thị
trường vốn giúp các doanh nghiệp (DN), tổ chức kinh tế, cá nhân có cơ hội để trở
thành nhà đầu tư thực hiện nghiệp vụ đầu tư, mua bán chứng khoán và các công cụ tài
chính trên thị trường để kiếm lời.
Chính phủ trung ương và địa phương có thể vay nợ các tổ chức, DN, dân cư thông
qua việc phát hành trái phiếu trung và dài hạn, thực hiện các công trình hạ tầng kinh tế
- xã hội, cũng như đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển của trung ương/địa phương.
Thứ hai, thị trường vốn tạo tính thanh khoản cho chứng khoán và các công cụ tài
chính, khi các nhà đầu tư cần tiền. Nhờ đó, họ có thể tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn để
37
hưởng lợi (thường lãi của các chứng khoán và công cụ tài chính cao hơn lãi tiền gửi tiết
kiệm).
Thứ ba, phát triển thị trường vốn để thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là kênh đầu tư hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Với những thông tin công
khai, minh bạch, thị trường vốn là nơi mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể phân tích,
nhận định, đánh giá “sức khỏe” của DN, ngân hàng để đưa ra các quyết định đầu tư
hợp lý.
Thứ tư, thị trường vốn, đặc biệt là thị trường chứng khoán (TTCK) là công cụ
đánh giá hoạt động kinh doanh của DN. Thông qua thị trường vốn, những nhà đầu tư
có cơ sở đánh giá thực trạng và dự đoán tương lai của nền kinh tế. Cơ quan quản lý
thường thông qua thị trường vốn để phân tích, dự báo, ban hành các văn bản pháp lý để
điều tiết và quản lý thị trường một cách hiệu quả.
37
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG VỐN VIỆT NAM
1. Quy mô, đặc điểm của thị trường vốn Việt Nam:
1.1 Quy mô của thị trường vốn Việt Nam:
Trong thị trường vốn, quy mô của thị trường trái phiếu lớn hơn quy mô của thị
trường cổ phiếu, trong đó thị trường trái phiếu chính phủ lớn hơn thị trường trái phiếu
doanh nghiệp và cổ phiếu. Cụ thể:

Bảng số liệu 1: Số liệu cụ thể các năm: giá trị vốn hóa thị trường so với GDP
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
% 0.39 0.55 0.87 14.93 27.52 10.53 21.81 19.15 14.81 23.25
Biểu đồ 1: Giá trị vốn hóa thị trường Việt Nam
Nguồn: ( ,)
Ta có thể thấy năm 2008, giá trị vốn hóa thị trường của nước ta giảm mạnh đột
ngột. Nguyên nhân là do:
 Trong hơn 8 năm hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, chưa bao
giờ mối quan hệ và ảnh hưởng từ thị trường thế giới lại thể hiện sâu sắc như trong năm
2008.
Mối quan hệ trên được đặt trong một bối cảnh đặc biệt, cuộc khủng hoảng tài
chính bùng nổ tại Mỹ, kế tiếp là cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Thị trường chứng
37
khoán thế giới sụt giảm mạnh, ảnh hưởng đến thị trường Việt Nam, thể hiện rõ ở tâm
lý nhà đầu tư trong nước cũng như phản ứng không mong đợi từ khối đầu tư nước
ngoài.
Một ảnh hưởng cụ thể là năm 2008 đã chứng kiến hoạt động bán ròng chưa từng
có của nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm này, thị trường chứng kiến đợt rút vốn mạnh
của khối ngoại trong các tháng 4, 5 và 6, cao điểm rút ra khoảng 300 triệu USD/tháng,
nguyên do chủ yếu từ biến động kinh tế trong nước; và đợt bán ròng hiếm thấy trong
tháng 10, do tác động của khủng hoảng thế giới.
Ở một ảnh hưởng khác, kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng tác động đến nền
kinh tế Việt Nam, đặc biệt là đối với xuất khẩu và đầu tư gián tiếp. Điều này cũng đã
thể hiện ở thị trường chứng khoán Việt Nam trong năm 2008, khi thị trường này
thường phản ánh trước những khó khăn của nền kinh tế.
 Luật thuế thu nhập cá nhân và làn sóng dư luận:
Luật Thuế thu nhập cá nhân bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 nhưng ảnh
hưởng của nó đối với thị trường chứng khoán đã đậm nét trong năm 2008, đặc biệt vào
những tháng cuối năm. Đây là lần đầu tiên thu nhập từ hoạt động đầu tư chứng khoán
được đưa vào diện chịu thuế.

Hàng nghìn ý kiến bình luận, góp ý, đồng thuận, phản đối liên tục được phản ánh
trong nửa cuối năm 2008. Trong đó, nổi bật là sự lo ngại và phản ứng từ nhiều nhà đầu
tư chứng khoán, khi họ đặt chính sách này trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế nói
chung và của thị trường chứng khoán nói riêng.
 Năm 2008 là năm lợi nhuận của nhiều doanh nghiệp niêm yết bị ảnh hưởng
nặng nề từ hoạt động đầu tư tài chính và chi phí tài chính tăng cao. Nhiều doanh nghiệp
buộc phải tăng cường trích lập rủi ro do giá trị danh mục đầu tư tài chính và đầu tư bất
động sản sụt giảm mạnh, dẫn đến thua lỗ hoặc lợi nhuận sụt giảm.
Năm 2008 cũng là một năm bất thường về lạm phát, lãi suất và tỷ giá, đẩy chi phí
tài chính của nhiều doanh nghiệp niêm yết tăng cao. So với cùng kỳ quý 2/2007, có tới
163/209 (78%) doanh nghiệp niêm yết có chi phí tài chính tăng; trong đó có 120/209
doanh nghiệp chi phí tài chính tăng tới trên 50%, 34/108 (31,5%) trong số các doanh
nghiệp sử dụng vốn vay chịu chi phí lãi vay tăng trên 100%.
1.2 Đặc điểm thị trường vốn Việt Nam:
37
a) Thị trường trái phiếu:
- Cơ cấu sản phẩm chưa đồng đều:
Hiện nay, sản phẩm trên thị trường trái phiếu được chủ yếu được chia thành 2
loại là trái phiếu chính phủ (TPCP) và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN). Với vai trò là
kênh huy động vốn trung - dài hạn cho nền kinh tế, tỷ lệ giữa TPCP và TPDN thường
không chênh lệch quá nhiều tại các quốc gia có thị trường tài chính phát triển. Nhưng
tại Việt Nam thì tỷ lệ này có mức chênh lệch khá rõ ràng, phản ánh sự chi phối thị
trường đến từ phân khúc TPCP.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc thị trường TPDN có quy mô nhỏ, chưa
phát triển so với TPCP hay rộng hơn là so với thị trường TPDN của các nước khác.
Các nguyên nhân này đến từ nhiều phía, có thể chia thành 4 nguyên nhân chính:
+ Nguồn cung: sản phẩm TPDN trên thị trường chưa nhiều, chủ yếu do các
doanh nghiệp Nhà nước hay tổ chức tín dụng phát hành, tập trung vào 2 loại hình chính
là trái phiếu thông thường và trái phiếu chuyển đổi (với công ty cổ phần);
+ Cầu đầu tư: cơ sở nhà đầu tư còn thiếu khi nhà đầu tư chủ yếu trên thị

trường trái phiếu hiện nay là các ngân hàng thương mại (NHTM). Các đợt phát hành
trái phiếu cũng thường là phát hành riêng lẻ cho một số nhà đầu tư, ít khi đấu thầu rộng
rãi.
+ Trung gian tài chính: Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức định mức tín
nhiệm (CRA) chuyên nghiệp nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư khi đánh giá về doanh
nghiệp phát hành;
+ Khuôn khổ pháp lý: Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành TPDN ra đời
năm 2011 thay thế cho Nghị định 52/2006/NĐ-CP trước đó mặc dù đã tạo được hành
lang pháp lý thông thoáng hơn cho việc phát hành nhưng vẫn cần tiếp tục hoàn thiện
cho phù hợp với tình hình thực tế
+ Chưa phát hành thành công trái phiếu có kỳ hạn dài:
Thị trường vốn là nơi cung cấp nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.Theo thống
kê trên thị trường quốc tế, kỳ hạn thông thường của trái phiếu là khoảng 3 - 10 năm, cá
biệt có những đợt phát hành với kỳ hạn lên tới 10 - 30 năm. Tuy nhiên, thực tế hiện nay
ở Việt Nam cho thấy thị trường trái phiếu chưa thực sự là kênh huy động vốn dài hạn
cho nền kinh tế mà chủ yếu vẫn là các kỳ hạn ngắn. Mặc dù TPCP và TPDN thường
37
được phát hành với các kỳ hạn từ 2 - 15 năm, song tỷ lệ trúng thầu cao nhất lại là các
trái phiếu có kỳ hạn dưới 5 năm, chiếm khoảng 90% khối lượng phát hành. Điều này
cho thấy các nhà đầu tư trên thị trường hiện nay đa số tập trung vào phân khúc trái
phiếu kỳ hạn ngắn, có thể do lo ngại về bất ổn kinh tế vĩ mô khi vấn đề lạm phát luôn
được đặt lên hàng đầu những năm qua, hoặc do nhà đầu tư chưa coi thị trường trái
phiếu là kênh đầu tư chính.
+ Cơ cấu nhà đầu tư chưa đa dạng:
Khác với cổ phiếu, nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu đa phần là các nhà đầu tư
tổ chức vì khối lượng trái phiếu đấu thầu và giao dịch có giá trị lớn nên nhà đầu tư cá
nhân, nhà đầu tư nhỏ lẻ khó có thể đáp ứng được. Tại các quốc gia phát triển, cơ sở nhà
đầu tư luôn được đa dạng hóa, có sự cân đối giữa các nhóm nhà đầu tư nếu muốn duy
trì lực cầu đều đặn trên thị trường. Các nhà đầu tư chủ chốt trên thị trường trái phiếu
thường là các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, NHTM…

Với thị trường trái phiếu Việt Nam, đã xuất hiện các nhóm nhà đầu tư tổ chức cơ
bản, nhưng mức độ tham gia của các nhà đầu tư này chưa thực sự chuyên nghiệp.
NHTM hiện đang là nhóm nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu Việt Nam khi
nắm giữ khoảng trên 80% lượng TPCP. Trong bối cảnh thị trường tín dụng đang gặp
nhiều khó khăn 2 năm gần đây, nguồn vốn từ NHTM được đầu tư mạnh vào thị trường
trái phiếu, giúp cho các đợt phát hành liên tục thành công. Tuy nhiên, nhu cầu đầu tư
của các ngân hàng lại phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh chính là cho vay, khiến
nguồn vốn này không có tính ổn định, có thể giảm xuống đột ngột bất cứ lúc nào và
không đem lại sự phát triển bền vững như mong muốn cho thị trường.
Công ty bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ được coi là một nhà đầu tư tiềm
năng trên thị trường trái phiếu. Các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường có kỳ hạn dài,
cộng thêm nhu cầu cần phải giữ tỷ lệ an toàn vốn cao, nên các công ty bảo hiểm luôn
có một tỷ lệ nhất định TPCP trong cơ cấu vốn đầu tư của mình.Nhưng vấn đề ở đây là
quy mô thị trường bảo hiểm còn thấp, doanh thu phí bảo hiểm chỉ đạt khoảng 1,4%
GDP vào năm 2012 khiến cho nguồn vốn đầu tư vào thị trường trái phiếu chưa cao.
37
Tổng lượng TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh mà các công ty bảo hiểm
nắm giữ tính đến năm 2012 cũng chỉ khoảng 33.945 tỷ đồng (chiếm khoảng 5% tổng
dư nợ trái phiếu).
Nhóm nhà đầu tư được quan tâm tiếp theo là các quỹ đầu tư. Các quỹ này hiện nắm
giữ khoảng 6 - 7% dư nợ trái phiếu, phân bổ tới những loại hình quỹ khác nhau trong
và ngoài nước. Rào cản lớn nhất ngăn các nhà đầu tư nước ngoài (đầu tư nước ngoài)
tham gia vào thị trường trái phiếu Việt Nam có lẽ là sự hạn chế về mặt sản phẩm, đặc
biệt là sản phẩm phái sinh liên quan đến tỷ giá.
b) Thị trường cổ phiếu:
- Quy mô nhỏ, mức độ minh bạch của các thông tin về Doanh nghiệp thấp.
Nguyên nhân là do ý định chủ quan, thói quen muốn che giấu thông tin của doanh
nghiệp, do sự thiếu vắng khung pháp lý và các chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm
toán tại Việt Nam.
- Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường phi chính thức lớn hơn nhiều

so với thị trường chính thức và chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc bán cổ phiếu trên
thị trường OTC khá sôi động, song hiện chưa có quy định pháp luật nào kiểm soát
thích đáng.
- Thị trường nhỏ, thiếu vắng sự đầu tư của các nhà đầu tư tổ chức. Nhà đầu tư
trên thị trường cổ phiểu Việt Nam chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân và mang tính đầu
cơ cao hơn là đầu tư, do đó thị trường có xu hướng bất ổn định. Những nhà đầu tư tổ
chức Việt Nam cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu
của các công ty niêm yết, một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu
trên thị trường, nhưng cũng một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan
đến khuôn khổ pháp lý. Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền
lợi cổ đông thiểu số chưa đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch
thông tin, các quy định chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ
đầu tư nước ngoài, các hạn chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài,
- Số lượng và chất lượng sản phẩm trên thị trường cổ phiếu có nhiều hạn chế.
Chưa có một lượng hàng hóa đủ lớn về quy mô cũng như cơ cấu nếu so sách mã 600
37
mà chứng khoán niêm yết với đăng ký giao dịch khoảng 4000 công ty đại chúng. Sản
phẩm chưa đa dạng, nhiều công ty niêm yết có quy mô nhỏ.
2. Cách quản lý thị trường vốn ở Việt Nam:
- Về cơ quan quản lý: Ủy ban chứng khoán nhà nước được thành lập để quản lý
và thúc đẩy thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho nhà
đầu tư.
- Về trung tâm giao dịch: Gồm 2 trung tâm là Sở giao dịch chứng khoán
TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội (cả 2 đều thuộc nhà nước). Ngoài ra
còn có sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường OTC.
- Về các tổ chức trung gian: Ở Việt Nam, các ngân hàng chỉ được phép kinh
doanh chứng khoán dưới hình thức thành lập công ty độc lập, tách rời với hoạt động
kinh doanh tiền tệ. Nhà nước cũng cho phép các công ty chứng khoán độc lập thành lập
từ các công ty tài chính, các tổng công ty lớn.
- Về cách thức quản lý: Hiện nay, hình thức quản lý chủ yếu là tập trung thông

qua luật, các quy định có liên quan. Tuy nhiên trên thực tế, có một bộ phận không nhỏ
các giao dịch nằm ngoài thị trường tập trung mà vẫn chưa có quy định, hình thức quản
lý chặt chẽ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường vốn:
- Hành lang pháp lý, chính sách của nhà nước: khi các quy định liên quan đến
thị trường vốn hoặc các sản phẩm trên thị trường vốn, sẽ tác động đến nhu cầu của nhà
đầu tư trên thị trường, tác động đến giá của các sản phẩm trên thị trường vốn. Hoặc khi
chính phủ muốn tăng vay nợ công chúng thì chính phủ sẽ có chính sách thúc đẩy thị
trường vốn.
- Sự phát triển kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Khi nền
kinh tế phát triển, thì thị trường vốn cũng tăng trưởng. Ngược lại, khi có biến động
trong nền kinh tế, sẽ làm cho thị trường vốn trở nên ảm dạm, các nhà đầu tư trở nên lo
ngại và ít giao dịch.
- Tâm lý nhà đầu tư: Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2
nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc
quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi
quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo
37
cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những
đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Hơn
nữa, hiện nay thị trường cổ phiếu Việt Nam chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, do đó
tác động của yếu tố tâm lý càng thể hiện rõ hơn.
- Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh
tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nói chung và thị trường vốn nói
riêng. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh
của DN, chi ngân sách nhà nước, khả năng tăng trưởng của nền kinh tế, do đó cũng sẽ
ảnh hưởng đến thị trường vốn.
- Những thông tin, yếu tố gắn liền với nhà phát hành chứng khoán: Yếu tố về kỹ
thuật sản xuất: trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển ;
yếu tố về thị trường tiêu thụ: khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường ; yếu tố về

con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề nghiệp của công nhân; tình trạng tài
chính của DN sẽ tác động đến giá của chứng khoán, do đó ảnh hưởng đến thị trường
vốn.
- Môi trường kinh tế vĩ mô: mặc dù nền kinh tế Việt Nam hiện nay đã đạt những
bước phát triển đáng kể, song nhìn chung Việt Nam vẫn nằm trong nhóm nước đang
phát triển, thu nhập bình quân đầu người thấp, lạm phát biến động, cơ cấu các ngành
trong nền kinh tế chưa đồng đều, những điều này khiến cho việc thu hút các nhà đầu tư
vào thị trường vốn còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, mục đích của các nhà đầu tư
Việt Nam là đầu cơ, tăng vốn hơn là đầu tư. Vì vậy, thị trường vốn Việt Nam vẫn chưa
thực sự phát triển.
- Ngoài ra còn có các nhân tố khác như lãi suất, tỷ giá hối đoái, lạm phát, lãi
suất:
Tỷ giá hối đoái: Tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến thị trường ngoại hối mà
còn tác động đến thị trường vốn, cụ thể là thị trường trái phiếu. Nếu tỷ giá hối đoái
tăng mạnh sẽ làm các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn khỏi thị trường trái phiếu Việt
Nam.
Lạm phát: sự mất giá đồng tiền làm thay đổi hành vi tiêu dùng và tiết kiệm của
người dân. Khi lạm phát tăng cao, làm đồng tiền mất giá, kéo theo lãi suất tiết kiệm
37
tăng cao, nhà đầu tư sẽ phân vân giữa việc đầu tư vào chứng khoán dài hạn hay gửi tiết
kiệm.
Lãi suất: lãi suất có tác động trực tiếp đến giá của trái phiếu, cổ phiếu, do đó nó
có tác động đến thị trường vốn. Cụ thể: khi lãi suất tăng cao thì các dòng tiền chiết
khấu với trái phiếu sẽ nhỏ, dẫn đến giá chứng khoán giảm, thúc đẩy các nhà đầu tư
mua chứng khoán.
4. Thực trạng thị trường vốn Việt Nam:
a) Thị trường trái phiếu:
Thị trường trái phiếu bao gồm các loại trái phiếu: trái phiếu chính phủ, trái phiếu
dược chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương, và trái phiếu doanh
nghiệp.

Trái phiếu là một công cụ nợ, chức năng chính của tất cả các loại trái phiếu là
giúp nhà phát hành huy động vốn. Tuy nhiên riêng với trái phiếu chính phủ, đây là một
công cụ vô cùng quan trọng cho chính sách tiền tệ quốc gia. Hầu hết các ngân hàng
trung ương trên đều điều hành chính sách tiền tệ bằng cách mua bán trái phiếu chính
phủ để tác động vào mặt bằng lãi suất trên thị trường tài chính. Trái phiếu chính phủ
thường được cho là không rủi ro (risk free). Bên cạnh đó trái phiếu chính phủ còn được
sử dụng như một công cụ thế chấp phổ biến cho các giao dịch giữa các định chế tài
chính tư nhân nên loại trái phiếu này còn có chức năng tạo điều kiện cho dòng vốn luân
chuyển dễ dàng hơn. Thị trường trái phiếu chính phủ bên cạnh mục đích huy động vốn
cho hoạt động đầu tư và chi tiêu công còn để phục vụ cho các chính sách kinh tế tài
chính khác.
Từ năm 2006 cho đến nay, thị trường trái phiếu (TTTP) Việt Nam đã có những
chuyển biến tích cực. Tính đến tháng 9/2013, dư nợ trên toàn thị trường đạt 18,4% ước
tính GDP năm 2013, tăng khoảng 4 lần so với năm 2006.
Trong giai đoạn từ năm 2006 đến tháng 9/2013, dư nợ TTTP chiếm từ 14,23%
đến trên 18% GDP. Tại thời điểm 30/9/2013, dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ
37
(TPCP) là 406.950 tỷ đồng gồm TTTP được Chính phủ bảo lãnh là 163.553 tỷ đồng,
TTTP DN là 96.895 tỷ đồng, TTTP chính quyền địa phương là 12.389 tỷ đồng.
Đối với TTTP được Chính phủ bảo lãnh, trong giai đoạn 2006 - 2012 có mức tăng
trưởng mạnh nhất là 408,6%, theo đó là thị trường TPCP tăng trưởng 193,9%, thị
trường TPDN tăng trưởng 127% và TTTP chính quyền địa phương tăng trưởng 92,4%.
Có được sự tăng trưởng trên, một phần quan trọng là Bộ Tài chính đã thực hiện điều
hành lãi suất phát hành phù hợp với lãi suất của thị trường. Cụ thể, lãi suất phát hành
TPCP đã giảm từ 3,1% đến 6,0% đối với các kỳ hạn dưới 10 năm, giảm 2,2% đối với
kỳ hạn 10 năm. Phương thức phát hành TPCP đã chuyển dịch dần từ bảo lãnh sang đấu
thầu. Trước năm 2010, TPCP được phát hành chủ yếu qua phương thức bảo lãnh
(chiếm trên 80% khối lượng phát hành). Từ năm 2011 đến nay, TPCP được phát hành
chủ yếu bằng phương thức đấu thầu (chiếm đến 95% khối lượng phát hành).
TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh chưa có chuyển biến, vẫn tập trung

chủ yếu vào các ngân hàng thương mại (chiếm đến 86,7% khối lượng trái phiếu đang
niêm yết). TTTP trong nước vẫn chưa thực sự thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài
(chiếm 13,33% khối lượng trái phiếu đang niêm yết).
Đối với trái phiếu chính quyền địa phương, giai đoạn 2003 - 2011, trên quy mô
toàn quốc, có 3 tỉnh/ thành phố là Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát hành đạt
15.697 tỷ đồng. Tính đến 31/12/2012, dư nợ trái phiếu chính quyền địa phương đạt
9.125 tỷ đồng, tương đương khoảng 0,31% GDP 2012. Tính đến 30/9/2013, dư nợ trái
phiếu chính quyền địa phương đạt 12.389 tỷ đồng.
37
(Bảng 2: Quy mô TTTP - Nguồn: />truong-trai-phieu-Viet-Nam-va-dinh-huong-phat-trien/38303.tctc ,)
Trong giai đoạn 2010 - 2013, TTTP đã phát triển mạnh mẽ trên thị trường sơ cấp
và thị trường thứ cấp do từ năm 2000 đến nay, khung pháp lý về phát hành trái phiếu
đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thị
trường. Trong năm 2012, Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư quy định đầy đủ quy
trình, thủ tục phát hành, đăng ký, lưu ký và niêm yết các loại trái phiếu theo quy định
tại Nghị định số 01/2011/NĐ-CP, hướng tới các thông lệ của thị trường quốc tế. Đặc
biệt là việc niêm yết và giao dịch tín phiếu Kho bạc Nhà nước (KBNN) tại Sở Giao
dịch Chứng khoán Hà Nội.
b) Thị trường cổ phiếu
 Giai đoạn năm 2006 – 2007
TTCK ở nước ta cuối năm 2006 đầu năm 2007 thực sự được các nhà đầu tư hay
giới đánh giá gọi là thời kì bùng nổ. Trong giai đoạn này, những điều kiện kinh tế
37
chính trị tích cực của quốc gia như: VIệt Nam chuẩn bị giai nhập WTO, tổ chức thành
công hội nghị APEC làm cho Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư. Cuối năm 2006, thị
trường chứng khoán tăng trưởng ngoạn mục, VnIndex tăng từ 305 điểm vào cuối năm
2005 lên 751 điểm cuối năm 2006, chỉ số VN Index bằng 246% so với chỉ số Vnindex
2005.
Tại trung tâm giao dịch Hà nội, HaSTC chỉ số HaSTC Index tăng từ 95 điểm vào
cuối năm 2005 lên 258 điểm, tăng 2.7 lần trong năm 2006. Số lượng công ty giao dịch

trên sàn Hà nội cũng tăng từ 6 công ty lên 87 công ty cuối năm 2006Mặc dù trong năm
2007, TTCK Việt Nam diễn biến bất thường, trồi sụt khác nhau, tăng tột đỉnh trong
tháng 3 và giảm mạnh trong tháng 8/2007. Cũng tính đến hết năm 2007, tổng số vốn
hoá toàn TTCK Việt Nam chiếm 39,4% GDP, so với mức 22,7% cuối năm 2006, có
tổng số 250 doanh nghiệp niêm yết cổ phiếu trên thị trường chính thức.
(Biểu đồ 2: Biến động chỉ số VNI năm 2006-2007 – Nguồn:
/> Giai đoạn năm 2008
37
Thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2006-2007 phát triển với tốc
độ nhanh chóng mặt xếp nhất nhì thế giới thì sang năm 2008 cũng đứng đầu về tốc độ
suy giảm. Từ tháng 2/2008 thị trường chứng khoán bắt đầu chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
hoạt động sử dụng đòn bẩy quá lớn trong năm 2007. Và 16/09/2008 khi truyền thông
trong nước bắt đầu ồ ạt đăng tin Lehman Brother phá sản kết hợp với thị trường quốc
tế giảm mạnh. VN-Index mở đầu phiên giao dịch năm 2008 đạt 921,07 điểm. Ngày
29/12/2008, Vn-Index đang ở mức 308 điểm, bằng 1/3 so với đầu năm., Vn-Index đã
có lúc rơi xuống 286,85 điểm vào ngày 10/12. Trong khi đó, Hastc-Index trong năm
nay mức thấp nhất là 97,61 điểm vào ngày 27/11/2008. Trước đó, vào ngày 28/10, chỉ
số này đã có lúc xuống 98,87 điểm xong ngay lập tức các nhà đầu tư mua vào khiến chỉ
số này lại vượt qua vạch 100 điểm.
Cuối năm 2007, vốn hóa thị trường là 30 tỷ USD. Hết năm 2008, giá trị vốn hóa
thị trường hiện chỉ còn 13 tỷ USD. Vn-Index mất gần 70% giá trị. Năm 2008, UBCK
Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh biên độ chứng khoán
Lần 1 - 27/03/2008: Giảm biên độ dao động từ 5% xuống 1% đối với HOSE và
10% xuống 2% đối với Hastc.
Lần 2 – 07/04/2008: Nới biên độ thêm 1% - Hose 2% và Hastc 3%.
Lần 3 – 19/06: Tiếp tục nới biên độ HoSE lên 3% - Hastc lên 4%.
Lần 4 – 18/08/2008: Giảm biên độ HoSE còn 5% - nới biên độ Hastc lên 7%
37
(Biểu đồ 3: Diễn biến TTCK Việt Nam 2008 – Nguồn : />khoan/ttck-viet-nam-2008-hy-vong-de-roi-that-vong-20081231074939367ca31.chn)
 Giai đoạn năm 2009

Những tháng cuối năm 2008 do Chính phủ đã có nhiều điều chỉnh, thi hành chính
sách tiền tệ thắt chặt, dù kinh tế gặp nhiều khó khăn nhưng là một năm đánh dấu bước
phát triển mạnh mẽ của TTCK Việt Nam. Sự dao động của TTCK trong năm 2009 có
quan hệ khá chặt chẽ với chính sách tiền tệ và dòng tiền đổ vào thị trường. Cả hai chỉ
số VN-Index và HNX-Index đã phục hồi mạnh trên 50%. Số lượng công ty mới niêm
yết tăng vọt, trong đó nhiều doanh nghiệp lớn được niêm yết trên sàn. Trung tâm giao
dịch chứng khoán Hà Nội chuyển đổi thành sở giao dịch chứng khoán. Thành lập thêm
sàn UPCoM cho những công ty đại chúng đăng ký giao dịch.
Trên sàn HOSE, chỉ số VN-Index đã tăng 57% trong năm 2009, từ mức 315.62
điểm vào ngày 31/12/08 lên mức 494.77 điểm vào ngày 31/12/09. So với mức đáy
235.5 điểm vào ngày 24/02, VN-Index đã tăng 110%. Tính thanh khoản của thị trường
tăng mạnh không chỉ do lượng cổ phiếu niêm yết tăng mà còn do dòng tiền đã đổ vào
thị trường một cách mạnh mẽ trong giai đoạn này. Nguyên nhân:
37
+ Sự phục hồi của thị trường vào tháng 6 gắn liền với các chính sách kích cầu
của chính phủ. Gói hỗ trợ lãi suất làm dư nợ tăng lên nhanh chóng, khuyến khích người
tiêu dùng vay tiền.
+ Sự kiện NHNN tuyên bố mạnh mẽ trong việc kiểm soát tăng trưởng tín dụng.
Nhiều NHTM vượt trần tăng trưởng tín dụng bị “tuýt còi”. Trùng khớp với tuyên bố
này là sự sụt giảm của VN – Index. Từ mức đỉnh 512 điểm vào tháng 6, VN-Index
giảm xuống còn 412.88 điểm vào 20/7. Vào ngày 20/10, VN- Index từ mức 421.88 lên
mức 624.1 điểm, xuất phát từ việc tăng trưởng tín dụng quá mức. Thêm vào đó, các
ngân hàng và công ty chứng khoán cũng khuyến khích nhà đầu tư thực hiện các nghiệp
vụ repo và thế chấp chứng khoán.
Tuy nhiên những hoạt động siết chặt tín dụng của NHNN và hạn chế cung tiền
qua thị trường mở làm thị trường giảm xuống từ 624.1 vào này 20/10 đến mức 434.87
vào ngày 12/11 (gần bằng mức đáy hồi tháng 7).
(Biểu đồ 4: Diễn biến TTCK Việt Nam 2009 – Nguồn :
/>141287.htm)
Trên sàn HNX, chỉ số HNX-Index tăng 60.97% so trong năm nay, so với mức

thấp nhất trong năm HNX-Index tăng 115.43%. Tính thanh khoản trên HNX cũng tăng
mạnh trong năm 2009.
 Giai đoạn năm 2010
37
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2010 gồm 4 giai đoạn chính:
(Biểu đồ 5: Diễn biến TTCK Việt Nam 2010 – Nguồn :
/>Giai đoạn từ đầu năm đến 22/01/2010: Từ mức đỉnh 543.46 điểm đạt được vào
ngày 07/01, VN-Index lùi sâu về mức 477.59 điểm vào ngày 22/01.Thị trường biến
động do lo ngại về lạm phát khiến Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn thận trọng trong
chính sách tiền tệ.
Giai đoạn từ 23/01 đến 06/05/2010: Giai đoạn tăng điểm này mang nhiều dấu ấn
của việc sử dụng đòn bẩy tài chính. Thị trường phục hồi lên 549.51 điểm vào ngày
06/05/2010, mức cao nhất trong năm 2010. Trong hơn 3 tháng, chỉ số VN-Index cũng
chỉ tăng được 15.1% so với mức đáy thiết lập vào ngày 22/01/2010.
Giai đoạn sụt giảm từ 07/05 đến 25/08/2010: Do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng nợ công châu Âu, áp lực từ Thông tư 13 của NHNN, thông tin Chính phủ quyết
định tái cơ cấu tập đoàn công nghiệp tàu thủy Vinashin là những nguyên nhân chính
khiến thị trường điều chỉnh. Bên cạnh đó, hoạt động đầu cơ lên mức cao khiến tâm lý
nhà đầu tư đã tỏ ra e dè và đẩy thị trường ngày càng giảm sâu. Ngoài ra, lo ngại về áp
lực thoái vốn ở một số quỹ đầu tư nước ngoài đã khiến cho tâm lý nhà đầu tư càng trở
37
nên bi quan. Sau giai đoạn tăng nóng, VN-Index điều chỉnh 22.9% xuống 423.89 điểm,
mức thấp nhất trong năm 2010.
Giai đoạn đi ngang và bắt đầu xu hướng phục hồi cuối năm: Chứng khoán thế
giới vẫn tiếp tục phục hồi trong giai đoạn này. Trong khi đó, tâm lý nhà đầu tư trong
nước khá thận trọng trước sự kiện Vinashin và chính sách tiền tệ. Xu thế đi ngang của
thị trường chấm dứt vào cuối tháng 11 với dòng tiền, bao gồm cả việc sử dụng đòn bẩy
tài chính, bắt đầu quay trở lại và đã giúp thị trường phục hồi khá mạnh. Các yếu tố kinh
tế vĩ mô như lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá căng thẳng,… vẫn còn tồn tại và tiếp
tục đè nặng lên tâm lý nhà đầu tư trong năm 2011.

 Giai đoạn năm 2011
Năm 2011 là một năm khó khăn của nền kinh tế Việt Nam và thế giới, nó đã tác
động tiêu cực đến TTCK Việt Nam theo đó. Trong cả năm, thị trường chỉ có được
hiếm hoi hai đợt phục hồi ngắn vào cuối tháng 5 và khoảng giữa tháng 8, toàn bộ
khoảng thời gian còn lại thị trường chủ yếu đi xuống. Chốt phiên ngày 30/12/2011, VN
Index và HNX Index lần lượt đóng cửa ở 351,55 và 58,74 điểm, như vậy so với đầu
năm 2011 sàn Hồ Chí Minh đã giảm mạnh 27,46% còn sàn Hà Nội lao dốc đến hơn
48,6%. Thanh khoản của TTCK cũng giảm mạnh, so với con số của năm 2010 thì giá
trị trung bình của mỗi phiên giao dịch của mỗi sàn đều sụt giảm mạnh đến xấp xỉ 60%.
Phần các công ty chứng khoán (CTCK) gặp khó khăn và chịu thua lỗ trong năm
2011: sự sụt giảm cả về điểm số lẫn giá trị giao dịch của TTCK Việt Nam thì, theo
thống kê chưa đầy đủ, trong năm 2011, số lượng công ty chứng khoán chịu thua lỗ
chiếm ưu thế áp đảo. Trong số hiếm hoi những công ty có lợi nhuận thì các khoản này
chủ yếu đến từ mảng kinh doanh khác ngoài dịch vụ môi giới cũng như tự doanh.
37
Các CTCK không kiểm soát chặc chẽ quy trình nội bộ và quản lý rủi ro, dẫn đến
thời điểm thanh toán không chuyển đủ tiền thanh toán vào tài khoản. Với hơn 100
CTCK hoạt động trong thị trường diễn biến ảm đạm, thị phần của từng công ty bị thu
hẹp lại, hoạt động môi giới, tư vấn trở nên khó khăn hơn rất nhiều.
(Biểu đồ 6: Diễn biến TTCK Việt Nam 2011 – Nguồn :
/>Tính đến thời điểm hiện tại có khoảng 105 CTCK đang hoạt động thì hơn 80%
con số này phải đối diện với Báo cáo tài chính lợi nhuận âm khi doanh thu sụt giảm
trong khi chi phí lại đội cao lên. 1.400 tỷ đồng là số tiền mà 18/27 CTCK niêm yết ghi
lỗ trong 09 tháng đầu năm 2011. Để tiếp tục tồn tại, một số công ty đã phải cắt giảm
nhân sự thậm chí là bỏ một số nghiệp vụ, trong đó có môi giới cụ thể như trường hợp
của CTCK SME, chứng khoán Gia Anh, chứng khoán Đông Dương, chứng khoán Hà
Nội…và lấn sân sang lĩnh vực bất động sản như CTCK Kim Long (KLS), CTCK Sài
Gòn (SSI)….hoặc chuyển tiền gửi tiết kiệm ngân hàng.
Việc phải đối mặt với lạm phát cao khiến chi phí đầu vào tăng mạnh thì việc tiếp
cận vốn vay cũng không dễ dàng khi mặt bằng lãi suất liên tục ở mức cao. Sự suy

37
giảm của TTCK kéo theo hơn 50% số cổ phiếu niêm yết có thị giá rơi xuống dưới
mệnh giá (10.000 đồng) và thấp hơn nhiều so với giá trị ghi sổ của doanh nghiệp.
 Giai đoạn năm 2012:
Những giai đoạn chính của thị trường chứng khoán năm 2012:
- Giai đoạn 1 ( 03/01 – 10/05/2012): Tăng trưởng mạnh
- Giai đoạn 2 (11/05 - 30/11/2012): Điều chỉnh sâu
(Biểu đồ 7: Diễn biến TTCK Việt Nam 2012 – Nguồn :
h ttp://www. vietinbankschool .edu.vn/home/edu/vn/news/school/taichinhnganhang/chungkhoan/2012/20
121229.htm l)
Chỉ trong vòng 5 tháng đầu năm với việc tăng tới 40% của VN-Index và HNX-
Index tăng 44% so với cuối năm 2011, thị trường chứng khoán nước ta lại trở thành
một trong những thị trường có mức tăng ấn tượng trên thế giới
Mặc dù thị trường có mức tăng ấn tượng do sự hỗ trợ của các thông tin vĩ mô tích
cực, tuy nhiên, sang đến tháng 6/2012, khi những bất ổn kinh tế phát sinh, niềm tin của
giới đầu tư bị lung lay mạnh, chứng khoán Việt Nam rơi vào giai đoạn khó khăn, nổi
bật là trong tháng 8/2012, sự kiện “ACB” đã gây ra sự hoảng loạn trên diện rộng, cổ
phiếu ngành ngân hàng trên thị trường lao dốc không phanh, tạo ra làn sóng bán ồ ạt,
khiến thị trường rơi vào suy giảm . Chỉ trong vòng 6 ngày sau biến cố, chỉ số giá chứng

×