Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của học sinh lứa tuổi mầm non tại một số xã, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.02 KB, 63 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TR- ỜNG ĐẠI HỌC S- PHẠM HÀ NỘI 2
— ca
ĐÀO THỊ THANH VÂN
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ CHỈ số THỂ Lực VÀ TRÍ TUỆ
CỦA TRẺ EM LỨA TUỎI MAM NON TẠI MỘT SỐ XÃ,
HUYỆN KIẾN X- ƠNG, TỈNH THÁI BÌNH
LUẬN VÃN THẠC Sĩ SINH HỌC
HÀ NỘI - 2010
ĐÀ
O
TH

TH
AN
H

N
SIN
H
HỌ
C
TH
ỰC
NG
HI
ỆM
200
8-
201
0
1


LỜI CẢM ƠN
Đê hoàn thành luận vãn tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
PGS. TS Trần Thị Loan, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình
nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô của Khoa Sinh - KTNN, Phòng Sau đại
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình
học tập và thực hiện luận vãn.
Tôi xỉn chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các cô giáo của các trường mầm non ở
xã Bình Thanh và xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thải Bình cùng các cản bộ
nhân viên của Trạm Y tế xã Bình Thanh, trạm Y tế xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái Bình đã giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 10 năm 2010
rr
£_
____ • 2
Tác gia
Đào Thị Thanh Vân
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả, các
so liệu nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công
trình nào khác.
rp
r
_ ___•
2.
2
Tác gia Đào Thi Thanh Vân
3
MỤC LỤC
Trang

PHỤ LỤC
NHỮNG CHỮ VIÉT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BMI Body mass index (Chỉ số khối cơ thể)
CDC National Center for Chronic Disease Prevention and
Health Promotion (Trung tâm quốc gia phòng bệnh mạn tính
và tăng cường sức khỏe) cs Cộng sự
FAO Food and Agriculture Organization (Tố chức Nông
lương thế giới)
GTSH Giá trị sinh học người Việt Nam
HSSH Hằng số sinh học của người Việt Nam
IQ Intelligence Quotient (Chỉ số thông minh)
Nxb Nhà xuất bản
UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization (To chức giáo dục, khoa học và văn hóa Liên
họp quốc)
WHO World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH

MỞ ĐÀU
1. Lý do chon đề tài
Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em là một trong những nhiệm vụ hàng đầu
4
trong chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước ta. Muốn thực hiện
tốt nhiệm vụ này, cần nắm vũng các đặc điểm về thể lực, trí tuệ và tâm sinh lý của
trẻ. Vì vậy, nghiên cứu các chỉ số thể lực và trí tuệ của trẻ em luôn có ý nghĩa
quan trọng.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy các chỉ số thể lực, trí tuệ của con
người có thể thay đổi và phụ thuộc vào các kỳ điều tra, điều kiện kinh tế xã hội và
môi trường tự nhiên [12], [23], [44], [58], [63], [67], [71], [74], [75]. Do đó, các

chỉ số thể lực, trí tuệ của con người nói chung, của trẻ em nói riêng cần được tiến
hành nghiên cún thường xuyên và có sự tống kết trong một khoảng thời gian nhất
định.
Đến nay, đã có một số tác giả nghiên cứu về thể lực, chức năng sinh lý, năng
lực trí tuệ của người Việt Nam [6], [10], [20], [23], [24], [28], [34], [40], [43],
Tuy nhiên, những nghiên cún trên đối tượng trẻ em lứa tuổi mầm non còn ít và
chủ yêu là nghiên cún vê chức năng sinh lý, tình trạng dinh dưỡng. Việc nghiên
cứu các chỉ số thể lực, sinh lý và trí tuệ ở trẻ em lứa tuổi mầm non là cần thiết. Nó
cung cấp dẫn liệu cho công tác nuôi dạy trẻ em ở bậc học mầm non, cũng như tạo
cơ sở khoa học để đề xuất các biện pháp hữu hiệu nhằm phát triển thế hệ tương lai
của đất nước một cách tốt nhất.
Kiến Xương là một huyện thuần nông của tỉnh Thái Bình. Trong những năm
gần đây, mức sống của người dân đã được nâng cao, nhưng ở một số xã, đời sống
của người dân vẫn còn nhiều khó khăn. Đen nay, chưa có một đề tài nào nghiên
cún về thể lực, trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non của huyện để có thế dựa vào đó
đề ra biện pháp góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và chăm sóc sức
khỏe cho trẻ em ở địa bàn này.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu môt
số chỉ số thể lưc và trí tuê của trẻ em lứa tuồi mầm non tai môt số xã,
5
• • • « • ’ huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được một số chỉ số về thể lực và trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm
non.
3. Nhiệm vụ nghiên cún
- Nghiên cứu một số chỉ số về thể lực của trẻ em lứa tuổi mầm non (chiều
cao đứng, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, chỉ số pignet, chỉ số khối cơ thể
(BMI)).
- Nghiên cứu một số chỉ số về chức năng của một số hệ cơ quan của trẻ em
lứa tuổi mầm non (tần số tim, tần số thở).

- Nghiên cứu chỉ số thông minh (IQ) và các mức trí tuệ của trẻ em lứa tuổi
mầm non.
- Nghiên cứu khả năng ghi nhớ của trẻ em lứa tuổi mầm non (trí nhớ thị giác
ngắn hạn, trí nhớ thính giác ngắn hạn).
- Nghiên cún môi liên quân giữâ một sô chỉ sô nghiên cứu củã trẻ em lứa
tuổi mầm non.
4. Đối tưọ’ng và phạm vi nghiên cún
- Đối tượng nghiên cứu là trẻ em lứa tuổi mầm non của xã Bình Thanh và xã
Hồng Tiến thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Đối tượng được
nghiên cứu ở trạng thái khoẻ mạnh, tâm sinh lý bình thường, không có dị
tật về hình thể hoặc các bệnh mạn tính.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số chỉ số về thể lực, về chức năng
của một số hệ cơ quan, về năng lực trí tuệ, khả năng ghi nhớ và mối liên
quan giữa một số chỉ số nghiên cún của trẻ em lứa tuổi mầm non ở xã Bình
Thanh và xã Hồng Tiến, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
6
5. Phương pháp nghiên cứu
+ Các chỉ số: chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, tần số tim, tần số
thở được xác định theo các phương pháp hiện hành.
+ Các chỉ số pignet, BMI được tính theo công thức:
Pignet = chiều cao đứng (cm) - [cân nặng (kg) + vòng ngực(cm)]
BMI = cân nặng (kg) / [chiều cao đứng (m)]
2
+ Năng lực trí tuệ được xác định bàng test Ravent màu dùng cho trẻ em từ 6
tuổi trở xuống.
+ Trí nhớ được xác định bằng phương pháp Nechaiev.
Ket quả nghiên cún được phân tích và xử lý trên máy vi tính bằng chương
trình Microsoft Excel.
6. Những đóng góp mói của đề tài
- Là đề tài đầu tiên xác định được một số chỉ số về thể lực và

tuệ của
trẻ em lứa tuổi mầm non tại xã Bình Thanh và xã Hồng Tiến của huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình.
- Bước đầu nghiên cứu mối liên quan giữa một số chỉ số nghiên cứu ở trẻ em
lứa tuôi mâm non.
- Ket quả trong luận văn có thể góp phần vào việc bổ sung số liệu cho hướng
nghiên cứu về thế lực, sinh lý, trí tuệ của trẻ em lứa tuối mầm non, cung
cấp dẫn liệu cho quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học và là dẫn liệu
cho công tác nuôi dạy trẻ em mầm non được tốt hơn.
NỘI DƯNG CHƯƠNG L TỔNG
QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát các gỉaỉ đoạn phát triển của trẻ em lứa tuốỉ mầm non
7
Mỗi giai đoạn phát triển cá thể của con người có những đặc điểm riêng về
mặt cấu tạo và chức năng. Chính các đặc điểm này đã xác định sự khác nhau trong
quá trình phát triến giữa các lứa tuối [36], [42].
Hiện nay có nhiều cách phân chia các thời kỳ phát triển cá thể của con
người. Các tác giả như Tạ Thúy Lan, Trần Thị Loan [36], Đức Minh và một số tác
giả khác (theo [42]) chấp nhận cách phân chia của Viện Hàn Lâm sư phạm Liên
Xô, vì nhận thấy cách phân chia này phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của người
Việt Nam và có thể ứng dụng trong hệ thống giáo dục trẻ em Việt Nam. Theo các
tác giả, thì lứa tuổi mầm non gồm hai giai đoạn: giai đoạn từ 1 đến 3 tuổi (giai
đoạn tuổi thơ sớm hay tuổi vườn trẻ) và giai đoạn từ
3 đến 6 tuổi (giai đoạn tuổi thơ đầu hay tuổi mẫu giáo). Ở mỗi giai đoạn, sự
phát triển của trẻ em có những đặc điểm riêng.
Đặc điểm nổi bật của trẻ em từ lđến 3 tuổi là sự phát triển và hoàn chỉnh hoá
các hệ cơ quan trong cơ thể, đặc biệt là hệ thần kinh. Trẻ em trong giai đoạn này
được làm quen với nhiều loại thức ăn và đồ vật khác nhau của môi trường. Ket
quả của sự tiếp xúc đa dạng đó không chỉ dẫn tới nhũng thay đối về mặt hình thái
thể lực mà cả sự phát triển trí tuệ cũng thay đổi [36].

Đặc điểm của trẻ em từ 3 đến 6 tuổi là chiều cao và khối lượng cơ thể phát
triển chậm hơn giai đoạn trước. Tốc độ tăng vòng đầu và vòng ngực cũng chậm
hơn [36]. về hoạt động tư duy, theo Piaget, quá trình phát triển của trẻ em ở giai
đoạn từ 2 đến 6 tuổi có thể phân thành ba pha: tư duy lặp lại
- hình thành các khái niệm tư duy - hình thành các khái niệm phân lập [54].
Tóm lại, chức năng sinh học và xã hội cơ bản của trẻ em lứa tuổi mầm non là
sinh trưởng và phát triển [36].
8
1.2. Đặc điểm về thể lực và chức năng của một số hệ cơ quan của trẻ
em lứa tuổi mầm non
1.2.1. Các chỉ số về thể lực của trẻ em lứa tuổi mầm non
Thể lực là một chỉ tiêu dùng đế đánh giá sức khoẻ, tầm vóc, sự tăng trưởng,
phát triển và khả năng học tập, lao động của con người [63]. Đe đánh giá sự phát
triển thể lực, người ta thường dùng các chỉ số về hình thái như chiều cao, cân
nặng, vòng ngực, vòng đầu Trong đó, ba chỉ số cơ bản là chiều cao đúng, cân
nặng và vòng ngực đóng vai trò quan trọng nhất. Từ các chỉ số cơ bản này, người
ta có thể suy ra các chỉ số tổng hợp khác như chỉ số pignet, BMI [36], [42], [66].
Chiều cao của cơ thể là dấu hiệu được nhận xét sớm nhất trong hầu hết các
lĩnh vực ứng dụng của nhân trắc học. Chiều cao của mỗi người được quyết định
bởi đặc điếm di truyền, giới tính và chịu ảnh hưởng nhất định của điều kiện sống
[2], [10], [12], [36], [42], [48], [63], [74].
Ở trẻ em lứa tuổi mầm non, chiều cao phát triển rất nhanh, nhất là trong
những năm đầu. Chiều cao của các em tăng trung bình 7cm/năm ở giai đoạn từ 1
dên 3 tuôi, và tăng trurĩg bình 6 cm/ĩĩăm từ 3 đêiĩ 6 tuôi [4], [7], [36].
Đe theo dõi sự tăng trưởng về chiều cao ở trẻ em, có thể áp dụng công thức
tính gần đúng chiều cao trung bình cho trẻ em trên một tuối [36], [72].
X (cm) = 75 + 5.n
Trong đó: X - chiều cao đứng (cm); n - số tuổi (năm); 75 - chiều cao trẻ 1
năm; 5 - chiều cao tăng trung bình/năm.
Cùng với chiều cao, cân nặng cũng được coi là một chỉ số quan trọng để

đánh giá sự phát triển của cơ thể. Cân nặng biểu thị mức độ và tỷ lệ giữa hấp thụ
với tiêu hao năng lượng của con người. So với chiều cao, cân nặng của cơ thế ít
phụ thuộc vào yếu tố di truyền hơn mà có liên quan chủ yếu tới điều kiện dinh
dưỡng [2], [12], [19], [27], [48]
9
Thông thường ở cùng một lứa tuổi, những trẻ em cao hon thường nặng cân
hơn. Trong vòng ba năm đầu, khối lượng cơ thế của các em tăng rất nhanh. Từ 3
đến 6 tuổi, khối lượng cơ thể của các em tăng chậm hơn, tăng trung bình 1,5
kg/năm, nhưng tốc độ tăng tương đối đồng đều [4], [36].
Cân nặng của trẻ em trên một tuổi có thể tính gần đúng như sau:
X (kg) = 9 + 1,5 (n - 1) hay X = 9,5 + 2(n -1)
Trong đó: X - cân nặng của trẻ trên một tuổi (kg); 9 - cân nặng của trẻ lúc
một tuổi (kg); n - số tuổi của trẻ (năm).
Vòng ngực và vòng đầu của trẻ em cũng là những chỉ số có ý nghĩa khi đánh
giá sự phát triển cơ thể. Vòng ngực và vòng đầu của trẻ em đều tăng nhanh ở giai
đoạn từ 1 đến 3 tuổi, và tăng chậm hơn ở giai đoạn từ 3 đến 6 tuổi. Vòng ngực
nhỏ hon vòng đầu lúc 1 tuổi, sau đó đuổi kịp và cao hơn [3].
Từ các chỉ số chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực có thể tính thêm được
chỉ số pignet, BMI của cơ thể. BMI được dùng để đánh giá mức độ gầy hay béo
của một người [78], [80]. Từ chỉ số pignet, có thể đánh giá thể lực theo thang phân
loại của Nguyễn Quang Quyền và cs [56], (theo [83]).
Từ 1 den 6 tuôi, chiêu Cãỡ củâ trẻ êm tăng nhanh, còn cân nặiĩg và vồng
ngực tăng chậm hơn, nên chỉ số pignet của trẻ em ở giai đoạn này tăng dần. Từ
năm tháng tuổi đến 6 tuối, BMI của trẻ em giảm dần, do ở giai đoạn này tốc độ
tăng chiều cao của trẻ em nhanh hơn so với tốc độ tăng khối lượng cơ thể [36].
1.2.2. Các chỉ số về chức năng của hệ tuần hoàn, hệ hô hấp của trẻ em
lứa tuổi mầm non
1.2.2.1. Tẩn số tim của trẻ em lứa tuốỉ mầm non
Hệ tuần hoàn có chức năng cơ bản là cung cấp oxi và chất dinh dưỡng cho
toàn bộ hoạt động của cơ thế. Tim có chức năng vừa hút máu vừa đấy máu, là

động cơ chính của hệ tuần hoàn. Công suất của tim phụ thuộc vào tần số tim và
1
0
thể tích co tim. Vì vậy, tần số tim là một trong các chỉ số quan trọng để đánh giá
hoạt động của hệ tuần hoàn [41], [42], [45], (theo [83]).
Tần số tim là số lần tim co bóp trong một phút. Tần số tim có thể thay đối và
phụ thuộc vào các trạng thái tâm sinh lý khác nhau [36], [46], [62]. Tần số tim của
trẻ em cao hơn nhiều so với của người trưởng thành. Trong quá trình phát triển cá
thể của trẻ em, tần số tim giảm dần theo tuổi. Tốc độ giảm tần số tim của trẻ em
không đều. Ở cùng một độ tuoi, tần số tim của nam và của nữ khác nhau. Tần số
tim của trẻ em dễ thay đổi khi khóc, sốt, sợ hãi, gắng sức [3], [36], [52].
1.2.2.2. Tân sô thở của trẻ em lứa tuôỉ mầm non
Cơ thể luôn cần trao đổi khí với môi trường bên ngoài. Việc đổi mới không
khí trong phổi được thực hiện qua động tác thở nhờ cử động của các cơ hô hấp với
sự luân phiên nhịp nhàng giữa động tác hít vào và thở ra. Mỗi lần thở ra và hít vào
được gọi là một nhịp thở [36], [83].
Số lần thở trong một phút gọi là tần số thở. Tần số thở phụ thuộc vào kích
thước của cơ thể, lứa tuổi, trạng thái tâm sinh lý và khí hậu [36], [62]. Tân sô thở
củâ trẻ em giảm dân thêõ tuồi. Một so tài liệu chõ thây, lúc 1 tuồi tần số thở của
trẻ là 30 - 35 nhịp/phút, giảm xuống còn 25 - 30 nhịp/phút lúc 3 tuổi và 20 - 25
nhịp/phút lúc 6 tuổi [3], [4], [18], [36], [52]. Tần số thở của trẻ em vào mùa hè cao
hơn vào mùa đông khoảng 2-6 nhịp/phút. Do trung khu hô hấp chưa phát triển
hoàn chỉnh nên tần số thở của trẻ em hay bị rối loạn, có lúc thở nhanh, có lúc thở
chậm, lúc thở nông, lúc thở sâu. Tần số thở của trẻ em cao hơn của người lớn.
Dưới 2 tuổi, trẻ em nam thở nhanh hơn trẻ em nữ [36], [52].
1.3. Đặc điểm về trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non
Trí tuệ là khả năng hoạt động trí óc đặc trưng của con người. Theo tiếng
Latinh, trí tuệ (Intellectus) có nghĩa là hiểu biết, thông tuệ [51]. Theo từ điển tiếng
Việt [73], trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định. Tựu
1

1
chung lại có ba khuynh hướng chính quan niệm về trí tuệ [51].
Khuynh hướng thứ nhất coi trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực học tập
của cá nhân. B.G. Ananhev cho rằng, trí tuệ là một đặc điểm tâm lý phức tạp của
con người mà kết quả của công việc và học tập phụ thuộc vào nó. Theo J. Huarte,
thì trí tuệ là tập hợp các khả năng lĩnh hội tri thức, phán xét, đánh giá và sáng tạo
(theo [60]). Khuynh hướng thứ hai coi trí tuệ là năng lực tư duy trùn tượng.
Terman cho ràng, chức năng của trí tuệ là sử dụng có hiệu quả các khái niệm.
Menchins kaia lại coi đặc trưng của trí tuệ là sự tích luỹ các tri thức và các thao
tác trí tuệ [31], (theo [60]). Khuynh hướng thứ ba coi trí tuệ là năng lực thích ứng.
Đại diện cho khuynh hướng này là R. Stem (theo [60]). Ồng coi trí tuệ là năng lực
thích ứng chung của con người với điều kiện và nhiệm vụ mới trong đời sống.
Theo ông, trí tuệ là năng lực suy luận và khả năng sáng tạo trên cơ sở kết hợp
những kinh nghiệm khác nhau để giải quyết vấn đề mới.
Ngoài ra, còn có nhiều thuật ngữ khác dùng để mô tả năng lực trí tuệ như:
trí khôn, trí lực, trí thông minh, trí năng nhưng chúng đêu xuât phát từ chữ tiếng
Anh là intelligence [11], [26]. Rõ ràng là không có một khái niệm nào chứa đựng
hết bản chất của các hiện tượng phức tạp như trí tuệ.
Theo J. Piaget [54] thì sự phát sinh, phát triển của trí tuệ cá nhân chịu ảnh
hưởng của bốn yếu tố. Thứ nhất là sự tăng trưởng của cơ thể, đặc biệt là sự chín
muồi của hệ thần kinh và nội tiết. Thứ hai là vai trò của sự tập luyện và kinh
nghiệm thu được thông qua hoạt động của đối tượng. Thứ ba là sự tương tác và
chuyển giao xã hội. Thứ tư là tính chủ thể và phối hợp chung các hành động cá
nhân.
Đe đánh giá trí tuệ của con người, có nhiều phương pháp như: quan sát, điều
tra, trắc nghiệm, tìm hiểu biến đổi điện - hoá trong hệ thần kinh và cơ thể [30],
[61]. Phương pháp phổ biến hiện nay là dựa vào trắc nghiệm tâm lý. Trong đó trắc
1
2
nghiệm khả năng trí tuệ được dùng phố biến hơn cả. Mục đích của các trắc

nghiệm trí tuệ là xác định chỉ số thông minh, mức trí tuệ
Năm 1912, W. Stem đã đưa ra cách tính chỉ số thông minh (Intelligence
Quotient) viết tắt là IQ, bằng thương số giữa tuổi trí tuệ (MA - Mental Age) và
tuổi thực (CA - Chrorological Age) (theo [60]).
ỈQ = MA
X
100 CA
Trong đó: MA - tuổi trí khôn được tính theo kết quả bài trắc nghiệm; CA -
tuổi thời gian tính theo ngày tháng năm sinh.
D. Wechsler (theo [60]) lại cho rằng, sự phát triển trí tuệ diễn ra trong suốt
đời người một cách không đồng đều nên một đại lượng như cách tính của Stern
không thế đánh giá được sự phát triển của trí tuệ. Ông đưa ra khái niệm IQ bằng
công thức sau:
IQ =
x

~

x

x\5+\00 SD
Trong đó: X - điểm trắc nghiệm cá nhân; X - điểm trắc nghiệm trung bình
trong cùng một độ tuổi; SD - độ lệch chuẩn.
Dựa trên chỉ số IQ, D.Wechsler phân thành 7 mức trí tuệ khác nhau [77].
Đe tính được chỉ số IQ, người ta thường sử dụng các loại test khác nhau như
test “trí tuệ đa dạng”, test “hình phức hợp Rey”, .(theo [42]). Một trong số đó là
test Raven. Test Raven được xây dựng trên cơ sở thuyết tri giác hình thể của Tâm
lý học Gestal và thuyết tân phát sinh của spearman [21]. Sau hai lần chuẩn hóa
vào những năm 1954 và 1956, test Raven đã được UNESCO công nhận và chính
thức đưa vào sử dụng để chấn đoán trí tuệ con người từ những năm 1960 [76].

Trí tuệ của mỗi người đều là sự kết hợp hữu cơ của trí tuệ ngôn ngữ, tư duy
vận động thân thế, tư duy logic toán học, trí tuệ không gian, trí tuệ âm nhạc, trí tuệ
giao tiếp Trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non cũng không nằm ngoài quy luật đó
1
3
[79].
Đặc điểm chủ yếu về tư duy của trẻ em từ 12 - 18 tháng tuổi là tư duy được
thực hiện qua các thao tác. Bằng cách tác động trực tiếp với đồ vật, trẻ dần tìm ra
được các thuộc tính đơn giản của đồ vật. Từ 2 - 3 tuổi, song song với sự phát triển
về thể chất, sự tập trung của trẻ cũng phát triển nhanh. Ba tuổi, trẻ đã có khả năng
tổng họp các tính chất của vật thế mà trẻ nắm được, đồng thời có thể sử dụng các
vật thể đó để thực hiện các trò chơi theo trí tưởng tượng [79].
Từ 4 - 5 tuổi, trẻ đã có thể tìm ra đặc điểm, thuộc tính của đồ vật bằng những
phép thử, phép so sánh trong óc. Trẻ còn biết sử dụng các hệ thống kí hiệu khác
nhau, như kí hiệu về đồ vật, hành động, kí hiệu về con người. Trẻ cũng có thể xếp
các đồ vật từ nhỏ nhất đến to nhất, ngắn nhất đến dài nhất .Sáu tuổi, ở trẻ đã hình
thành tư duy sơ đồ và tư duy logic. Từ việc học thông qua quan sát và kinh
nghiệm, trẻ đã có thể chuyển sang học bằng ngôn ngữ và logic. Trẻ có khái niệm
về thời gian và các ngày trong tuần, khái niệm vê Cõiĩ sô, không giãn, hình dáng,
mâu săc. Tuy nhiên, khả năng chú ý củã trẻ 6 tuổi vẫn là chú ý ngắn hạn, trong
khoảng 15 phút là nhiều nhất [79].
Một trong các điều kiện cần thiết đế phát huy trí tuệ là khả năng ghi nhớ.
Có nhiều cách hiểu về trí nhớ. Theo nhiều tác giả, nhớ là sự tiếp nhận, gìn giữ và
tái hiện những sự vật, hiện tượng mà con người đã cảm giác, đã suy nghĩ, tưởng
tượng ra. Trí nhớ phản ánh những sự vật, những hiện tượng trước đây đã tác động
vào cơ thể mà hiện tại không cần sự tác động đó nữa [32], [33], [36]. Trí nhớ được
xem như là một bước chuyển tiếp từ nhận thức cảm tính lên nhận thức lí tính vì
trong quá trình nhớ, não đã thực hiện việc khái quát hoá các hình ảnh đã cảm giác,
tri giác trước đây thành các biếu tượng [13].
Căn cứ vào thời gian tồn tại của trí nhớ, người ta phân biệt hai loại trí nhớ

là trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn. Trí nhớ ngắn hạn là sự lưu thông hưng phấn
1
4
trong các vùng nơron, chỉ tồn tại trong vòng vài giây hoặc một phút sau khi tiếp
nhận một sự kiện hay hiện tượng nào đó. Trí nhớ dài hạn tồn tại trên cơ sở sự hình
thành các prôtêin hoạt hoá vùng xinap, có khả năng lưu giữ hình ảnh trong vòng
nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm [33].
về cơ chế nhớ, có nhiều quan điếm khác nhau. Theo Anôkhin, trí nhớ là
một hệ thống chức năng phức tạp. Cùng quan điểm với Anôkhin, Luria cho rằng,
trí nhớ được thực hiện bằng sự phối hợp hoạt động của cả một loạt các vùng trên
vỏ não, mỗi vùng giữ một nhiệm vụ chuyên biệt [15]. Theo Pavlov, cơ sở sinh lý
của trí nhớ là sự hình thành, lưu giữ và tái hiện lại những đường liên hệ thần kinh
tạm thời. Hyden lại cho rằng, cơ sở của trí nhớ là sự thay đối trong cấu trúc phân
tử của axit ribonucleic. Còn theo Conell và Jacobson, thì trí nhớ có liên quan đến
lượng axit deoxyribonucleic [33]. Cơ chế của sự lưu giữ thông tin ngày càng được
nghiên cứu sâu hơn. Tuy nhiên, chưa có một cơ chế lý thuyết thống nhất về cơ chế
của trí nhớ.
Trẻ sỡ sinh chưa có trí nhớ, đên cuôi tháng thứ sáu, trẻ mới băt đâu tái nhận
lại. Trẻ một tuổi có thể tái nhận lại sự vật hiện tượng sau vài ngày. Đen hai tuổi,
trẻ không những tái nhận lại sự vật, hiện tượng diễn ra sau vài tuần mà còn nhớ
được những gì mới xảy ra trong vài ngày. Ở lứa tuổi này trẻ mới chỉ có trí nhớ
không chủ định, nghĩa là trẻ chưa đặt ra cho mình mục đích, chưa có kế hoạch nhớ
những điều cần ghi nhớ mà thường chỉ nhớ những ấn tượng riêng biệt, những ấn
tượng đượm màu sắc xúc cảm (theo [14], [59]).
Trong lứa tuổi mẫu giáo các quá trình ghi nhớ của trẻ em tiếp tục phát triển
và hoàn thiện. Trẻ tham gia vào các hoạt động phức tạp hơn, đòi hỏi phải nhớ
được luật chơi, nội dung chơi hoặc kế lại được câu chuyện, thuộc thơ .nên ở trẻ
đã bắt đầu xuất hiện trí nhớ có chủ định (theo [14], [59]).
1
5

1.4. Những nghiên cứu về các chỉ số thế lực và trí tuệ
1.4.1. Những nghiên cứu về các chỉ số thể lực
Năm 1919, nhà nhân trắc học người Đức, Rudoll Martin đã đề xuất một hệ
thống các dụng cụ và phương pháp đo đế xác định kích thước của cơ thể. Từ đó
đến nay, phương pháp Martin tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện về cả lý thuyết và
thực tiễn (theo [20]).
Năm 1964, trong cuốn “Nhân trắc học”, F. Vaneler Rael đã đưa ra những
nhận xét toàn diện về các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề
nghiệp và xây dựng thang phân loại thể lực của con người theo các chỉ số đánh
giá thể lực (theo [28]).
Tại hội nghị lần thứ bảy toàn Liên Xô về vấn đề sinh thái, sinh lý và hình
thái lứa tuổi, B.A. Nhikitic và v.p. Tresov đã công bố sơ đồ phát triển cá thể sau
khi sinh của con người. Sơ đồ cho biết khá chi tiết về sự tăng trưởng phát triển
của con người ở mỗi giai đoạn và đã được áp dụng rộng rãi trong nhân trắc học,
giáo dục học, nhi khoa (theo [28]).
Ở Việt Nam, những công trình nghiên cứu đầu tiên về thể lực con người là
của một số tác giả Mõĩĩdiêrê (1875), Huârd, Bõgỡt (1938) và Đỗ Xuân Hợp
(1943) (theo [42]). Sau năm 1954, đã có nhiều tác giả tiến hành nghiên cứu các
đặc điếm hình thái, giải phẫu, sinh lý của người Việt Nam. Năm 1975, cuốn
“Hằng số sinh học của người Việt Nam” do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ
biên được xuất bản. Đây là một công trình khá hoàn chỉnh về các chỉ số sinh học,
sinh lý, sinh hóa của người Việt Nam [68]. Năm 1976 - 1980, Vũ Thị Chín nghiên
cứu về các chỉ số phát triển sinh lý, tâm lý của trẻ em tù'
0 đến 3 tuổi và đã xây dựng được biểu đồ phát triển về chiều cao, cân nặng
của trẻ [5].
Năm 1980, 1982, 1987, Đoàn Yên và cộng sự (cs) [74] nghiên cứu một số
1
6
chỉ số sinh học của người Việt Nam từ 3 đến 110 tuổi. Phân tích kết quả nghiên
cún, các tác giả nhận thấy chiều cao và cân nặng trung bình của người Việt Nam

thấp hơn của người Âu, Mỹ ở mọi lứa tuổi.
Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp và cs [10] đã nghiên cứu chiều cao, vòng
đầu, vòng ngực, chỉ số dài chi dưới trên 8000 người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở
ba miền Bắc - Trung - Nam. Các tác giả nhận thấy có quy luật gia tăng về chiều
cao của người Việt Nam, tăng 4 cm/20 năm.
Năm 1993, Nghiêm Xuân Thăng [58] đã tiến hành nghiên cứu 17 chỉ số hình
thái của người Việt Nam tù' 1 - 25 tuổi ở Nghệ Tĩnh. Ket quả nghiên cún cho thấy,
các chỉ số về chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu của cư dân Nghệ Tĩnh
phần lớn thấp hon so với các chỉ số này của dân cư vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tác
giả còn nhận thấy, có sự khác biệt về các chỉ số hình thái thể lực theo giới tính.
Theo tác giả, điều kiện sống đã ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển các chỉ
số hình thái của con người.
Trong hai năm 1995 - 1996, Hàn Nguyệt Kim Chi và cs nghiên cứu trên
10339 trẻ em từ 1 - 36 tháng tuổi và 11985 trẻ em từ 37 - 72 tháng tuổi tại Hà Nội,
Hà Tây, Hà Bắc, Ninh Bình, Nam Hà. Kết quả cho thấy từ 5 đến 72 tháng tuồi,
mức tăng chiêu Câõ nhanh hơn sỡ với mức tăng cân nặng [4].
Từ năm 1998 - 2002, Trần Thị Loan [39], [42] nghiên cứu trên trẻ em Hà
Nội từ 6 - 17 tuối cho thấy, các chỉ số chiều cao, cân nặng của trẻ em lớn hơn so
với các kết quả nghiên cứu của các tác giả từ những thập kỷ 80 trở về trước và so
với trẻ em Thái Bình, Hà Tây cùng thời điểm nghiên cứu. Điều này chứng tỏ, điều
kiện sống đã có ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển các chỉ số hình thái của
trẻ em.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về các chỉ số thể lực trên người Việt
Nam khá phong phú. Các công trình có ít nhiều khác nhau nhưng cùng xác định
1
7
được hình thái thế lực phụ thuộc vào điều kiện sống, địa bàn nghiên cứu, thời gian
nghiên cứu và có sự biến đổi theo lứa tuổi, theo giới tính.
1.4.2. Những nghiên cứu về các chỉ số chức nãng của một số hệ cơ
quan

1.4.2.1. Những nghiên cứu về tần số tim
Năm 1993, Đoàn Yên và cs [74] nghiên cứu tần số tim của người Việt Nam
cho thấy, sau khi sinh, tần số tim biến đổi có tính chất chu kỳ. Tần số tim giảm
dần đến tuổi 25 và ổn định đến 69 tuổi.
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý của
người Nghệ Tĩnh cho thấy, tần số tim chịu sự tác động của môi trường sống, đặc
biệt là tác động của khí hậu. Tần số tim biến đổi theo ngày, mùa và phụ thuộc vào
mức độ bức xạ. Ngoài ra, chỉ số này còn chịu sự chi phối của các yếu tố khác như
lao động, trạng thái tâm lý
Nghiên cứu của Trần Thị Loan ở học sinh [41], [42] cho thấy tần số tim
giảm dần theo tuổi, sự biến đổi nhịp tim của nam và của nữ khác nhau.
Nguyễn Thị Thúy Hằng khảo sát sự biến đối huyết áp, tần số tim, điện tim
qua nghiệm pháp gắng sức trên các vận động viên trình độ cao ở thành phố Huế
cho thấy, việc rèn luyện thể chất có ý nghĩa rất lớn đối với chức năng của hệ tim -
mạch [17].
Nhiều công trình nghiên cứu khác chõ thấy, tần số tim thây đối thêõ tuối và
theo trạng thái chức năng của cơ thể. Những thay đổi này có liên quan đến sự
giảm hoạt động của nút xoang và giảm ảnh hưởng của dây thần kinh ngoài tim
[50], [62], [66].
Nhìn chung, tần số tim đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đạt được những
kết quả nhất định, nhưng nghiên cứu chưa nhiều ở trẻ em lứa tuổi mầm non.
1.4.2.2. Những nghiên cứu về tần số thở
1
8
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu một số chỉ số chức năng sinh lý của
người Nghệ Tĩnh cho thấy, khí hậu có ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, trong đó
tần số thở và dung tích sống chịu ảnh hưởng nhiều nhất của khí hậu.
Vương Thị Hòa [20] nghiên cún trên trẻ em từ sơ sinh đến 4 tuổi ở một số
xã vùng nông thôn của tỉnh Thái Bình nhận thấy, mức chênh lệch giữa tần số thở
của trẻ em nam và của trẻ em nữ không đáng kể. Dưới 3 tuổi, tần số thở của trẻ

em nam cao hơn của trẻ em nữ.
Nhìn chung, những nghiên cứu về chức năng hô hấp của người Việt Nam
khá phổ biến, nhưng chủ yếu là trên đối tượng người trưởng thành với các chỉ tiêu
phân áp các chất khí trong máu, khuếch tán khí, chỉ tiêu chức năng thông khí phổi
như dung tích sống, dung tích sống thở mạnh, thể tích khí lưu thông, thể tích khí
cặn [8], [22], [25], [49], [66], [70], ít thấy những nghiên cứu về tần số thở.
1,4.3. Nhũng nghiên cúĩí về trí tuệ
Mở đầu cho những nghiên cứu đầy đủ, khoa học về trí tuệ là những nghiên
cứu theo thuyết liên tưởng về tư duy, đại diện là các nhà triết học Anh như o.
Ghatli, D.s. Miler, H. Spencer [37].
Ở Việt Nam, từ những năm 80 trở lại đây, các công trình nghiên cứu về trí
tuệ ngày càng nhiều. Trần Trọng Thủy là người đầu tiên nghiên cứu sự phát triêiì
trí tuệ củã học sinh Việt Nâm. Kêt quả nghiên cứu chõ thây, chiêu hướng, cường
độ và chất lượng phát triển trí tuệ của học sinh qua các lứa tuổi khác nhau [59].
Năm 1996, Tạ Thúy Lan và Trần Thị Loan đã nghiên cứu đánh giá sự phát
triển trí tuệ của học sinh thành phố và học sinh nông thôn. Ket quả nghiên cứu cho
thấy, học sinh thành phố có mức trí tuệ cao hơn học sinh nông thôn [35], [38].
Năm 2002, Trần Thị Loan nghiên cứu trí tuệ của học sinh từ 6 - 17 tuổi ở
quận Cầu Giấy - Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, quá trình phát triển trí tuệ
của học sinh diễn ra liên tục, tương đối đồng đều và không có sự khác biệt về giới
1
9
tính [42].
Lê Minh Hà [14] sử dụng test Ra ven màu nghiên cứu mức độ phát triển trí
tuệ của trẻ mẫu giáo từ 5 - 6 tuổi ở Hà Nội và Yên Bái cho thấy, điểm test Raven
trung bình xấp xỉ bằng điểm chuẩn, mức độ phát triển trí tuệ của trẻ mẫu giáo ở
Hà Nội cao hơn của trẻ ở Yên Bái.
Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu một số chỉ số thể lực và năng lực trí
tuệ của sinh viên một số trường đại học ở phía Bắc Việt Nam cho thấy, năng lực
trí tuệ có mối tương quan không chặt chẽ với các chỉ số thể lực [23].

Như vậy, trí tuệ và mối tương quan giữa năng lực trí tuệ với các chỉ số sinh
học đã được nhiều tác giả nghiên cứu và đạt được những kết quả nhất định, nhưng
chủ yếu mới được tiến hành ở học sinh, sinh viên, ít thấy nghiên cứu ở trẻ em lứa
tuổi mầm non.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu về trí tuệ, các tác giả còn nghiên cứu
về các chỉ số có liên quan với trí tuệ như trí nhớ. Trên thế giới, có rất nhiều tác giả
nghiên cứu về vấn đề này như L.x. Vưgotxki, A.N. Leonchiev, A.A. Smirnov,
P.M. Xêtrênov [15]. Ớ Việt Nam cũng có nhiều tác giả nghiên cứu về trí nhớ
[34], [35], [38], [40], [42], [55], [57], [59]
Trân Trọng Thuỷ và cs nghiên cứu trí nhớ của trẻ em trung hộc ở thành phố
Hà Nội, Hồ Chí Minh, Huế và tỉnh Hoà Bình nhận thấy, khả năng ghi nhớ thính
giác ngắn hạn của trẻ em Việt Nam thuộc loại khá và tương đối đồng đều, không
có sự khác biệt giữa trẻ em nam và nữ nhưng có sự khác biệt giữa trẻ em thành thị
và nông thôn [59].
Nghiêm Xuân Thăng [58] nghiên cứu khả năng ghi nhớ của học sinh và sinh
viên Nghệ Tĩnh cho thấy, khả năng ghi nhớ của đối tượng nghiên cún biến đổi
theo sự biến động của nhiệt độ, độ ẩm, cường độ bức xạ và đối lưu không khí của
môi trường.
2
0
Trịnh Văn Bảo và cs (theo [42]) nghiên cứu khả năng ghi nhớ của học sinh
lóp 6, trường Năng khiếu Marie - Curie và trường Phổ thông cơ sở Tô
Hoàng (Hà Nội) nhận thấy, trí nhớ của nhóm học sinh trường năng khiếu tốt hơn
của nhóm học sinh bình thường.
Trần Thị Loan [42] nghiên cứu trí nhớ của học sinh từ 6 - 17 tuổi tại quận
Cầu Giấy - Hà Nội cho thấy, khả năng ghi nhớ ngắn hạn của học sinh tăng dần
theo tuổi, nhưng tốc độ tăng không đều và không có sự khác biệt về khả năng ghi
nhớ của trẻ em theo giới tính. Từ 6 đến 11 tuối, khả năng ghi nhớ của cả nam và
nữ đều tăng nhanh, nhanh nhất là lúc 9 - 1 1 tuổi.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về thể lực, sinh lý và trí tuệ của

người Việt Nam khá phong phú, nhưng chủ yếu là ở học sinh, sinh viên, thanh
niên. Ở trẻ em lứa tuổi mầm non, các nghiên cún mới chỉ được tiến hành về các
chỉ số hình thái như chiều cao, cân nặng, vòng đầu, vòng ngực hay chức năng của
một số hệ cơ quan. Còn các công trình nghiên cứu về trí tuệ và mối tương quan
giữa năng lực trí tuệ với một số chỉ số sinh học khác của trẻ em lứa tuổi này chưa
nhiều. Việc nghiên cứu một số chỉ số thể lực và trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm
non là cần thiết. Nó góp phần xây dựng các chỉ số sinh học người Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, bổ sung số liệu cho hướng nghiên cứu vê thê lực, trí tuệ củâ trẻ
em, đôiĩg thời là dân liệu chõ quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học ở các
trường Đại học, Cao đẳng, Trung học sư phạm mầm non và là dẫn liệu cho công
tác nuôi dạy trẻ em mầm non được tốt hơn.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu 2.1. Đối
tương nghiên cửu
Đối tượng nghiên cứu là trẻ em lứa tuối mầm non của xã Bình Thanh và xã
Hồng Tiến thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; gồm 6 nhóm với 6 độ tuối
2
1
khác nhau, từ 1 đến 6 tuối.
Bình Thanh và Hồng Tiến là hai xã thuần nông nên đời sống kinh tế của
người dân còn khó khăn. Sự đầu tư cho chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em còn
hạn chế. Phần lớn trẻ em ở diện nghiên cứu đi học ở trường mầm non. Điều kiện
phục vụ cho học tập, sinh hoạt, vui chơi của trẻ chưa tốt như ở thành phố, thị trấn.
Nhưng nhà trường thực hiện đúng chế độ sinh hoạt quy định trong một ngày của
trẻ, kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ em của người dân cũng dần được nâng cao,
nên đã có tác động tốt đến sự phát triển của trẻ.
Đối tượng được nghiên cứu ở trạng thái khoẻ mạnh, không có dị tật về hình
thể hoặc các bệnh mạn tính. Tuổi của các đối tượng nghiên cứu được tính theo
quy ước chung của tổ chức Y tế thế giới (theo [9]).
Tống số đối tượng được nghiên cún là 781 trẻ em, trong đó có 394 trẻ em
nam và 387 trẻ em nữ. Phân bô các đôi tượng được nghiên cứu theo tuôi và theo

giới tính được thể hiện qua bảng 2.1.
Bảng 2.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu
Tuổi Đối tượng nghiên cứu
Tổng số Hồng Tiến Bình Thanh
Chung Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
1 126 63 63 31 32 32 31
2 134 67 67 34 34 33 33
3 137 67 70 33 34 34 33
4 128 68 60 34 30 34 30
5 134 68 66 34 33 34 33
6 122 61 61 30 31 31 30
Tằng
số
781 394 387 190 199 204 188
2.2. Phương pháp nghiên cún
2.2.1. Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu
Mầu nghiên cứu được chọn bằng cách bắt thăm ngẫu nhiên để chọn hai xã
2
2
thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Chúng tôi sử dụng phương pháp chọn
mẫu cỡ lớn dựa vào công thức:
n = s
2
.t
2
/d
2
Trong đó: n - số cá thể của mẫu cần lấy; s - độ lệch chuẩn tính theo % của
giá trị trung bình (SD); t - trị số của tương ứng với độ tin cậy chọn trước kết quả;
d - sai số cho phép của trị số trung bình chọn trước.

Chọn sai số cho phép của kết quả nghiên cứu là ± 5% của trị số trung bình,
độ tin cậy của kết quả là 99% thì t = 2,58; SD = 10% và cỡ mẫu cần chọn là:
n= 10
2
X 2,58
2
/5
2
= 27 Theo cách tính cỡ mẫu trên,
chúng tôi chọn cỡ mẫu để nghiên cứu trong công trình này có số cá thể của mỗi
nhóm là từ 30 trở lên (bảng 2.1).
2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ số
2.2.2.1. Các chỉ sô được nghiên cứu
- Các chỉ số về thể lực: Chiều cao, cân nặng, vòng ngực, vòng đầu, chỉ số
pignet, BMI.
- Các chi số về chức năng của một số hệ cơ quan: Tần số tim, tần số thở.
- Các chỉ số về trí tuệ: Chỉ số IQ và mức trí tuệ.
- Các chỉ số về trí nhớ: Điếm trí nhớ thị giác và điếm trí nhớ thính giác.
2.2.2.2. Phương pháp nghiên cứu các chỉ sô về thê lực
- Chiều cao đứng
+ Trẻ em từ 1 - 2 tuổi được đo ở tư thế nằm ngửa trên bàn đo. Khi đo, để
đầu trẻ áp sát vào tấm ván đính vuông góc với bàn đo, chân trẻ duỗi thẳng, đầu
gối không cong lên, đặt thước đến gót chân của trẻ và đọc số đo.
+ Trẻ em trên 2 tuổi đo ở tư thế đứng thẳng trên nền phẳng, hai gót chân áp
sát nhau, mắt nhìn thẳng, đồng thời đảm bảo 4 điểm chẩm, lưng, mông, gót chạm
vào thước đo. Thước đo bằng polyme có vạch chia độ chính xác đến 0,1 cm do
2
3
Trung tâm thiết bị trường học, Bộ Giáo dục và Đào tạo sản xuất.
- Cân nặng được xác định bằng cân y học Trung Quốc, có vạch chia đến 0,1

kg. Đo xa bữa ăn. Khi đo, đối tượng chỉ mặc quần áo mỏng, không mang
giày dép. Đối tượng đứng yên ở vị trí giữa bàn cân, hai bàn chân sát nhau.
- Vòng ngực được đo bằng thước dây quấn quanh ngực qua mũi ức, dưới
núm vú sao cho mặt phang của thước dây tạo ra song song với mặt đất. Đối
tượng ở tư thế đứng thẳng. Thước dây không co dãn và có vạch chia độ
chính xác đến 0,1 cm.
- Vòng đầu được đo bằng thước dây vòng quanh đầu, phía trước dây nằm
trên cung lông mày, phía sau qua ụ chấm đế lấy kích thước tối đa. Đối
tượng ở tư thế đứng thẳng. Thước dây không co dãn và có vạch chia độ
chính xác đến 0,1 cm.
- Chỉ số pignet được tính theo công thức:
Pigriẽt = Chiêu Câỡ đứng (cm) - [Cân nặng (kg) 4- Vồng ngực (cm)]
So sánh chỉ số pignet của trẻ với chỉ số pignet theo thang phân loại của
Nguyễn Quang Quyền và cs [56], (theo [83]) để đánh giá thể lực.
Bảng 2.2. Phân loại chỉ số pignet
Số TT Chỉ số pignet Loại
1 < 23,0 Cực khỏe
2 23,0 - 28,9 Rất khoe
3 29,0 - 34,9 Khỏe
4 35,0-41,0 Trung bình
5 41,1 -47,0
yếu
6 47,1 - 53,0 Rất yếu
7 > 53,0 Cực yếu
- BMI được tính theo công thức:
BMI = Cân nặng (kg) / [Chiều cao đứng (m)]
2
Căn cứ vào
2
4

BMI, tuổi và giới tính của trẻ em từ 2 - 6 tuổi, xác định điểm tương ứng
trên biểu đồ BMI riêng cho nam và nữ từ 2 đến 20 tuổi của Trung tâm
quốc gia phòng bệnh mạn tính và tăng cường sức khỏe (National Center
for Chronic Disease Prevention and Health Promotion), gọi tắt là CDC,
của Mỹ (phụ lục 1 và 2) để so sánh và đánh giá mức độ gầy béo của cơ
thể [81], [82].
Bảng 2.3. Phân loại BMI đối với nam từ 2 - 6 tuổi
ũ
ơ
i
Ơ
Q
3
N>
Tuổi
Bách
phân vị
Phân
loại
2 3 4 5 6
< 14,8 < 14,4 < 14,0 < 13,9 < 13,8 Dưới 5
Suy dinh
dưỡng
14,8- 18,2 14,4 - 17,4
£
0
1
13,9- 16,8 13,8- 17,0 Từ 5 -
85
Bình

thường
18,2- 19,4 17,4- 18,3
©
1
00
16,8- 17,9 17- 18,4 Từ 85 -
95
Nguy có
béo phì
>19,4 > 18,3 > 17,8 > 17,9 > 18,4 Trên 95 Béo phì
Bảng 2.4. Phân loại BMI đối với nữ tù' 2 - 6 tuổi
C
ũ

M

Q
3
N)
Tuổi
Bách
phân vị
Phân
loại
2 3 4 5 6
< 14,4 < 14,0 < 13,7 < 13,5 < 13,4 Dưới 5
Suy dinh
dưỡng
14,4- 18,0 14,0- 17,2 13,7- 16,8 13,5- 16,8 13,4- 17,0 Từ 5 -
85

Bình
thường
18,0- 19,1 17,2- 18,3 16,8- 18,0 16,8- 18,2 17,0- 18,8 Từ 85 -
95
Nguy có
béo phì
> 19,1 > 18,3 > 18,0 > 18,2 > 18,8 Trên 95 Béo phì
Với trẻ em 1 tuổi, căn cứ vào tháng tuổi và cân nặng, xác định điểm
2
5

×