Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Chính sách kinh tế mới và sự vận dụng trong công cuộc đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.22 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
KHOA LỊCH SỬ
MÔN CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA
Đề tài:
CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI VÀ SỰ
VẬN DỤNG VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM
GVHD: TS. Lê Phụng Hoàng
SVTH: Trương Thị Phương Loan
MSSV: K38.602.061
MỤC LỤC
I.Hoàn cảnh ra đời và nội dung của chính sách Kinh tế mới
1. Hoàn cảnh ra đời của NEP
1.1. Tình hình kinh tế
1.2. Tình hình chính trị-xã hội
2. Nội dung của NEP
2.1. Thay

thế Chính sách trưng thu lương thực thừa bằng Chính sách thuế
lương thực.
2.2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
2.3. Mở rộng thị trường, phát triển thương nghiệp
2.4. Sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
II. V ậ n dụ n g N EP v à o V i ệt N a m
1. Đặc điểm nền kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam
2. Quá trình vận dụng NEP vào Việt Nam
3. Những giải pháp trong việc vận dụng NEP vào Việt Nam
III. N h ậ n x é t
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Hoàn cảnh ra đời và nội dung của Chính sách kinh tế mới (NEP)
1. Hoàn cảnh ra đời của NEP


Sau khi chiến thắng thù trong giặc ngoài năm 1921, nước Nga Xô Viết bước cào
thời kì hòa bình, xây dựng đất nước trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Tình trạng
này đã được Lênin diễn tả rất hình tượng: “Nước Nga ra khỏi chiến tranh trong tình
cảnh giống hệt như một người bị đánh gần chết. Trong 7 năm trời, nó bị đánh khắp
mình mẩy, may mà vẫn có thể chống nạng và đi được”. Quả đúng vậy, hậu quả
nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế-xã
hội nước Nga hết sức trầm trọng.
1.1. Tình hình kinh tế
Nền kinh tế quốc dân bị tàn phá nghiêm trọng với tổng thiệt hại lên tới 39 tỉ rup,
bằng ¼ toàn bộ tài sản quốc gia năm 1913.
Năm 1920, sản xuất công nghiệp giảm 7 lần so với năm 1913, tất cả các ngành
đều sa sút. Việc khia thác than đá trong năm 1920 so với năm 1918 đã giảm từ 731
triệu put đến 467 triệu put, đúc gang giảm từ 31,5 triệu đến 7,0 triệu, sản xuất mac-
tanh giảm từ 24,5 triệu đến 10 triệu, thép dát giảm từ 21,8 triệu đến 12,2 triệu, sản
xuất đường từ 20,3 triệu đến 5,5 triệu put. Dự trữ nguyên liệu và vật liệu đến năm
1920 về cơ bản đã dùng hết. Do thiếu nguyên liệu, phần lớn các nhà máy phải đóng
cửa, công nhân thất nghiệp.
Nông nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề. Sản lượng nông nghiệp chỉ còn bằng
khoảng ½ so với thời kì trước chiến tranh. Nông nghiệp càng mang tính chất tiêu
thụ nhiều hơn. Nạn đói hoành hành trong cả nước.
Giao thông vận tải không còn đủ sức duy trì mối liên hệ bình thường giữa các
vùng trong cả nước, với 7 vạn kilomet đường sắt và hơn ½ số đầu máy xe lửa bị phá
hủy. Trong năm 1919, khối lượng vận chuyển là 30% so với trước chiến tranh, còn
trong năm 1920 là 20% (không tính đến hàng hóa quân sự và nhu cầu của bản thân
đường xe lửa là 12%).
Nền tài chính tín dụng đất nước lâm vào tình trạng rối loạn.
1.2. Tình hình chính trị-xã hội
Bên cạnh những khó khăn về kinh tế, từ mùa xuân năm 1921 lại phát sinh những
khó khăn có tính chất nghiêm trọng về chính trị.
Trong nông dân xuất hiện tình trạng thiếu phấn khởi và bất bình. Chính sách

“Cộng sản thời chiến” với việc trưng thu toàn bộ lương thực thừa vốn hoàn toàn phù
hợp trong thời kì nội chiến, thì nay chẳng những đối lập với lợi ích của bản thân
người nông dân, mà còn là một trở ngại đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Nông dân muốn được tự do sử dụng sản phẩm lao động của mình, tự do trao đổi
trên thị trường. Như vậy, có một mối nguy cơ đe dọa khối liên minh công-nông.
Đói kém và mệt mỏi cũng làm cho một số công nhân bất bình. Trong giai cấp
công nhân có tình trạng giảm sút về số lượng và phân tán về đội ngũ. Nhà máy đóng
cửa, nhiều công nhân đã bỏ về nông thôn kiếm sống. Số lượng công nhân chỉ còn
bằng ½ so với năm 1913. Như vậy là cơ sở giai cấp của nền chuyên chính vô sản bắt
đầu suy yếu.
Lợi dụng tình hình đó, bọn phản cách mạng trong nước lại càng điên cuồng
chống phá, ra sức kích động sự bất bình trong nông dân và công nhân. Điển hình là
cuộc nổi loạn ở pháo đài Crông-xtat (3/1921) do bọn Xã hội cách mạng, Mensêvich,
Bạch vệ cầm đầu và được sự ủng hộ của bọn đế quốc bên ngoài.
Pháo đài Crông-xtat là một căn cứ của hải quân Nga, từ lâu đã nổi tiếng với
những truyền thống cách mạng quang vinh. Nhưng bằng những khẩu hiệu lừa bịp và
xảo quyệt như “Chính quyền của các Xô Viết, chứ không phải của các Đảng phái”
hoặc “Xô Viết không có các đảng viên cộng sản”, bọn cầm đầu phản động đã lôi
kéo được một bộ phận đáng kể lính thủy ở đây theo chúng, mà phần lớn họ là những
thanh niên nông dân vừa mới rời khỏi xóm làng, còn non nớt về chính trị và lại
mang theo những bất bình của nông dân đối với chính sách trưng thu lương thực
thừa. Trong khi đó, hầu hết những lính thủy giác ngộ nhất đã từng tham gia Cách
mạng tháng Mười lại lên đường ra mặt trận. Thành phần lính thủy ở Crông-xtat
trong thời kì nội chiến đã thay đổi rất nhiều. Tổ chức đảng Bônsêvich ở đây lại suy
yếu. Thành phần bộ chỉ huy Crông-xtat lại bao gồm những phần tử thù địch, chính
là những kẻ chỉ huy trực tiếp cuộc nổi loạn. Bọn phiến loạn chiếm được pháo đài
cùng một số chiến hạm của hạm đội Ban-tích và một số lớn vũ khí đạn dược. Chúng
định biến pháo đài thành căn cứ xuất phát cho một cuộc can thiêp vũ trang mới của
các nước đế quốc.
Trước tình hình đó, chính quyền Xô Viết đã thi hành những biện pháp kiên quyết

nhằm đập tan cuộc nổi loạn. Một lực lượng lớn của Hồng quân do Tukhatrépxki chỉ
huy đã mở cuộc tiến công vào pháo đài Crông-xtat. Sau một đêm tấn công quyết liệt
với tinh thần quả cảm phi thường, sang sớm ngày 18/3, các chiến sĩ Xô Viết làm
chủ được pháo đài. Cuộc nổi loạn bị dập tắt. Cuộc nổi loạn mang một tính chất
nghiêm trọng, được xem như “một Tecmido của nước Pháp”. Nó cho thấy những
dấu hiệu rõ ràng về sự khủng hoảng chính trị ở trong nước, mà thực chất của cuộc
khủng hoảng là sự dao động của giai cấp tiểu tư sản ở nông thôn và thành thị.
Cuộc khủng hoảng cũng đã phản ánh vào trong nội bộ đảng Bônsêvich. Sự xuất
hiện các nhóm “Đối lập công nhân”, “Tập trung dân chủ”, “Cộng sản phái tả”, đặc
biệt là nhóm củaTrôt-xki đã tạo ra một nguy cơ lớn đối với Đảng và nền chuyên
chính của giai cấp vô sản. Trôt-xki là kẻ đã khởi xướng cuộc tranh luận về cái gọi là
công đoàn. Sự thật là sau này y đã vượt ra khỏi ý nghĩa của vấn đề công đoàn, đề
cập tới những vấn đề căn bản của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tình
trạng chia bè phái xuất hiện trong nội bộ Đảng Bônsêvich.
Trong bối cảnh nước Nga Xô Viết vẫn chưa thoát khỏi hoàn toàn thế cô lập,
cuộc khủng hoảng toàn diện trên đòi hỏi cấp bách Đảng và Nhà nước Xô Viết phải
có chính sách mới nhằm xóa bỏ những nguy cơ làm suy yếu khối liên minh công-
nông và nền chuyên chính vô sản, đồng thời khôi phục và tiếp tục phát triển kinh tế,
cùng lực lượng sản xuất của nước Nga Xô Viết.
Đáp ứng yêu cầu đó, Đại hội lần thứ X của Đảng Bonsevich Nga (3/1921) đã
quyết định chuyển từ chính sách “Cộng sản thời chiến” sang chính sách “Kinh tế
mới” (NEP) do Lênin đề xuất.
2. Nội dung của NEP
Chính sách kinh tế mới của Lênin bao gồm bốn nội dung chủ yếu.
2.1. Thay

thế Chính sách trưng thu lương thực thừa bằng Chính sách
thuế lương thực.
Theo


chính sách này, người nông dân chỉ nộp thuế lương thực với một mức cố
định trong

nhiều năm. Thuế lương thực thấp hơn việc trưng thu gần hai lần, chẳng
hạn như lúa

mì, người nông dân chỉ phải nộp 240 triệu pút chứ không phải 423 triệu.
Mức thuế căn cứ vào điều kiện tự nhiên của đất canh tác. Số lương thực còn lại
sau khi nộp

thuế, người nông dân được tự do trao đổi, mua bán trên thị trường. Để
có thể thực

hiện tốt chính sách thuế lương thực này, Ban chấp hành các Xô-viết
toàn Nga đã

ban hành một sắc lệnh về vấn đề này. Để thi hành sắc lệnh ấy, Hội đồng
bộ trưởng

dân uỷ đã công bố đạo luật về thuế lương thực. Tất cả các cơ quan Xô-viết
có nhiệm

vụ phổ biến hết sức rộng rãi cho nông dân biết đạo luật về thuế lương
thực và giải

thích ý nghĩa của đạo luật ấy. Đây là một chuyển biến quan trọng
với mục tiêu

chính là hướng vào nông dân, một lực lượng đông đảo nắm giữ vai
trò quan trọng


trong quá trình xây dựng và phát triển chủ nghĩa xã hội. Người nông
dân nào cũng

biết rõ trước số thuế phải nộp. Do đó, sẽ ít có tình trạng lộng quyền
khi thu thuế,

nông dân cũng sẽ càng có lợi trong việc tăng diện tích gieo trồng,
trong việc cải

thiện kinh doanh của mình, trong việc chăm lo tăng thu hoạch. Thuế
lương thực đã

góp phần cải thiện đời sống của nông dân, khôi phục phần nào nền
kinh tế, là một

bước quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội
chủ nghĩa bình

quân.
2.2. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Đối với nền kinh tế nước Nga

bấy giờ, Lênin rút ra có năm thành phần kinh tế
là : thành phần kinh tế nông dân gia

trưởng, thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá
nhỏ của nông dân, thợ thủ công, cá thể

và tiểu thương, thành phần kinh tế tư bản

tư nhân, thành phần kinh tế tư bản nhà

nước và thành phần kinh tế xã hội chủ
nghĩa. ở đây, Lênin không đặc biệt chú trọng

thành phần kinh tế nào mà chỉ ra
trong đó ba thành phần kinh tế cơ bản là: kinh tế

sản xuất hàng hoá nhỏ, kinh tế tư
bản tư nhân và kinh tế xã hội chủ nghĩa. Theo lý

luận của Mac-Lênin, để phát triển
nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, phải bắt

đầu từ một chế độ tư bản phát
triển với thành tựu khoa học, công nghệ đã lên tới

đỉnh cao. Tuy nhiên, hoàn
cảnh lịch sử nước Nga trước Cách mạng thang Mười là

một nước tư bản phát
triển yếu.Vì vậy, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,

việc đầu tiên phải
làm là thiết lập một nền kinh tế phát triển mạnh. Chính vì lẽ đó,

chính quyền Xô
Viết mà đứng đầu là Lênin đã chủ trương phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần,

kích thích mọi hoạt động của nền kinh tế trở nên mạnh mẽ với

các hình thức
như: khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân, thợ thủ công,
khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân,sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà

nước, củng cố
lại các doanh nghiệp nhà nước chuyển sang chế độ hạch toán kinh tế,

đồng thời,
Lênin chủ trương phát triển mạnh mẽ quan hệ hợp tác kinh tế với các

nước tư
bản phương Tây để tranh thủ kỹ thuật, vốn và khuyến khích kinh tế phát

triển.
Điều này đã giúp nước Nga tận dụng được các ưu điểm của các thành phần

khác
nhau trong nền kinh tế, tạo nên đa dạng và phong phú các nguồn lực để thúc

đẩy
nền kinh tế phát triển.
2.3. Mở rộng thị trường, phát triển thương nghiệp
Nhà nước Nga đã tăng

cường và khuyến khích trao đổi hàng hoá giữa nông
nghiệp và công nghiệp, giữa

thành thị với nông thôn, giữa các vùng, các miền

trong nước. Sự trao đổi hàng hoá

giữa các thành phần kinh tế diễn ra vô cùng
mạnh mẽ. Không chỉ vậy, Nhà nước

Nga còn cho thành lập lại các ngân hàng Nhà
nước, các quỹ tín dụng, cho phát hành

tiền và củng cố các quan hệ tài chính tiền
tệ trong nước. Nhà nước vẫn nắm độc

quyền trong thương nghiệp, tuy nhiên, Nhà
nước cũng thực hiện những chính sách

mới nhằm khuyến khích các hoạt động trao
đổi, buôn bán hàng hoá trở nên tự do,

sôi nổi hơn, đặc biệt là cho phép thương
nhân được tự do hoạt động, vì vậy thương

nhân đã có thể dễ dàng hoạt động đáp
ứng kịp thời mọi nhu cầu hàng hoá trong xã

hội.
2.4. Sử dụng các hình thức chủ nghĩa tư bản Nhà nước.
Theo Lênin, chủ

nghĩa tư bản Nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của Nhà
nước vào các doanh


nghiệp tư bản. Đây là chủ nghĩa tư bản đặc biệt, do Nhà nước
vô sản “sáng tạo ra”, “ đi theo tay lái ” của Nhà nước vô sản, Nhà nước vô sản có
thể hạn

chế, có thể quy đinh và giới hạn. Việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước là cần

thiết để phát triển lực lượng sản xuất. Sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước, Nhà

nước vô sản huy động được vốn, vật tư – kỹ thuật, kinh nghiệm
quản lý của các nhà

tư bản, và cuối cùng vẫn thay thế được chủ nghĩa tư bản
bằng chủ nghĩa xã hội.

Lênin đã chỉ ra bốn hình thức cơ bản của chủ nghĩa tư bản
nhà nước là: tô nhượng,

thuê, giao và hợp tác xã. ở Liên Xô, Lênin đã áp dụng hai
hình thức cơ bản là quốc

hữu hoá và xã hội hoá, chuyển các quá trình sản xuất tư
nhân thành quá trình sản xuất xã hội, một mặt quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất
thuộc về chủ nghĩa tư bản,

một mặt giao những tư liệu sản xuất đó cho các nhà tư
bản thuê để kinh doanh. Sử

dụng những hình thức này vừa giúp cho chính quyền

Xô Viết khai thác nguồn lực

từ các thành phần tư bản lại vừa kích thích được
dân chúng trong nước phát triển

kinh tế.
Thực chất của chính sách Kinh tế mới là chuyển từ nền kinh tế bao cấp do Nhà
nước nắm độc quyền về mọi mặt sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần do
Nhà nước kiểm soát. Trong đó, Nhà nước chấp nhận sự tồn tại, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần: cá thể, tập thể,…. trong một thời gian dài để lợi dụng vốn, kĩ
thuật, kinh nghiệm của các nhà tư bản trong và ngoài nước để phát triển kinh tế.
Nếu như thắng lợi của cách mạng tháng Mười và nội chiến là thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội về chính trị và quân sự đối với chủ nghĩa tư bản, thì chính sách Kinh tế
mới là sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản trên mặt trận kinh
tế.
Kết quả, chính sách Kinh tế mới đã đưa nước Nga vượt qua cuộc khủng hoảng
kinh tế, chính trị. Chính sách thuế lương thực làm cho nông dân phấn khởi, nâng
cao năng suất lao động. Sản xuất nông nghiệp phục hồi nhanh chóng, đảm bảo cung
cấp lương thực cho nhân dân và nguồn nông phẩm cho các trung tâm công nghiệp.
Trên cơ sở đó, sản xuất công nghiệp và hoạt động thương nghiệp được phục hồi và
phát triển. Đến năm 1925, nước Nga Xô Viết đã khôi phục được nền kinh tế, đạt
được thắng lợi cơ bản trong điện khí hóa, sản xuất phát triển, đời sống nhân dân
được cải thiện, tình hình chính trị, xã hội đi vào ổn định. Mức lương trung bình
hàng tháng của công nhân Nga đã tăng lên, vào cuối năm 1921 là gần 3 lần so với
quý II năm 1921 (khi tiền lương ở mức thấp nhất). Chính sách kinh

tế mới còn đánh
dấu một bước phát triển mới về lý luận kinh tế đối với chủ nghĩa xã

hội, là tấm

gương sáng trong việc xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ

nghĩa cho
các nước xã hội chủ nghĩa học tập và rút kinh nghiệm. Đặc biệt, nó có

ảnh
hưởng rất lớn đối với Việt Nam.
II. Vận dụng NEP ở Việt Nam
1. Đặc điểm nền kinh tế thời kỳ quá độ ở Việt Nam
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam phải đối mặt với hàng loạt khó khăn
do đế quốc Pháp và phát xít Nhật để lại, đặc biệt là nạn đói. Tuy nạn đói có phần
dịu

đi do cách mạng phá kho thóc của Pháp – Nhật chia cho dân nhưng nạn đói vẫn
rất

trầm trọng. Chưa hết, khi Đảng ta vừa có những bước phát triển nhất định để
cứu

đói cho dân, khôi phục lại nền kinh tế sau chiến tranh thì Pháp lại tiếp tục gây
chiến,

vì vậy, nền kinh tế của ta phải nhanh chóng chuyển dần sang kinh tế thời
chiến.

Bước vào giai đoạn 1946-1954, ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, do
ta thực

hiện chính sách bất hợp tác và vuờn không nhà trống nên ở những vùng
có chiến


tranh, kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề. Đến khi cuộc kháng chiến gần tiến tới
thắng lợi

thì nhu cầu vật chất cho kháng chiến lại tăng, vì vậy, Đảng ta phải chủ
trương vừa

chấn chỉnh, phát triển kinh tế trong vòng kiểm soát của địch nhưng cũng
đồng thời

tăng cường bao vây phá hoại kinh tế địch. Nhờ đó, nền kinh tế kháng
chiến 1946-

1954 cũng có những bước chuyển biến tích cực, đáp ứng đầy đủ nhu
cầu vật chất

cho kháng chiến và ổn định được đời sống nhân dân và cũng đồng thời
làm suy yếu

nền kinh tế địch.
Đến thời kỳ 1955-1964, là lúc nước ta bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc giành
được độc lập, còn miền Nam nằm dưới sự thống trị của Mĩ. Chính vì vậy, kinh tế
hai miền cũng khác nhau, miền Nam vẫn phải đấu tranh để giành độc lập, còn miền
Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tiến những bước dài chưa từng
có, miền Bắc trở thành hậu phương lớn, căn cứ địa vững chắc để nhân dân cả nước
có thể đánh thắng giặc Mĩ.
Thời kỳ 1965-1974, miền Bắc vẫn chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội đồng
thời không ngừng chi viện cho chiến trường miền Nam. Trong 10 năm chiến tranh
đó, kinh tế miền Bắc ít bị xáo trộn, sản xuất vẫn có nhiều tiến bộ, là hậu phương
vững chắc cho cả nước, là động lực không thể thiếu để đi đến thắng lợi ở miền

Nam.
Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất và giành được độc lập. Vì vậy,
cả nước cùng bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong
giai đoạn này ( 1975-1986), lẽ ra kinh tế nước ta phải phát triển nhanh chóng do đã
thoát khỏi chiến tranh, tuy nhiên, đây lại là giai đoạn nền kinh tế nước ta bị khủng
hoảng trầm trọng: kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm (1976-1980) chưa thu
hẹp được những mặt mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân, sản xuất
phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập quốc dân chưa bảo đảm đựoc
tiêu dùng xã hội, một phần tiêu dùng xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh

tế
chưa tạo được tích luỹ, lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều
thiếu, tình hình cung ứng vật tư, tình hình giao thông vận tải rất căng thẳng, nhiều xí
nghiệp sử dụng công suất ở mức thấp, chênh lệch lớn giữa thu và chi tài chính, giữa
hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu, thị trường vật giá không ổn định, số
người lao động chưa được sử dụng còn đông, đời sống nhân dân lao động gặp nhiều
khó khăn. Có lẽ đó là do nước ta phải chịu đựng những đảo lộn kinh tế và xã hội với
quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt lâu dài với những tác động không thuận lợi
của tình hình thế giới. Nhưng xét về phía chủ quan, đây là thời kỳ mô hình kinh tế
tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó, nhất là
khi mô hình kinh tế đó đã phát triển ở mức cao và được áp dụng trong phạm vi cả
nước nên hậu quả càng nặng nề trên quy mô lớn. Tuy nhiên, cũng trong thời kỳ này,
tư duy mới từng bước hình thành, các quan niệm cốt lõi của mô hình kinh tế mới về
cơ bản đã hình thành. Sự phát triển tiệm tiến này đã dẫn đến bước nhảy vọt trong
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986) về mô hình kinh tế mới.
2. Quá trình vận dụng NEP vào Việt Nam
Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã quyết định những đổi mới mang tầm
chiến lược được vận dụng từ Chính sách kinh tế mới của Lênin một cách sáng tạo,
linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh nước ta bấy giờ. Trong đó, việc làm đầu tiên

và cũng là quan trọng nhất của Đảng ta là xoá bỏ mô hình kinh tế cũ, xây dựng mô
hình kinh tế mới phù hợp với quy luật kinh tế khách quan, với trình độ phát triển
của nền kinh tế. Cụ thể, đó là sự biến đổi từ mô hình nền kinh tế bao cấp sang mô
hình nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Bước chuyển biến sang mô hình nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là tất yếu khách quan. Ngoài ra, xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế
và chưa thể cải biến nhanh được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng, quan
hệ sản xuất mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới như : thành phần
kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà

nước…
Ngoài ra, theo đúng như lý luận của Mac-Lênin, để phát triển nền kinh tế

theo
hướng xã hội chủ nghĩa, phải bắt đầu từ một chế độ tư bản phát triển với thành

tựu
khoa học, công nghệ đã lên tới đỉnh cao. Nếu nước Nga trước Cách mạng tháng
Mười 1945 là một nước tư bản yếu thì Việt Nam được coi là một nước nghèo, lạc
hậu, kinh tế kém phát triển. Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Năm 1987, quyết định 27 của
Hội đồng bộ trưởng chính phủ về phát huy vai trò tự chủ của các doanh nghiệp nhà
nước trong kinh doanh. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào mọi hoạt động của
nền kinh tế như trước. Đồng thời, luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được ban
hành nhằm đảm bảo quyền lợi của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, năm 1990, luật doanh nghiệp và công ty tư nhân được ban hành, Nhà
nước thừa nhận thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Luật phá sản, luật khuyến khích
đầu tư cũng được ban hành. Như vậy, Nhà nước đã chính thức cho phép các thành
phần như : kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là các thành
phần kinh tế của chủ nghĩa tư bản được cạnh tranh bình đẳng với các thành phần

kinh tế cơ bản : kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước.
Chính sách này sẽ góp phần kích thích mọi thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta
bấy giờ phát triển, cùng vực dậy nền kinh tế vừa qua khủng hoảng của Việt Nam.
Chính sách thuế nông nghiệp
Chính sách thứ hai được Đảng ta đưa ra trong công cuộc đổi mới là chính
sách thuế nông nghiệp. Mặc dù hoàn cảnh bây giờ của chúng ta không phải khó
khăn, đói kém như những năm 1945, nhưng đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khổ
cực, nhiều nơi vẫn tồn tại nạn đói. Chính vì vậy, cần phải có những biện pháp để
tăng sản lượng lương thực, thực phẩm, giải quyết nạn đói cho người dân. Chính
sách thuế trong nông nghiệp ở nước ta chủ yếu là chính sách thuế đối với ruộng đất
chứ không phải là thuế lương thực như ở Liên Xô. Có sự khác nhau như vậy là do ở
nước ta, về nguyên tắc, người lao động là chủ của đất đai vì đất đai thuộc sở hữu
toàn dân. Nhưng trong các hợp tác xã kiểu cũ, người lao động chỉ là người chủ trên
danh nghĩa, còn thực tế, người lao động thờ ơ, xa lạ với đất đai. Từ khi có “khoán
hộ”, người nông dân được giao đất, giao ruộng, vì thế họ gắn bó với đất đai. Điều
đó chứng tỏ chính sách thuế nông nghiệp mà cụ thể là chính sách thuế ruộng đất đã
đáp ứng được lợi ích của người nông dân, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp
phát triển và đạt được những thành tựu to lớn trong những năm qua.
Sử dụng các hình thức tư bản nhà nước
Chính sách thứ ba liên quan đến việc sử dụng các hình thức tư bản Nhà nước.

Khác
với Liên Xô trước đây, ở Việt Nam lại chú trọng đến việc phát triển nền kinh

tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự điều tiết và quản lý của Nhà nước.

Điều
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong thời kì lịch sử mới hiện nay của nước


ta.
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn mang
nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá vỡ dần kinh tế tự
nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản. Nhờ đó,
chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ
thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần
quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong
thời gian qua. Hiện nay, chúng ta đã cơ bản xoá bỏ được chế độ tập trung quan liêu,
bao cấp, thực hiện lưu thông hàng hoá theo quan hệ cung cầu, hình thành giá cả trên
cơ sở giá trị, quan hệ hàng – tiền và sức mua trên thị trường. Từ đó, chúng ta đã
khá thành công trong cải cách giá cả, bãi bỏ việc định giá mang nặng tính bao cấp ở
rất nhiều mặt hàng mà không gây rối loạn trong sản xuất – kinh doanh, thực hiện
kiềm chế lạm phát ngày càng có hiệu quả cao.
Chính sách kinh tế đối ngoại
Chính sách cuối cùng được Đảng ta đưa ra là chính sách kinh tế đối ngoại, đặc
biệt là các hình thức đầu tư vốn nước ngoài, liên doanh, liên kết. Việt Nam thực
hiện chính sách kinh tế đối ngoại mở rộng theo phương châm: Việt Nam muốn là
bạn với tất cả các nước, thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng,
khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng những dự án phù hợp với điều
kiện của Việt Nam. Trên cơ sở phát triển sản xuất trong nước, chúng ta vừa đáp ứng
nhu cầu trong nước, vừa mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trong khu vực và
thế giới , từng bước tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác song phương, đa
phương. Số nước và vùng lãnh thổ có quan hệ buôn bán với Việt Nam năm 1996 lên
đến 105 với 352 văn phòng đại diện.
3. Những giải pháp trong việc vận dụng NEP vào Việt Nam
Chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các chính sách trên, vẫn còn rất nhiều hạn
chế. Sau đây là một số giải pháp đưa ra trong quá trình vận dụng Chính sách kinh tế
mới trong điều kiện lịch sử mới. Thứ nhất, trong việc chuyển sang cơ chế mới với
mô hình nền kinh tế nhiều thành phần, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách là

đơn vị sản xuất hàng hoá đều đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế và
cần có sự quản lý củ Nhà nước, nhằm đảm bảo nền kinh tế phát triển nhanh, đem lại
thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế cần được thừa nhận và tạo
điều kiện để chúng tồn tại, phát triển. Đồng thời, các thành phần kinh tế cần được
bình đẳng trên mọi phương diện. Ngoài ra, nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta
là nền kinh tế nhiều thành phần với định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu để tự phát nền
kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, cần phải củng cố
hai công cụ quan trọng là kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo của nó trong nền
kinh tế và chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn
Thứ hai, về chính sách thuế nông nghiệp, cần phải chú ý đến những vấn đề
sau: trình độ phát triển của nông nghiệp kém hơn so với các ngành kinh tế khác, vì
thế nên mức thuế suất, các sắc thuế áp dụng cho nông nghiệp phải khác với các
ngành, các lĩnh vực khác, kinh tế nông nghiệp phụ thuộc nhièu vào điều kiện tự
nhiên, do vậy, khi thời tiết không thuận lợi hoặc thiên tai, cần có sự điều chỉnh
chính sách thuế cho phù hợp, ở nước ta, nông nghiệp vẫn chiếm một tỉ trọng rất lớn
nên các chính sách thuế phải đặt trong mối quan hệ phù hợp với các chính sách xã
hội.
Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Thứ ba, đối với chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, để thực hiện ngày
càng có hiệu quả cả về số lượng lẫn chất lượng nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp
phát triển nền kinh tế, đặc biệt là phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, chúng ta cần phải : hoàn thiện chính sách, luật pháp , cải cách hành chính
để huy động nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng có hiệu quả kinh tế –
xã hội nhiều hơn các nguồn vốn ấy, có chiến lược quan hệ kinh tế đối ngoại cùng
với quy hoạch và thực hiện nghiêm ngặt quy hoạch gọi vốn đầu tư nước ngoài, xác
định đúng đắn đối tác, khắc phục tình trạng đầu tư tràn lan, kiểm soát vốn đầu tư
bên ngoài, ngăn chặn sự đối lập giữa đầu tư nước ngoài với lợi ích quốc phòng an
ninh, với việc gìn giữ nền văn hoá dân tộc, ngăn ngừa ý đồ chiếm lĩnh thị trường nội
địa của tư bản nước ngoài, xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, vừa bảo đảm

tốc độ phát triển kinh tế tối ưu, vừa bảo đảm thực hiện công bằng xã hội, có chính
sách huy động nhiều tiềm lực trong nước để thực hiện chủ trương chiến lược lấy
nguồn vốn trong nước là chính, tạo điều kiện tối đa cho các thành phần kinh tế trong
nước phát triển, xây dựng các khu vực kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã hội chủ
nghĩa vững mạnh làm điểm tựa cho nền kinh tế quốc dân và cùng với các khu vực
kinh tế tư nhân trong nước với tư cách là nội lực làm đối trọng với khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài.
Chính sách kinh tế đối ngoại
Cuối cùng, đối với chính sách kinh tế đối ngoại, Việt Nam vẫn luôn luôn giữ
vững quan niệm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước” , tuy nhiên, hợp tác
về kinh tế không có nghĩa là sẽ phụ thuộc về chính trị- xã hội. Vì vậy, khi kí kết các
hợp đồng về kinh tế, mở rộng quan hệ với các nước cần phải đặc biệt chú ý, cẩn
trọng và đặt lên trên hết là độc lập của dân tộc, chủ quyền của nước nhà.
III. Nhận xét
Kết thúc 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến, nước Nga Xô Viết lâm vào
cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng. Giữa lúc đó, chính sách Kinh tế mới của
Lênin đã góp phần giải quyết những khó khăn, bảo vệ thành công chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Khi đánh giá về NEP, có người cho rằng đó là sự đi lệch có tính chất tiêu cực
nào đó ra khỏi con đường xã hội chủ nghĩa, là sự nhượng bộ với giai cấp tư sản, là
hiện tượng lịch sử đã lỗi thời từ lâu. Trong thế giới tư bản chủ nghĩa, các nhà quan
sát vốn định kiến, thù địch với chủ nghĩa xã hội đã coi NEP là dấu hiệu của sự
khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa, là triệu chứng của lòng mong muốn thiết
tha, muốn phục hồi xu hướng và khuynh hướng tư bản chủ nghĩa.
Nhưng trong tình cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa như trên miệng hố của sự sụp
đổ, một mình trong vòng vây trùng điệp của chủ nghĩa đế quốc, thì những tác dụng
mà chính sách Kinh tế mới đem lại cho thấy: NEP không chỉ là một bước lùi mang
tính chiến lược cho riêng nước Nga Xô Viết, mà cho tất cả các nước khác khi tiến
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó có Việt Nam. Đúng như Lênin đã từng
nhận định về chính sách Kinh tế mới “Hiện nay chúng ta đang lùi bước, chúng ta

dường như lùi bước, rồi sau đó lấy đà nhảy một bước mãnh liệt hơn về phía trước.
Chính chỉ với điều kiện như vậy, chúng ta mới đã lùi bước bằng cách thực hiện
chính sách Kinh tế mới của chúng ta….để sau bước lùi đó, tiến lên phía trước một
cách kiên quyết nhất….”
Và hơn 60 năm sau, ở Việt Nam đã diễn ra công cuộc Đổi mới sâu sắc, toàn
diện và triệt để trên mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội. Nhờ có Chính sách kinh tế
mới của Lênin mà trong quá trình

tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã tránh
được nhiều sai sót và hạn chế. Tuy

nhiên, cũng phải nói rằng Đảng ta đã biết
vận dụng Chính sách kinh tế mới của

Lênin một cách triệt để nhưng đầy sáng tạo
và linh hoạt. Ngoài ra, ta còn cần phải

chú trọng rằng công cuộc đổi mới ở nước
ta thật sự là một cuộc cách mạng không

kém phần gay go quyết liệt, đòi hỏi ta
không được xa rời chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc

biệt là Chính sách kinh tế mới của
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy đổi mới kinh

tế làm trọn tâm nhưng vẫn phải
mang nguyên tắc: Đảng cộng sản luôn giữ vững vai


trò lãnh đạo trong đời sống
kinh tế – chính trị đất nước. Khoa học- kỹ thuật ngày

càng phát triển, công cuộc
đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu, đặt ra cho phát triển

kinh tế nước ta nhiều thời
cơ và mang cả những thách thức, cả thuận lợi và khó

khăn. Việt Nam phải kiên trì
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, chú trọng xây

dựng Nhà nước vững mạnh,
hiện đại và là Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”

như lời Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, tập 1,2, phần I, NXB Sự thật, 1984
2. Giáo trình Lịch sử hiện đại thế giới, giai đoạn 1917-1945, NXB đại học và trung
học chuyên nghiệp, 1983
3. Giáo trình Kinh tế chính trị, NXB Chính trị quốc gia,2004
4. Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản, NXB Sự thật, 1976
5. Những vấn đề chủ yếu trong hoạt động thương mại ở nước ta - Tạp chí kinh tế và

phát triển,tháng 11/2001
6. Tạp chí cộng sản, Chính sách Kinh tế mới của V.I.Lenin - một cơ sở lý luận quan
trọng của đổi mới ở Việt Nam,
/>sach-kinh-te-moi-cua-VI-Lenin-mot-co-so.aspx

7. Tạp chí cộng sản, Chính sách Kinh tế mới của V.I.Lenin và sự vận dụng vào công
cuộc đổi mới ở Việt Nam,
/>distribution=2462&print=true
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX

×