Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

những bài văn hay lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.19 KB, 80 trang )

Đề 1: Phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học trung đại nước
ta ở thế kỷ XVI, một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam.
Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện hay trong tác phẩm, có giá trị
sâu sắc về nhiều mặt, đánh dấu sự phát triển ban đầu của nền văn xuôi nước ta.
Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương,
tỉnh Hà Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung
thuỷ, hầu hạ mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở
phương xa. Khi trở về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ
nàng thất tiết nên đánh mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng
trẫm mình ở sông Hoàng Giang. Cảm động vì lòng trung thực của nàng, Linh
Phi (vợ vua biển Nam Hải) cứu vớt nàng và cho ở lại Long Cung. Người chồng
biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn
hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.
Xét về giá trị hiện thực, truyện phản ánh sinh động thân phận của người
phụ nữ trong xã hội phong kiến, một xã hội bất công gây nhiều đau khổ cho
người phụ nữ. Trước tiên đó là chế độ xã hội với chiến tranh loạn, lạc liên miên
gây đau khổ cho con người. Vì cuộc chiến tranh đầy phi nghĩa, chàng Trương
Sinh giống như anh lính thú xưa trong ca dao: Thùng thùng trống đánh ngũ liên-
Chân bước xuống thuyền nước mắt như mưa phải ra lính, phải xa cách người mẹ
già, người vợ trẻ. Hạnh phúc gia đình bị chia cắt bởi chiến tranh. Người mẹ già
vì xa con, nhớ thương con mà sinh ra ốm. Vũ Nương vừa nuôi con thơ, vừa
chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng và hết lời khuyên lơn. Đến khi mẹ chồng
mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo.
Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện
thực nghiệt ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”,
coi rẻ thân phận của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tuông, thói hung bạo,
gia trưởng của chồng.
Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng
(thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi
trọng “nam quyền”, hơn nữa Trương Sinh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì


phòng ngừa quá mức. Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc
đoán của Trương Sinh sau này.
Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ
qua đời, con vừa học nói, lòng buồn bã. Trong hoàn cảnh như thế, lời của Bé
Đản dễ kích động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một
người đàn ông đêm nào cũng đến ”
Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi
ấy. Không đủ bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân
trần của vợ, những lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, không chịu nói ra duyên
cớ ghen hờn. Cuối cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái
độ và hành động của Trương Sinh vô hình chung dẫn đến cái chết oan nghiệt
của Vũ Nương.
Hành động gieo mình xuống sông Hoàng Giang của Vũ Nương phản ánh
một thực trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc
chặt trong khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu
nhiều khổ đau, bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm.
1
Đằng sau nỗi oan của người thiếu phụ Nam Xương, còn bao nhiêu oan
tình bất hạnh mà người phụ nữ ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du, người cung nữ trong “Cung oán ngâm khúc”
của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình trong thơ Hồ Xuân Hương,
Bên cạnh giá trị hiện thực, truyện còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc.
Chuyện người con gái Nam Xương ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có
tâm hồn trong sáng, sáng ngời như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện
ghen tuông vớ vẩn của người chồng nông nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái
chết để giải nỗi oan tình.
Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hoàn cảnh khác nhau, qua đó
bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con
gái có tư dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng luôn giữ
gìn khuôn phép, không để vợ chồng phải thất hoà dù Trương Sinh vốn có tính

hay ghen. Khi chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượi đầy tiễn chồng. Lời của
nàng thật xúc động, nói về niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người
chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người
chồng sẽ trải qua, niềm mong ước được đoàn tụ làm mọi người trong tiệc đều
ứa hai hàng lệ.
Chồng đi đánh giặc ngoài biên ải, nàng một lòng son sắt, thuỷ chung,
“cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cô đơn mòn mỏi
“mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân
trời không thể nào ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính,
tận tuỵ chăm sóc khi mẹ chồng còn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo
liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẵng thời gian trôi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị
nghi oan. Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình: “Thiếp vốn
con kẻ khó mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến
thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lòng chung thuỷ, hết lòng
tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng,
làng xóm có bênh vực và biện bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ
Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng đâu có thể lên núi vọng
phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ
đây tan vỡ. Tình yêu không còn, cả nỗi đau khổ chờ chồng giờ đây hoá đá
Tuyệt vọng vì phải giành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giãi
bày, cứu chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của
mình. lời khấn nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang
giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin
làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm
mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ
nhổ ”. Lời khấn nguyện đã làm cho người đọc xót xa - con người rơi vào cảnh
ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải oan tình mà phải tìm đến cái chết
để thần linh chứng giám.
Sau một năm ở thuỷ cung, khi nghe kể chuyện nhà, nàng đã ứa nước mắt

khóc, nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện
về trên dòng nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.
Qua những hoàn cảnh khác nhau của Vũ Nương, với những lời tự thoại
của nàng, truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ
2
Việt Nam - một người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo
vát, rất mực hiếu kính với mẹ chồng, giữ vẹn lòng chung thuỷ sắt son với chồng,
hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình, lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế
mà phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Nhà văn đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương bằng cả niềm xót thương, thông
cảm cho người phụ nữ. Đồng thời cũng đề cao những khát vọng của họ: quyền
được yêu thương, được sống, được tôn trọng. Việc sáng tạo cuộc sống của nàng
ở dưới thuỷ cung cũng nhằm đề cao một triết lí nhân nghĩa: ở hiền, gặp lành,
người tốt phải được đền đáp xứng đáng.
Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán,
Nguyễn Dữ đã có những mặt thành công trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây
dựng những đoạn đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút
và gỡ nút thật bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật
hiện ra với tất cả nét thảm khốc.
“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như
thật của trẻ thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong
một đầu óc nam quyền độc đoán, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan
hạnh phúc của một gia đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một
người con gái trong trắng, phải kết thúc bi thảm trên một dòng sông.
“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng
của chàng Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên
gây thảm kịch trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.
Truyện có những đoạn đối thoại và những lời tâm tình của nhân vật được
sắp xếp đúng chỗ, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, góp phần khắc hoạ
diễn biến tâm lí và tính cách nhân vật ; lời nói của bà mẹ Trương Sinh nhân hậu,

từng trải ; lời lẽ của Vũ Nương bao giờ cũng chân thành, dịu dàng, mềm mỏng,
có lí, có tình - lời của người phụ nữ hiền thục, đoan chính ; lời của Bé Đản hồn
nhiên, ngây thơ, thật thà.
Chuyện đáng lẽ có thể kết thúc ở đoạn “gỡ nút” truyện, chàng Trương
Sinh tỉnh ngộ, thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần
Vũ Nương trở về dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích
“Vợ chàng Trương”, Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện
lên những giá trị tư tưởng và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn
của truyện và hoàn chỉnh tính cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của
nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có
hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì tập trung ở phần sau của truyện như
con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ Nương được ở lại thuỷ cung, rồi hiện
về với kiệu hoa rực rỡ trên sông đó là những tình tiết kì ảo, không có thực
nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh huyền ảo.
Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường
truyền kì không thể cứu được cuộc đời Vũ Nương với số phận bi thảm của nàng.
Vũ Nương muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và
quê hương mà không thể trở về được.
Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa
nhân đạo sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác
trong xã hội phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta
càng thấy rõ giá trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã
3
hội tốt đẹp hôm nay. Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh
phúc với chồng con và được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại
mới.
Đề 2: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái
Nam Xương” của Nguyễn Dữ.
“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ
nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt

Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm Truyền
kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là Vũ
Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự
ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ
XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu
sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ
“miếu vợ chàng Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương “
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ
nương - người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để
minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo
khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương
và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối
xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân
hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng cam tâm làm
một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và
cho dù Trương Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi
quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm
ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ
vị kỉ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hành động và lời lẽ đưa
tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng
mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ
rồi” , “thư tín nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa ”, là chi tiết cho cái “công-

dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến
chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp
của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với
chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ,
chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tế lễ khi mẹ chồng
qua đời. Vũ Nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ tròn tình nghĩa với
chồng.
4
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu,
nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với
nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó
còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời:
“xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ”
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện
tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung
thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt
những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con
côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái
bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn
nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc
đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về
(nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng
ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của
láng giềng, bà con, cô bác, Trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư”,
mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng
nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm
gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng

làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra.
Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc - niềm vui “nghi gia
nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động
tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với
chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của
chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không
có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ
mình. Chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho
giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận
phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen
tuông ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như
Trương Sinh- là lời tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác,
bất công- “chế độ nam quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.
Vũ Nương trong truyện là một nhân vật rất đẹp, theo đúng quan niệm đặc
điểm truyền thống, nhưng phải chịu nổi oan tày trời và phải chứng thực sự vô tội
của mình bằng cái chết. Cái chết đau đớn bất công, chỉ vì sự hiểu nhầm, từ một
câu nói thơ ngây của con trẻ mà người chồng Trương Sinh đã nghi oan, đã làm
mất đi người vợ quý trên đời. Nguyên nhân sâu xa của bi kịch nát lòng này
chính là do chiến tranh loạn lạc và lễ giáo phong kiến trọng nam quyền trong xã
hội ngày trước.
5
CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH - (Trích: Vũ trung tuỳ bút) -
Phạm Đình Hổ
I. Tác giả, tác phẩm
- Vũ trung tuỳ bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa).

- Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh: ghi lại cảnh sống xa hoa vô độ của chúa
Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa.
- Thể tuỳ bút:
Ghi chép sự việc, con người , qua đó bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức
đánh giá của tác giả về con người và cuộc sống. Sự ghi chép ở đây là tuỳ theo
cảm hứng chủ quan, có thể tản mạn, không gò bó theo hệ thống, kết cấu gì
nhưng vẫn tuân theo một tư tưởng cảm xúc chủ đạo. (Trong bài này là phê phán
thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của bọn vua chúa và lũ quan lại
hầu cận). Lối ghi chép của tuỳ bút giàu chất trữ tình hơn các loại ghi chép
khác( so với bút kí, kí sự).
II. Tìm hiểu văn bản
1. Cuộc sống của chúa Trịnh và bọn quan lại
- Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi để thoả thích ý thích
“cơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp, ý thích đó không biết bao nhiêu cho vừa, vì vậy
“việc xây dựng đình đài cứ liên miên”, hao tiền tốn của.
- Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả tỉ mỉ: diễn ra hết sức
thường xuyên “tháng ba bốn lần’, huy động rất đông người hầu hạ “binh lính
dàn hầu quanh mặt hồ - mà Hồ Tây thì rất rộng”, các nội thần, các quan hộ giá,
nhạc công, bày trò giải trí hết sức lố lăng và tốn kém (các nội thần ăn mặc giả
đàn bà bày bán quanh hồ, thuyền ngự dạo trên hồ, chốc chốc lại ghé vào bời
mua bán, dàn nhạc bố trí khắp nơi quanh hồ để tấu nhạc làm vui ).
- Việc tìm thu vật “phụng thủ” thực chất là để cướp đoạt những của quý trong
thiên hạ(chim quý, thú lạ, cây cổ thụ, những hòn đá hình dáng kì lạ, chậu hoa,
cây
cảnh) để tô điểm nơi ở của chúa.
Các sự việc đưa ra đều cụ thể, chân thực và khách quan, không xen lời bình
của tác giả, có liệt kê và cũng có miêu tả vài sự kiện để khắc hoạ ấn tượng (miêu
tả kĩ công phu việc đưa một cây đa cổ thụ “từ bên bắc trở qua sông đem về”,
phải một cơ binh mới khiêng nổi).
Đoạn văn “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp

bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả
biết đó là triệu bất tường” miêu tả cảnh thực ở những khu vườn rộng, đầy “trân
cầm dị thú”, cổ mộc quái thạch, lại được bày vẽ như “bến bể đầu non”, nhưng
âm thanh lại gợi ghê rợn trước một cái gì tan tác đau thương chứ không phải
trước cảnh đẹp phồn thực. Cảm xúc chủ quan củ tác giả đến đây mới được bộc
lộ, nhất là khi ông xem đó là “triệu bất tường”, tức là điềm gở, điều chẳng lành.
Nó như dự báo sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ biết chăm lo đến
chuyện ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của dân lành.
Và quả thực điều đó sẽ xảy ra không lâu sau khi Thịnh Vương mất.
2. Thủ đoạn của bọn quan hầu cận
Thời chúa Trịnh Sâm, bọn hoạn quan hầu cận trong pghủ chúa rất được chúa
sủng ái, bởi chúng có thể giúp chúa đắc lực trong việc bày các trò ăn chơi,
hưởng lạc. Do vậy, chúng ngang nhiên ỷ thế nhà chúa mà hoành hành, tác oai
6
tác quái trong nhân dân. Thủ đoạn của chúng mà tác giả kể ở đay là hành động
vừa ăn cướp vừa la làng, người dân như thế là bị cướp của tới hai lần, bằng
không thì cũng phải tự tay huỷ bỏ các thứ của quý của mình. Đó là hành vi
ngang ngược, tham lam, tàn bạo, vô lý bất công. Bọn hoạn quan vừa vơ vét ních
đầy túi tham, vừa được tiếng mẫn cán trong việc nhà chúa.
Kết thúc đoạn văn miêu tả thủ đoạn của bọn hoạn quan này, tác giả kể lại một
sự việc đã từng xảy ra ngay tại gia đình mình: Bà mẹ của ông đã phải sai chặt đi
một cây lê và hai cây lựu quí, rất đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai hoạ.
Cách dẫn dắt như thế đã làm gia tăng đáng kể tính thuyết phục cho những chi
tiết chân thực đã ghi chép ở trên, đồng thời cũng làm cho cách viết thêm phong
phú và sinh động. Bên cạnh đó còn kín đáo bộc lộ thái độ lên án phê phán chế
độ phong kiến của tác giả.
III. Tổng kết
1. Về nghệ thuật
Thành công với thể loại tuỳ bút:
- Phản ánh con người và sự việc cụ thể, chân thực, sinh động bằng các

phương pháp: liệt kê, miêu tả, so sánh.
- Xây dựng được những hình ảnh đối lập.
2. Về nội dung
Phản ánh cuộc sống xa hoa vô độ cùng với bản chất tham lam, tàn bạo, vô lý
bất công của bọn vua chúa, quan lại phong kiến.
7
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ - (Hồi thứ 14, trích) - Ngô Gia Văn Phái
1. Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ
a) Nguyễn Huệ là người bình tĩnh, hành động nhanh, kịp thời, mạnh mẽ,
quyết đoán trước những biến cố lớn. Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ
luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và
rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một
vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi
ngay”. Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu
việc lớn: “tế cáo trời đất” lên ngôi hoàng đế, “đốc suất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ
“người cống sĩ huyện La Sơn”, tuyển mộ binh lính và mở cuộc duyệt binh lớn ở
nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và cả kế hoạch
đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
b) Là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén mưu lược. Sự sáng suốt thể hiện
trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan giữa ta và địch. Đặc
biệt thể hiện qua lời phủ dụ với quân lính ở Nghệ An. Nguyễn Huệ khẳng định
chủ quyền dân tộc của ta và lên án hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời
của giặc (“đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”); nêu bật dã tâm của
giặc(“bụng dạ ắt khác giết hại nhân dân, vơ vét của cải”); nhắc lại truyền
thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quân lính đồng tâm
hiệp lực, ra kỉ luật nghiêm, Lời phủ dụ có thể xem như một bài hịch rất ngắn
mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng yêu nước và truyền
thống quật cường của dân tộc.
Sáng suốt, nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử
trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân “đều mang gươm trên lưng mà

xin chịu tội”. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều
đúng người, đúng việc.
c) Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc,
chưa giành được một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như
đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế
hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng đối với một nước “lớn gấp mười nước
mình” để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực
lượng”
d) Là bậc kỳ tài trong việc dùng binh: bí mật, thần tốc, bất ngờ. Cuộc hành
quân thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn là điều khiến chúng
ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quan ở Phú Xuân(Huế), một tuần
sau đã ra đến Tam Điệp(cách Huế khoảng 500 km). Vậy mà đêm 30 tháng chạp
đã “lập tức lên đường”, tiến ra Thăng Long. Mà tất cả đều đi bộ.Từ Tam Điệp
trở ra (khoảng 150 km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung
hoạch định kế hoạch là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long( trong
thực tế đã vượt mức hai ngày). Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng cơ nào đội
ấy vẫn chỉnh tề, cũng là do tài tổ chức của người cầm quân : hơn một vạn quân
mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao
bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
e) Hình ảnh lẫm liệt trong chiến trận :Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm
quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thực
sự : hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một
mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế đội
8
quân của vua Quang Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua
những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh
đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ
thù.
Trận Hà Hồi: vây kín làng, bắc loa truyền gọi, quân lính bốn phía dạ ran, quân
địch “rụng rời sợ hãi”, đều xin hàng, không cần phải đánh. Trận Ngọc Hồi, cho

quân lính lấy ván ghép phủ rơm dấp nước làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi
giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao chém bừa…” khiến kẻ thù
phải khiếp vía, chẳng mấy chốc thu được thành.
Bằng cách khắc hoạ trực tiếp hay gián tiếp, với biện pháp tả thực, hình tượng
người anh hùng dân tộc hiện lên khá đậm nét với tính cách quả cảm, mạnh mẽ,
trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dụng binh như thần ; là người tổ chức và là linh
hồn của chiến công vĩ đại.
- Khi miêu tả trận đánh của Nguyễn Huệ, với lập trường dân tộc và lòng yêu
nước, tác giả viết với sự phấn chấn, những trang viết chân thực có màu sắc sử
thi.
2. Hình ảnh bọn xâm lược và lũ tay sai bán nước.
a) Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh:
- Không đề phòng, không được tin cấp báo.
- Ngày mồng 4, quân giặc được tin Quang Trung đã vào đến Thăng Long:
+ Tôn Sĩ Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo
giáp, nhằm hướng bắc mà chạy.
+ Quân sĩ hoảng hồn, tranh nhau qua cầu, xô nhau xuống sông, sông Nhị Hà
bị tắc nghẽn.
b) Số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân:
- Vua Chiêu Thống vội cùng bọn thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy bán
sống bán chết, cướp cả thuyền của dân để qua sông, “luôn mấy ngày không ăn”.
- Đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước
mắt” đến mức “Tôn Sỹ Nghị cũng lấy làm xấu hổ”.
9
Đề 3.1: Thuyết minh về Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nguyễn Du sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu, tức ngày 3/1/1866 ở kinh thành
Thăng Long trong một gia đình quý tộc lớn. Thân sinh ông là Hoàng Giáp
Nguyễn Nghiễm (1708 – 1775), làm quan đến tham tụng (tể tướng) tước Xuân
quận công triều Lê. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, quê Kinh Bắc, đẹp nổi tiếng. 13
tuổi lại mồ côi mẹ, ông phải ở với người anh là Nguyễn Khản. Đời sống của

người anh tài hoa phong nhã, lớn hơn ông 31 tuổi này rất có ảnh hưởng tới nhà
thơ.
Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ
thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể
hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều.
Sự thăng tiến trên đường làm quan của Nguyễn Du khá thành đạt. Nhưng
ông không màng để tâm đến công danh. Trái tim ông đau xót, buồn thương,
phẫn nộ trước “những điều trông thấy” khi sống lưu lạc, gần gũi với tầng lớp
dân đen và ngay cả khi sống giữa quan trường. Ông dốc cả máu xương mình vào
văn chương, thi ca. Thơ ông là tiếng nói trong trái tim mình. Đấy là tình cảm sâu
sắc của ông đối với một kiếp người lầm lũi cơ hàn, là thái độ bất bình rõ ràng
của ông đối với các số phận con người. Xuất thân trong gia đình quý tộc, sống
trong không khí văn chương bác học, nhưng ông có cách nói riêng, bình dân,
giản dị, dễ hiểu, thấm đượm chất dân ca xứ Nghệ.
Về văn thơ Nôm, các sáng tác của ông có thể chia thành 3 giai đoạn. Thời
gian sống ở Tiên Điền – Nghi Xuân đến 1802, ông viết “Thác lời trai phường
nón, Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”. Đây là hai bản tình ca thể hiện rất rõ
tâm tính của ông, sự hoà hợp tâm hồn tác giả với thiên nhiên, với con người. Ba
tập thơ chữ Hán thì "Thanh hiên thi tập" gồm 78 bài, viết lúc ở Quỳnh Côi và
những năm mới về Tiên Điền, là lời trăn trở chốn long đong, là tâm sự, là thái
độ của nhà thơ trước cảnh đời loạn lạc. Sau 1809, những sáng tác thơ của ông
tập hợp trong tập “Nam Trung Tạp Ngâm” gồm 40 bài đầy cảm hứng, của tâm
sự, nỗi niềm u uất.
Truyện Kiều được Nguyễn Du chuyển dịch, sáng tạo từ cuốn tiểu thuyết
“Truyện Kim Vân Kiều" của Thanh Tâm Tài Nhân, tên thật là Tử Văn Trường,
quê ở huyện Sơn Am, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. Truyện Kiều đã được nhân
dân ta đón nhận một cách say sưa, có nhiều lúc đã trở thành vấn đề xã hội, tiêu
biểu là cuộc tranh luận xung quanh luận đề "Chánh học và tà thuyết" giữa cụ
Nghè Ngô Đức Kế và ông Phạm Quỳnh thu hút rất nhiều người của 2 phía cùng
luận chiến. Không chỉ ảnh hưởng sâu sắc trong tầng lớp thị dân, Truyện Kiều

còn được tầng lớp trên say mê đọc, luận. Vua Minh Mạng là người đầu tiên
đứng ra chủ trì mở văn đàn ngâm vịnh truyện Kiều và sai các quan ở Hàn Lâm
Viện chép lại cho đời sau. Đến đời Tự Đức, nhà vua thường triệu tập các vị khoa
bảng trong triều đến viết và vịnh Truyện Kiều ở văn đàn, ở Khu Văn Lâu.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện
nôm trong văn học trung đại VN.
ND là con người có trái tim giàu lòng yêu thương. chính nhà thơ đã từng
viết trong Truyện Kiều: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Mộng Liên Đường,
chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đề cao tấm lòng của ND: "Nếu không
có con mắt trông thấy cả 6 cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái
bút lực ấy".
10
ND dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh tâm tài nhân
(TQ), có bố cục theo 3 phần truyền thống của tác phẩm cổ điển:
P1: Gặp gỡ & đính ước
P2: Gia biến & lưu lạc
P3: Đoàn tụ.
Nhân vật chính là người con gái tài sắc Thúy Kiều. Nhưng phần sáng tạo
của ND là rất lớn. Điều này làm nên giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.
Về nội dung, Truyện Kiều có hai giá trị lớn là hiện thực và nhân đạo. Tác
phẩm đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của
tầng lớp thống trị và số phận những con người bị áp bức đau khổ, đặc biệc là số
phận bi kịch của người phụ nữ.
TK mang giá trị nhân đạo với những nội dung cơ bản: niềm thương cảm
sâu sắc trước những đau khổ của con người , sự lên án, tố cáo những thế lực tàn
bạo, sự trân trọng, đề cao con người từ vẻ đẹp hình thức, phẩm chất đến những
ước mơ, khát vọng chân chính.
Về nghệ thuật, TK có những thành tựu lớn về nhiều mặt, nổi bật là ngôn
ngữ và thể loại. Đến TK, tiếng Việt đã đạt đến trình độ đỉnh cao ngôn ngữ nghệ
thuật biểu đạt, biểu cảm và thẩm mĩ, kết hợp giữa ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ

bác học. Nghệ thuật tự sự, miêu tả trong tác phẩm thật đa dạng.
Ngày nay, Truyện Kiều vẫn đang được các nhà xuất bản in với số lượng
lớn, được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đánh giá
cao Truyện Kiều. Kiệt tác TK có sức chinh phục lớn đối với nhiều thế hệ độc
giả.
Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được giới thiệu nhìu nước trên
thế giới. Dịch giả người Pháp Rơ-ne-crir-sắc khi dịch Truyện Kiều đã viết bài
nghiên cứu dài 96 trang, có đoạn viết: "Kiệt tác của Nguyễn Du có thể so sánh
một cách xứng đáng với kiệt tác của bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào”. Ông so
sánh với văn học Pháp: “Trong tất cả các nền văn chương Pháp không một tác
phẩm nào được phổ thông, được toàn dân sùng kính và yêu chuộng bằng quyển
truyện này ở Việt Nam". Và ông kết luận: "Sung sướng thay bậc thi sĩ với một
tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động và ca vang tất cả tâm hồn của một
dân tộc". Năm 1965 được Hội đồng Hoà bình thế giới chọn làm năm kỷ niệm
200 năm năm sinh Nguyễn Du.
Nguyễn Du là nhà thơ sống hết mình, tư tưởng, tình cảm, tài năng nghệ
thuật của ông xuyên suốt các tác phẩm của ông, xuyên suốt cuộc đời ông và thể
hiện rõ nhất qua áng văn chương tuyệt vời là Truyện Kiều. Đọc Truyện Kiều ta
thấy xã hội, thấy đồng tiền và thấy một Nguyễn Du hàm ẩn trong từng chữ, từng
ý. Một Nguyễn Du thâm thuý, trải đời, một Nguyễn Du chan chứa nhân ái, hiểu
mình, hiểu đời, một Nguyễn Du nóng bỏng khát khao cuộc sống bình yên cho
dân tộc, cho nhân dân.
11
Đề 3.2: Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ
văn 9, tập I, em hãy phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân
đạo của Truyện Kiều.
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất
công, tàn bạo (nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là
tiếng nói của thương cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng

nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng,
nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người như khát vọng về
quyền sống, khát vọng tự do, công lý, khát vọng tình yêu hạnh phúc
Tiếng nói nhân đạo ấy toát lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong
truyện Thuý Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một
người con gái tài sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ
đày.
Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong
xã hội phong kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều
hội đủ những bi kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là
bi kịch tình yêu tan vỡ và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.
Tình yêu Kim Trọng- Thuý Kiều là một tình yêu lí tưởng với “Người
quốc sắc,kẻ thiên tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”,
“nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn được-
tuy “màn đoàn viên” có hậu về cơ bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa
sầu”. Hạnh phúc nàng toan được nắm trong tay thì cuộc đời cướp mất.
Kiều là người luôn có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà
đạp về nhân phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ buôn người họ Mã “cò kè
bớt một thêm hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh,
phải “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều
chính là: “Thân lươn bao quản lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”.
Có nổi đau nào lớn hơn khi con người trọng nhân phẩm, luôn có ý thức về nhân
phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ nhân phẩm?
Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những
bi kịch nối tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi
xuống, bị đạp xuống sâu thêm một tầng nữa.
Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của
Kiều đã đạt tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử
dụng bút pháp ước lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hoá để trân trọng một vẽ
đẹp. “ Một hai nghiêng nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ

hai”.
Tâm hồn đẹp đẽ của người con gái họ Vương thể hiện ở tấm lòng vị tha,
nhân hậu. Nàng hi sinh tình yêu để cứu gia đình, cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích,
Kiều nhớ tới cha mẹ với những tình cảm chân thực. Nàng tưởng tượng bóng
dáng tội nghiệp “Tựa cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt
không nguôi vì một nổi là không được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm
lạnh những ai đó giờ”. Thuý Kiều là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút
chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã trả ơn, hậu tạ những người cưu mang
mình, nhưng nàng vẫn thấy công ơn đó không gì có thể đền đáp nổi “Nghìn
vàng gọi chút lễ thường-mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân”.
12
Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh
phúc và khát vọng về quyền sống.
Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối
quan hệ Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện
nói với nhau một lời, mà mối tình không lời ấy đã như một chén rượu nồng,
khiến người ta choáng váng đê mê:
“Tình trong như đã mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê ”
Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân
nàng thoăn thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo
vườn khuya một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng.
Ng.Du đã dành tất cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm
có một khong hai trong lịch sử văn học Việt Nam.
Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do ,
chủ động của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt
của cha mẹ, Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo
bạo, chủ động nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.
Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện
cho con người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến

tháng, tư thế chính nghĩa:
“Nàng rằng: Lồng lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.
Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gỡ bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng
lên đòi quyền sống, đòi lẽ công bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự
sống và sự chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết
danh khác cũng như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ
khác Một bên nhiều khi con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã
vươn tới tư tưởng trị nhân dân và con người quyết định theo công lí của mình”-
(Cao Huy Đỉnh)
Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu
thương rất mực đề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con
người- đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất
công, tàn bạo và lễ giáo phong kiến.
13
Đề 4: Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rõ “Với bút pháp
tinh diệu, Nguyễn Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một
vẻ mười phân vẹn mười” mà dường như còn nói được cả tính cách, thân
phận toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng”.
Đoạn trích “Hai chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đầu của câu chuyện.
Trong đoạn trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của
chị em Thuý Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người
đọc có thể nhận thấy tấm lòng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với
nhân vật của mình. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều
xinh đẹp, nhưng “mỗi người (tài tình) mỗi vẻ” với dự báo trước số phận, tính
cách, cuộc đời của mỗi nhân vật, đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du giới thiệu vẻ đẹp chung về hai chị em với
bốn câu thơ:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân

Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Cả hai chị em đều có vẻ đẹp toàn mỹ, từ hình thức bên ngoài “Mai cốt
cách” đến vẻ đẹp bên trong tâm hồn “Tuyết tinh thần”. Vẻ đẹp của Thuý Vân
được miêu tả ở bốn câu thơ tiếp:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách toàn vẹn từ
khuôn mặt, nét ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý
Vân hiện ra qua những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung
đại. Nguyễn Du tập trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân.
Vẫn là cách thức quen thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm
chuẩn mực cho vẻ đẹp con người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét
vẻ thân tình của Nguyễn Du bỗng trở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong
đó quan niệm về tài sắc của chính nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp
đoan trang phúc hậu của Thuý Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường
nhịn “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”-như dự báo trước một cuộc
đời, một số phận êm đềm, hạnh phúc, bình yên của nàng.
Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng
vẻ đẹp và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã
khắc hoạ khá sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức
sống của Thuý Vân, biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời
yên ổn, vinh hoa, phú quý sẽ mỉm cười, vui vẻ đón nàng.
Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, không phải là chủ đích nghệ
thuật của tác giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ
thuật “tá khách hình chủ” để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật
trung tâm của tác phẩm.
Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” cả tài lẫn

sắc đạt tới mức tuyệt vời. Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua
14
ngòi bút miêu tả tài hoa của Ng Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc
nước hương trời đến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”.
Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi
non như sắc núi mùa xuân “làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Nếu như vẻ đẹp của
Thuý Vân trời xanh còn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều,
thiên nhiên tạo hoá cũng trở nên đố kị, ghen ghét
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Thiên nhiên đố kị, ghen ghét với nàng. Hồng nhan bạc mệnh, cái sắc đẹp
“sắc sảo mặn mà” khiến thiên nhiên cũng phải đố kị, ghen ghét ấy đã dự báo
trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng. Ng Du đã không tiếc lời ca
ngợi sắc đẹp và tài nghệ của nàng Kiều. Khác hẳn Thuý Vân, Th Kiều thông
minh, đa tài, đa cảm, một con người nhất mực tài hoa: Tài thơ, tài hoạ, tài đàn
của Th Kiều đạt tới mức tuyệt diệu:
“ Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm mộ tchương”.
Cả diện mạo bên ngoài và tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của
nàng Kiều.
Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm
“Tài hoa bạc mệnh” vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận
đận, đầy bất hạnh của nàng.
Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với
ngòi bút tài hoa, chắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động
hai bức chân dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ

tính cách, từng số phận riêng, không lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong
tâm hồn người đọc. Đây là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người
của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ rồi, với Truyện Kiều và nghệ thuật tả người đặc
sắc, tinh tế của Ng.Du, đã là bậc thầy làm rung động và sự cảm phục, trân trọng
của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc Ng.Du.
15
Đề 5: Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng:
Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.
Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh "êm đềm trướng rủ màn che",
Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ nàng
đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai
mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức
tranh tâm cảnh của kiều.
Sống nơi lầu Ngưng Bích là kiểu sống trong sự cô đơn tuyệt đối:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ "khóa xuân" đã nói lên điều
đó. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự
mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh
mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy
vào chốn lầu xanh ô nhục. Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe
tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật.
Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp
nhô lượn sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một
chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất
nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người,

không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn. Kiều chỉ có một
mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và
thời gian dài dặc, quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép
kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn
côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngắn, buồn tủi. Sớm và khuya, ngày và
đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm
bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp
những chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì tình riêng khiến
lòng như bị xé:
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của
Thúy Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao
tháng ngày gian khổ, sưng tấy.
Tạm quên đi những chia xẻ trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Đối với những quy định phong kiến. Kiều nhớ về người yêu rồi nhớ đến cha mẹ.
Trong lúc này, nỗi đau đớn tình người yêu vẫn còn da diết. Kỷ niệm còn mới
đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh mua chuộc, sớm bị đưa vào lầu
xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
16
Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng
đã hy sinh bán mình nên phần nào đã đền đáp được ơn sinh thành. Còn với Kim
Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỡ hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng
Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới
đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề
nguyền son sắt, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia đột
ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim rỉ máu. Kiều đau đớn hình dung
Kim Trọng vẫn ngày ngày hướng về nàng để chờ tin mà uổng công vô ích. Càng

nhớ chàng Kim bao nhiêu thì Kiều lại thương cho thân mình bấy nhiêu. Thương
mình bơ vơ bên trời góc bể, càng nuối tiếc mối tình đầu, càng hiểu rằng tấm son
mà nàng dành cho chàng Kim chẳng bao giờ nguôi ngoai. Không chỉ vậy mà
tấm son đã bị hoen ố của nàng đến khi nào mới rửa cho được. Trong nỗi nhớ còn
có cả nỗi xót xa, ân hận, tủi hổ. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn, Kiều đã tạm để nỗi
lòng mình lắng xuống và nhớ tới Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung
thủy của một con người.
Nếu khi nhớ tới Kim Trọng. Kiều "tưởng" thì khi nghĩ tới cha mẹ Kiều
"xót":
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nàng thương cha mẹ từ bấy đến nay vẫn sớm chiều tựa cửa chờ tin đứa con
lưu lạc. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể quạt nồng,
ấp lạnh, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh",
điển cố "Sân Lai, gốc tử" đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo
của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Cha mẹ thì mỗi
người thêm một già yếu mà nàng thì chẳng thể ở bên chăm sóc. Giờ đây khoảng
cách không gian giữa nàng và cha mẹ là cách mấy nắng mưa. Thiên nhiên không
chỉ tàn phá cảnh vật mà còn tán phá cả con người. Lần nào khi nhớ tới cha mẹ.
Kiều cũng nhớ ơn chín chữ cao sâu và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành
nuôi dưỡng của cha mẹ. Nỗi nhớ của nàng được gửi vào chiều dài thời gian, vào
chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm da diết, sâu xa. Dù đau buồn bất
hạnh nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha. Nàng là người tình
chung thủy, là người con rất mực hiếu thảo, là người có tấm lòng vị tha đáng
trọng. Hai nỗi nhớ được biểu hiện khác nhau đó cũng là sự cảm thông lạ lùng
của nhà thơ, tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du đối với con người.
Vẫn việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, những nỗi buồn
khác nhau với lí do buồn khác nhau, trong lòng Kiều đã buồn tác động lại khiến

càng buồn hơn và nỗi buồn ngày một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ẩm âm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
17
Tám câu thơ vừa là bức tranh tâm cảnh mà cũng là thực cảnh. Cảnh được
miêu tả theo kiểu tứ bình trong con mắt trông bốn bề và từ xa tới gần. Cảnh đầu
tiên mà Kiều trông thấy là bể lúc chiều hôm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian mênh mông và thời gian khi chiều tà muôn thuở gợi buồn. Giữa
khung cảnh ấy chỉ có một con thuyền vô định và hiện hữu với cánh buồm thấp
thoáng xa xa như một ảo ảnh. Cảnh đã gợi trong lòng người tha thương nỗi buồn
nhớ về cha mẹ, quê nhà xa cách, nỗi cô đơn và khát khao sum họp. Cánh hoa
trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi trong lòng Kiều nỗi buồn về thân phận
trôi nổi, không biết rồi sẽ bị trôi dạt, bị vùi dập ra sao:
Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu!
Cánh hoa làm Kiều xót xa cho duyên phận, số kiếp của mình. Sau một cửa
biển một cách hoa giữa dòng nước là cảnh của một nội cỏ.
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cả một nội cỏ trải ra mênh mông nhưng khác với cỏ trong ngày Thanh
minh. Đó là "cỏ non xanh rợn trân trời", còn cỏ ở đây "dầu dầu". Một màu vàng
úa gợi tới sự héo tàn, buồn bã. Màu xanh nhàn nhạt trải dài từ mặt đất tới chân

mây không phải màu xanh của sự sống của hy vọng mà chỉ gợi nỗi chán ngán vô
vọng vì cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô quạnh này không biết bao giờ mới kết thúc.
Cảnh mờ mịt cũng giống như tương lai mờ mịt, thân phận nội cỏ hoa héo của
Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh con sóng nổi lên ầm ầm sau cơn gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tiếng sóng như báo trước sóng gió dữ dội của cuộc đời hay cũng chỉ là
tiếng kêu đau đớn của Kiều đồng vọng với thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà
còn lo sợ, kinh hãi như đang đứng trước sóng gió, bão táp của cuộc đời này sắp
đổ xuống đầu nàng. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm,
âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh ngày một rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ man
mác mông lung đến âu lo kinh sợ dồn đến bão táp nội tâm. Thiên nhiên chân
thực, sinh động nhưng mờ ảo bởi nó được nhìn theo quy luật "cảnh nào cảnh
chẳng đeo sầu, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Và đó cũng là hiện thân, là
tang vật của quá khứ khổ đau, hiện tại lẻ loi bất hạnh và báo hiệu một tương lai
khủng khiếp. Tất cả đều là hình ảnh về sự vô định, mong manh, vô vọng, sự trôi
dạt, bế tắc. Đoạn thơ gồm bốn cặp câu lục bát cũng là bốn cảnh và cặp câu được
liên kết nhớ điệp ngữ "buồn trông".
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
"Buồn trông" là nhìn xa mà trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay
đổi hiện tại nhưng trông mà vô vọng. "Buồn trông" có cái thoảng thốt lo âu, có
cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn, có cả sự dự cảm hãi hùng của người con gái lần đầu
lạc bước giữa cuộc đời ngang nửa. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh đứng sau
cùng các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, trào dâng lớp
18
lớp như những con sóng lòng. Điệp ngữ tạo nên những vần bằng, gợi âm hưởng
trầm buồn man mác, diễn tả nỗi buồn mênh mang sâu lắng, vô vọng đến vô tận.

"Buồn trông" trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng như điệp khúc của tâm
trạng. Bằng một gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ lên một bộ tứ bình
tâm trạng hết sức độc đáo và xúc động. Khúc ca khép lại đầy dư âm với hòa tấu
phức điệp của sóng biển, "sóng lòng", "sóng đời" đang vang lên những tiếng
gầm gào của hiểm họa như muốn hất tung, nhấn chìm người con gái cô đơn, tội
nghiệp trên điểm tựa chiếc ghế đời mỏng manh. Lúc này Kiều trở nên tuyệt
vọng, yếu đuối nhất để rồi sự bị lừa gạt và dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai
lượt, thanh y hai lần". Để thể hiện tâm trạng phức tạp mỗi nỗi buồn ôm trọn ba
nỗi buồn: buồn nhớ người yêu, buồn nhớ cha mẹ và buồn cho chính mình,
Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này" thật
độc đáo tạo nên đoạn thơ tuyệt bút với bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Tóm lại, Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về
ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự
báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc "thanh
lâu hai lượt, thanh y hai lần". Đoạn thơ có giá trị nhân bản sâu sắc đồng thời thể
hiện tấm lòng nhân hậu, cảm thương chia sẻ của Nguyễn Du với nỗi đau của
Thúy Kiều.
19
Đề 6: Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam
lỏng ở đấy, dùng “Mưu ma chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp
khách ở lầu xanh. Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề: gia
đình bị mắc oan, phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới
về làm lẽ và bị gã lừa gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà sỉ nhục và dở
trò đánh đập để ra uy. Từ tâm trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngoài, do đó,
những ghi nhận về cảnh là những ghi nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó,
người đọc càng hiểu sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi.
Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với
Mã. Thật ra Mã mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã
nổi giận đùng đùng, đánh đập Kiều, bắt Kiều tiếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối,
bị hành hạ, Kiều quyết định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể “đi đời nhà
ma” Tú Bà dùng thủ đoạn khuyên nhủ, dỗ dành và hứa sẽ tìm một nơi xứng
đáng cho nàng về sau, Tú Bà đưa Kiều về lầu Ngưng Bích.
Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức người tình
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương trông mai chờ”. Nàng nghĩ
về cha mẹ tuổi già bóng xế “Xót thương quạt nồng đó giờ?”
Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh
mông của biển cả. Từ trong cảnh soi vào lòng mình hiện tại, Kiều gặp lại lòng
mình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?”
Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám của ban
chiều, có những cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền
hướng về đất liền. Từ nội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai
đó”,”Trong những chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh
và con người. Đang trông vọng một nỗi hội tụ mà sao lại cách biệt, chia li làm
vậy?
Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là nỗi
khắc khoải, xoáy sâu vào lòng Kiều:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Trông ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trôi dạt. Có thật là

cánh hoa chăng? Không phải vậy! Người đọc cảm nhận được trong dòng nước
đang cuồn cuộn chảy kia “nhiều cánh hoa trôi dạt”. Cũng có thể là cánh hoa,
cũng có thể là dòng nước cuồn cuộn thiếu gì những bọt bèo trôi nổi. Trong cái
mênh mông vô định, cái cảnh “ nước chảy, hoa trôi lỡ làng” ấy gắn hợp với
20
thân phận con người bị ném vào cảnh sống đầy biến động, đầy bất công và bạc
ác - thân phận Thuý Kiều, chúng ta mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều
trong lúc này. Lời thơ rất giản dị và hình ảnh ẩn dụ sắc sảo về cuộc đời- cuộc
đời người đàn bà (như người đời thường quan niệm “đời hoa”). Nhiều lần Kiều
cũng tự ví mình “Hoa trôi, bèo dạt đã đành. Biết duyên mình, biết phận mình thế
thôi”
Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.
Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân
biệt. Mà làm sao phân biệt được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa
cái mênh mông, bát ngát trong lúc tâm hồn còn nhiều ngổn ngang như thế. Và
cuối cùng:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang
“ầm ầm” kêu quanh nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ
tưởng như không ngồi trên đất liền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn
phía “ầm ầm tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ không phải là âm
thanh của tiếng sóng bình thường: sóng vỗ, sóng xô, sóng dào dạt, mà “tiếng
sóng kêu” ầm ầm tứ phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật
dữ dội sẽ ập đến với Thuý Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang
chờ đợi nàng.
Đoạn thơ này hay không những vì đã khái quát được tâm trạng của nàng
Kiều khi ở lầu Ngưng Bích mà còn mở ra những điều dự báo về sau của cuộc

đời nàng.
Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu
thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” càng khẳng định ngòi bút tài
hoa của Nguyễn Du trong bút pháp tả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi cảm,
để lại ấn tượng sâu lắng trong lòng người đọc xưa và nay, thấm đẫm tinh thần
nhân đạo sâu sắc.

21
Đề 7: Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.
(Ngữ văn 9 - tập I)
Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim
Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giá hoạ. Không đành lòng để cho gia
đình tan nát, Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình
để lấy tiền cứu cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám
Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp
nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở
Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán người, qua đó “lột mặt nạ”
của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười
lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét, Nguyễn Du đã lột tả
bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch
này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn
danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người
viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến quê quán. Và ngòi bút thần tình
của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung và cái bản chất, giả
dối , vô học, bất nhân, vì tiền ghê tởm của họ Mã.
Được mụ mối giới thiệu là «viễn khách », tức là khách ở nơi xa đến đưa
đến để « vấn danh », để ăn hỏi và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng :
Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Khách tự giới thiệu mình là kẻ sĩ, tức là sinh viên trường Quốc Tử Giám,
chỉ nói họ, không xưng tên rất kiểu cách quí tộc ; sau đó giới thiệu quê hương
bản quán : huyện Lâm Thanh cũng gần. Hai chữ rằng nối tiếp nhau xuất hiện
biểu lộ một thái độ hợm hĩnh, coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp
của viễn khách cộc lốc, vô lễ, thật khiếm nhã :
Hỏi tên, rằng : Mã Giám Sinh,
Hỏi quê, rằng : Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Đọc « Truyện Kiều », ta mới thấu hiểu rõ nguồn gốc viễn khách. Y với
mụ Tú Bà là những kẻ «Làng chơi đã trở về già hết duyên », sống ở Lâm Tri
« Quanh năm buôn bán phấn hương đã lề » . Sinh viên trường Quốc Tử Giám,
quê huyện Lâm Thanh cũng gần mà họ Mã giới thiệu thực chất chỉ là sự khoe
mẽ, giả dối.
Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã :
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu
nhẵn nhụi” chải chuốt, lố lăng rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến
nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng
khinh.
Mới được mụ mối rước vào lầu trang và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ
sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học,
thô lỗ của hắn. Ghế trên là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc
22
huynh trưởng đánh kính. Kẻ đi hỏi vợ là hàng con cái mà lại ngồi tót thì thật
chướng mắt, vô lễ.
Bản chất bất nhân, vì tiền của Mã Giám Sinh bộc lộ qua cảnh mua bán
Thuý Kiều. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng

diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất
đích thực của một tên “buôn thịt bán người”.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng
chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân
tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ
kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất
con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản
chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ
thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám
Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
MGS hiện lên qua ngôn ngữ miêu tả trực diện của tác giả. Hình ảnh nhân
vật phản diện được miêu tả bằng nét bút hiện thực, hòan chỉnh cả diện mạo và
tính cách. Nhân vật MGS được khắc hoạ thật cụ thể, sinh động, đồng thời lại
mang ý nghĩa khái quát về một loại người giả dối, vô học, bất nhân.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý Kiều hiện ra với tất cả những buồn
khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh
“êm đềm trướng rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang
ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập
đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua
bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ
éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió, e sương,

Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia
đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra
trước sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa
rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không
xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ
giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách
xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như
cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và
theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn ,
làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự
nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của
23
Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu
được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về
nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất
trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” - tình duyên dang dở, uất
bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau
đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là
cảnh “cành hoa đem bán cho thuyền lái buôn”
Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du
đã khắc hoạ được tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện
của Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân
phẩm của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan
trái của Thuý Kiều ngay từ buổi đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.
24
Đề 8 : Phân tích đoạn trích «Cảnh ngày xuân »
Trang thơ của Nguyễn Du đang mở rộng trước mắt chúng ta. Có phải

không, sau bức chân dung giai nhân là bức hoạ về cảnh sắc mùa xuân trong tiết
thanh minh và cảnh du xuân của trai tài gái sắc, của chị em Thuý Kiều ? Đoạn
thơ «Cảnh ngày xuân» gồm có 18 câu, từ câu 39 đến câu 56 của Truyện Kiều
tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật tả cảnh và tả tình của thi hào Nguyễn Du. Một
vẻ đẹp thanh xuân, một niềm vui xôn xao, náo nức cứ dâng lên, cứ lan toả rồi
lắng dịu mãi trong lòng ta khi đọc đoạn thơ này.
Bốn câu thơ đầu mở ra một không gian hữu sắc, hữu hương, hữu tình, nên
thơ. Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như đưa
thoi. Cánh én mùa xuân thân mật biết bao. Hai chữ đưa thoi rất gợi hình, gợi
cảm. Cánh én như con thoi vút qua, vút lại, chao liệng ; thời gian đang trôi
nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh :
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là thiều quang của mùa xuân khi « chín
chục đã ngoài sáu mươi», mùa xuân đã bước sang tháng ba. Hai chữ « thiều
quang» gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh
mông bao la của đất trời.
Mùa xuân còn là sắc «xanh » mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải dài,
trải rộng như tấm thảm «tận chân trời ». Là sắc « trắng » tinh khôi, thanh khiết
của hoa lê nở lác đác, chỉ mới hé lộ, khoe sắc, khoe hương « một vài bông
hoa » :
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo :
« Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa ». Hai chữ «trắng điểm » là
nhãn tự, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân
trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa ; bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình : trên
cái nền xanh của cỏ non là một vài bông hoa lê « trắng điểm ». Giữa diện và

điểm, giữa nền xanh và sắc trắng của cảnh vật mùa xuân là những cánh én đưa
thoi, là màu hồng của ánh thiều quang, là khát vọng mùa xuân ngây ngất, say
đắm lòng người.
Cảnh mùa xuân là bức tranh hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút của Nguyễn Du
để lại cho đời, điểm tô cho cuộc sống mỗi chúng ta.
Tám câu thơ tiếp theo tả cảnh trẩy hội muà xuân :
Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Điệp ngữ « lễ là hội là » gợi lên những cảnh lễ hội dân gian cứ liên
tiếp diễn ra bao đời nay. Cảnh trảy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt. Trên các
nẻo đường gần xa những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao yến anh
trảy hội trong niềm vui nô nức, hồ hởi, giục giã. Có biết bao tài tử, giai nhân
dập dìu vai sánh vai, chân nối chân nhịp bước. Dòng người trẩy hội tấp nập
ngựa xe cuồn cuộn như nước, áo quần đẹp đẽ, tươi thắm sắc màu, nghìn nghịt
đông vui trên các nẻo đường như nêm. Các từ ngữ nô nức, dập dìu, các ẩn dụ
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×