Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.01 KB, 13 trang )

THẢO LUẬN MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM.
A- LÍ THUYẾT CHUNG.
I- TÌM HIỂU CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1, Khái niệm và kết cấu của hệ thống chính trị.
a, Khái niệm.
Hệ thống chính trị là một hệ thống cơ cấu gồm nhà nước, các đảng phái, đoàn
thể, các tổ chức chính trị xã hội và hoạt động trên khuôn khổ pháp luật hiện
hành được chế định theo tư tưởng của giai cấp cầm quyền và tất nhiên là nó có
sự tác động vào kinh tế xã hội duy trì và phát triển xã hội đó.
b, Kết cấu.
Bên cạnh đó, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền. Hệ thống chính trị hiện nay ra đời từ khi thiết lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa, gồm các cấu thành quyền lực chính trị sau: Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, Nhân dân trong hệ thống
chính trị, Hiến pháp.
- Đảng Cộng sản Việt Nam: Là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, vừa là lực lượng hợp thành, vừa là lực lượng
lãnh đạo hệ thống chính trị XHCN, bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ
được bản chất giai cấp công nhân và bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân
dân.

- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa : là tổ chức trung tâm
và là trụ cột của hệ thống chính trị, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân quản lý toàn bộ
hoạt động của đời sống xã hội và thực hiện chức năng đối nội, đối ngoại.


- Các tổ chức chính trị-xã hội và đoàn thể nhân dân: Đây là
những tổ chức đại diện cho lợi ích của các cộng đồng xã hội khác nhau


tham gia vào hệ thống chính trị theo tôn chỉ, mục đích, tính chất của từng
tổ chức. Ở Việt Nam hiện có 5 tổ chức chính trị-xã hội gồm: Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh. Ngoài ra còn có nhiều tổ
chức xã hội và các đoàn thể nhân dân khác.
- Nhân dân trong hệ thống chính trị: Với tư cách là người sáng
tạo lịch sử, nhân dân là lực lượng quyết định trong quá trình biến đổi xã
hội, hình thành nên hệ thống chính trị hiện nay ở Việt Nam. Mọi quyền lực
đều thuộc về nhân dân và họ thực hiện quyền lực của mình chủ yếu thông
qua Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam.

- Hiến Pháp: Hiến pháp Việt Nam hiện nay được Quốc hội
khóa VIII thông qua năm 1992 (bổ sung, sửa đổi vào năm 2001 tại kỳ họp
thứ 10 Quốc hội khóa X). Hiến Pháp năm 1992 là sự kế thừa và phát triển
các bản Hiến Pháp trước đó (1946, 1959, 1980). Sự ra đời của Hiến pháp
1992 là bước phát triển quan trọng trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Hiến
pháp 1992 là văn bản pháp luật nền tảng và có giá trị cao nhất, thể chế hóa
những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế,
chính trị, khẳng định mục tiêu XHCN, thể chế hóa nền dân chủ XHCN và
các quyền tự do của công dân. Hiến pháp năm 1992 bao gồm Lời nói đầu,
7 chương và 147 điều quy định rõ Chế độ chính trị; Chế độ kinh tế; Văn
hóa-giáo dục, khoa học- công nghệ; Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân; Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ; Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân; Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân; Quốc kỳ, Quốc huy,
Quốc ca, Quốc khánh, Thủ đô; Sửa đổi Hiến pháp.
Hiến pháp chỉ rõ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước là
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nhà nước bảo đảm và không
ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân; thực hiện chính
sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Nhân dân sử dụng

quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đây là
những cơ quan do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của
nhân dân.Hiến Pháp trao cho mọi công dân (dù là nam hay nữ) quyền bình
đẳng như nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào;
quyền tự do đi lại và cư trú ở trên đất nước Việt Nam; quyền ra nước ngoài
và từ nước ngoài trở về theo quy định của pháp luật
2, Đặc điểm và vai trò của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
a, Đặc điểm.

Một là,các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ
trong hoạt động của từng tổ chức.

Hai là,hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh
đạo các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do
những phẩm chất của mình - Đảng là đại biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất
của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do những thành tựu rất to
lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Đảng làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập
hợp quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân
tự nguyện đi theo Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây
là đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị ở nước ta.

Ba là,hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính
trị ở nước ta thực hiện.

Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản
đảm bảo cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động
nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị.

Bốn là,hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân và tính nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.(Đây là đặc điểm khác biệt căn
bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị của các nước tư
bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất
lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như cả dân tộc, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh).

b, Vai trò và vị trí của hệ thống chính trị nước Việt Nam hiện nay.

Hiện nay ở Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể
chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng
là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính
trị nước ta có nhiều tổ chức vì vậy mà mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau
điều đó là do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức quy định, nhưng đều có
đặc điểm chung là cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã
hội  nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.

o Đảng Cộng sản Việt Nam:

- Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và
của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt
nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể
hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những

quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người
lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
- Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được
Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ
trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan
tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm
tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
- Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các
cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ
bằng việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu
cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các
đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết
phục và nêu gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện
tốt quy chế dân chủ

o Nhà nước:

- Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công
cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân,
chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống
xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện
đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm
bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
- Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn
hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất
có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội
quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của
bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước.
- Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính
phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của
Nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc
hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ
được gọi là cơ quan hành pháp.
- Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan
điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà
nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc
thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
- Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái
độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế
tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo
việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức
thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của

mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố,
kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà
án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
- Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời
coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì
vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

o Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội

- Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức
để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự
quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ
theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ
của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò
rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và
bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các
hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi
mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng;
phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân, tuyên
truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước, thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải
quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân: giữ vững và tăng
cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần
thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện
cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
- Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống

từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có
xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở
Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt
trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu
chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai
trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở
nước ta.
- Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc
tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-
xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.

II- SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1 . Hệ thống chính trị của nước ta hiện nay.
- Hơn 20 năm qua, hệ thống chính trị đã thực hiện có kết
quả một số đổi mới quan trọng, đặc biệt là quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng,
văn hoá được phát huy.
- Các kết quả đạt được đã khẳng định đường lối đổi mới
nóichung, đường lối đổi mới hệ thống chính trị nói riêng là
đúng đắn sáng tạo, phù hợp thực tiễn, bước đầu đáp ứng yêu
cầu của tình hình mới, khắc phục dần những khuyết, nhược
điểm của hệ thống chuyên chính vô sản trước đây. Kết quả đổi
mới hệ thống chính trị đã góp phần làm nên những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở nước ta.
- Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã

có những đổi mới đáng kể như: . Trình độ và năng lực làm chủ
của nhân dân từng bước được nâng lên.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Nhà nước được
phân định rõ hơn, phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản
xuất kinh doanh. Nhà nước được từng bước kiện toàn, từ cơ cấu
tổ chức đến cơ chế hoạt động trên các lĩnh vực lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của
Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì
dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được
phát huy
Song, bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược
điểm đó là: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều
hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa
nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước,
đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho đơn giản và nâng cao chất lượng, còn
nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác
tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng,
chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị
chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một số cán bộ, đảng viên phai nhạt
lí tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ
chức cơ sở của đảng chưa cao. Ngoài ra, hệ thống chính trị ở cơ sở nước ta hiện
nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức
thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất đoàn
kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương,
phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm
vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch,

tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn
nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp
Hơn nữa, đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng, chính sách đối với
cán bộ ít được đào tạo,bồi dưỡng, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.
Và còn rất nhiều bất cập khác nữa…
Tất cả những yếu tố trên gây ảnh hưởng trực tiếp đén sự phát triển kinh tế của
nước nhà. Nếu hệ thống chính trị của đất nước yếu kém thì đương nhiên sẽ gây
cho nền kinh tế sự suy giảm mà ta không thể lường trước được  vì vậy mà ta
cần phải xây dựng một hệ thống chính trị
 Chính vì những nhược điểm nêu trên đã trả lời câu hỏi tại sao
chúng ta phải đổi mới hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị có tác động
trực tiếp tới sự phát triển kinh tế của đất nước. Nên đổi mới chính trị
cho hoàn thiện hơn sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta đi lên.

2. Sự tác động của đổi mới chính trị Việt Nam tới sự phát triển kinh tế.
Sự tác động của đổi mới hệ thống chính trị tới sự phát triển kinh tế của nước ta,
hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau nó là sự biểu hiện của mối quan
hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội, đó là kinh tế và chính trị. Ta
cần phải nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị để nâng
cao trính độ tư duy lí luận đồng thời, phải sâu sát thực tiễn biết phân tích cụ thể
từng tình hình mà công cuộc đổi mới phát triển mà đất nước tạo ra.
Nội dung cơ bản của đổi mới kinh tế ở nước ta là chuyển từ mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và bên cạnh đó thì nội dung đổi mới chính trị của nước ta là đổi mới tư duy và
lí luận , hoạt động thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội trong đó trọng tâm là đổi mới hệ thống chính trị. Vì vậy, đảng ta đã khởi
đầu công cuộc đổi mới bằng đổi mới toàn diện và chú trọng giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế để đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân về
đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất – kĩ

thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi
đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Ngoài ra, sự tác động của đổi mới hệ thống chính trị tới sự phát triển kinh tế rất
to lớn vì chính trị đụng chạm đến các mối quan hệ đặc biệt phức tạp và nhạy
cảm trong xã hội ví dụ như là mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Mĩ ảnh
hưởng như thế nào tới việc xuất nhập khẩu giữa hai nước mà ta sẽ nói ở phần
kế tiếp.
Cũng có thể nói đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện để thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội và thực hiện dân chủ.
Đại hội X năm 2006 có nhiệm vụ là tổng kết 20 năm đổi mới. Với sự từng trải
của đội tiền phong dẫn dắt đất nước, dân tộc vượt qua khủng hoảng và nhiều
thách thức lịch sử, Đảng ta khẳng định: “ Đổi mới toàn diện đồng bộ, có kế
thừa, có bước đi, hình thức và chách làm phù hợp đổi mới tất cả các mặt xã hội
của đời sống xã hộ nhưng phải có trọng tâm, có trọng điểm đó là lấy phát triển
kinh tế. Do hệ thống chính trị có tác động trực tiếp tới sự phát triển kinh tế nên
ta cần phải xây dựng và vận hành nền kinh tế thị trường cho phù hợp với chế độ
chính trị xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ lịch sử kinh tế thị trường trong suốt hàng
trăm năm qua đã chứng minh rằng bản thân nền kinh tế rất cần sự quản lí và
điều tiết của nhà nước, bàn tay vô hình của cơ chế thị trường hoàn toàn không
đủ để vận hành nền kinh tế thị trường mà cần phải có bàn tay hữu hình của bộ
máy nhà nước do từng chế độ chính trị, chế độ xã hội xây dựng nên.
III- QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ MĨ
TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC XUẤT NHẬP KHẨU GIỮA HAI
NƯỚC.
Trong khi thực hiện đường lối đối ngoại độc lập ,tự chủ và rộng mở với phương
châm “sẵn sàng là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng động
quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, thêm bạn bớt thù, chúng
ta đã nỗ lực bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Với việc đó , chúng ta đã khẳng
định và tăng cường rõ rệt vị thế của đất nước Việt Nam. Từ chỗ bị bao vây cấm
vận, quan hệ kinh tế thương mại bị hạn chế, ngày nay cùng một lúc nước ta đã

có quan hệ bình thường và ngày càng phát triển với tất cả các nước lớn và trung
tâm tg, và với đại đa số các nước khác. Việt nam trở thành thành viên bình
đẳng, tham gia tích cực vào các quan hệ quôc tế, có vai trò không nhỏ trong
việc giải quyết các vấn đề quan trọng của khu vực và thế giới, là đối tác và bạn
hàng lớn của rất nhiều nước, kể cả với Mỹ.Đây là cục diện chưa từng có.( Đại
sứ Nguyễn Tâm chiến cho biết).
Trong năm 2010, Việt Nam và Mỹ sẽ tổ chức đánh giá 15 năm bình thường
hóa quan hệ Việt- Mỹ.
* Đại sứ Lê Công Phụng cũng cho biết: 15 năm qua, quan hệ hai bên đã
chuyển từ xung đột sang hợp tác hữu nghị, phát triển rất nhanh trên tất cả các
lĩnh vực. Chúng ta hiện nay đang phối hợp chặt chẽ với Mỹ để chuẩn bị kỷ
niệm 15 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Bộ Ngoại giao Mỹ bày tỏ mong
muốn hai nước tổ chức kỷ niệm 15 năm thực sự có ý nghĩa, để tạo không khí
mới ở Việt Nam cũng như ở Mỹ trong việc thúc đẩy và làm sâu sắc hơn, hiệu
quả hơn mối quan hệ giữa hai bên.
Việt Nam sẽ tổ chức trang trọng sự kiện này. Chúng ta mong muốn mời các
nhân vật có đóng góp lớn về thúc đẩy quan hệ Việt- Mỹ sang Việt Nam như
Cựu Tổng thống Clinton, người đã bình thường hóa quan hệ Việt- Mỹ, cựu
Tổng thống Bush, người đã thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ này. Trong thời
gian tới, dựa trên những gì đã có chúng ta đẩy mạnh hơn mối quan hệ này. Nếu
triển khai tốt nó sẽ đem lại lợi thế cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế,
giáo dục cũng như triển khai chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Dự kiến, năm 2010 sẽ là năm bận rộn hơn, quan hệ hợp tác sôi động hơn, tạo đà
mới cho thập kỷ tới.
Việc xác lập quan hệ bình thường với Mỹ ,một trung tâm lớn về kinh tế, có
trình độ khoa học-công nghệ và kỹ thuật tiên tiến,là tạo điều kiện cho doanh
nghiệp của ta có cơ hội tìm kiếm thêm thị trường mới cho xuất khẩu hàng hoá
của Việt Nam, cũng như thị trường cho nhập khẩu thiết bị máy móc công nghệ
cao cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Mỹ cũng là trung tâm về giáo dục
và đào tạo của tg. với nhiều nguồn lực mà chúng ta có thể hợp tác cùng có lợi.

Theo số liệu cập nhật của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC), kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ trong 2 tháng đầu năm 2008 đạt
1,96 tỷ USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đây là tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số các nền kinh tế ở Đông Á có xuất
khẩu lớn sang Hoa Kỳ. Chỉ có Ấn Độ là cũng đạt mức gia tăng ấn tượng ở con
số 20%, còn Trung Quốc, Hàn Quốc và Malaysia đều có sự suy giảm rõ rệt về
tốc độ tăng trưởng.
Như vậy, đứng trước sự suy giảm về kinh tế ở Hoa Kỳ, hàng xuất khẩu của
Việt Nam sang thị trường này vẫn tiếp tục đi lên một cách mạnh mẽ so với
nhiều nền kinh tế khác trong khu vực.

Ngoại trừ sự suy giảm của cà phê và sự tăng chậm của máy móc thiết bị, các
nhóm hàng xuất khẩu khác đều có tốc độ tăng trên hai chữ số. May mặc và đồ
nội thất, hai nhóm hàng chủ lực, tăng tới 45% và 29%. Thủy sản, sau khi chững
lại trong năm 2007, cũng tăng trở lại với tốc độ 24,5%.
Kết quả là kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang Hoa Kỳ trong hai tháng đầu
năm 2008 đã bằng gần 19% tổng kim ngạch của cả năm 2007.
Tuy nhiên, số liệu của USITC mới chỉ có đến hết tháng 2 năm 2008. Đó là
thời điểm trước khi Chính phủ chỉ thị thắt chặt tín dụng nội địa để chống lạm
phát và các ngân hàng thương mại đẩy lãi suất cho vay lên cao.
Tín hiệu khả quan về xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm cho thấy trong khi chi
tiêu công cũng như tín dụng cho các lĩnh vực đầu tư bất động sản và chứng
khoán phải được kiềm chế một cách kiên quyết thì Chính phủ vẫn phải đảm bảo
các danh nghiệp sản xuất hàng xuất không bị cắt khỏi nguồn vốn vay ngân
hàng.
Nền kinh tế Việt Nam trong năm 2008 chắc chắn sẽ không nhận được nhiều
cú huých mạnh mẽ từ việc gia tăng đầu tư như những năm trước. Nhưng nếu
xuất khẩu vẫn được duy trì ngay cả khi kinh tế toàn cầu đi xuống, thì tăng
trưởng GDP cũng sẽ không bị suy giảm nhiều.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ


2006 2007 Tháng
1&2/2007
Tháng
1&2/2008
2007 so
với 2006
T1&2/2008
so cùng kỳ
May mặc 3.152 4.292 559 812 36,2 45,3
Đồ gỗ nội thất 902 1.229 191 246 36,3 28,8
Dầu thô 956 697 123 141 -27,1 14,6
Thủy sản 651 692 102 127 6,3 24,5
Cà phê 240 340 80 71 41,7 -11,3
Hoa quả 154 201 20 33 30,5 65,0
Máy móc thiết
bị điện
210 350 49 52 66,7 6,1
Máy móc thiết
bị cơ khí
222 287 36 34 29,3 -5,6
Tổng kim ngạch
xuất khẩu
8.463 10.541 1539 1958 24,6 27,2
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Nguồn: Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC)
** Lĩnh vực Xuất khẩu
Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong quí I/2009, chiếm
16,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tiếp đến là EU, ASEAN, Nhật
Bản.

Nhưng xuất khẩu vào Mỹ giảm 6,4%, hay giảm khoảng 157 triệu USD; xuất
khẩu vào EU giảm 9,8% , hay giảm 239 triệu USD (chủ yếu là giày dép,
thuỷ sản, gỗ và sản phẩm gỗ); xuất khẩu vào ASEAN giảm 5,8%, hay giảm 129
triệu USD (trong đó dầu thô giảm 41,6%, điện tử, máy tính và linh kiện giảm
26,1%, dây điện và cáp điện giảm 47,1%, gỗ và sản phẩm gỗ giảm 10,3%,
riêng gạo tăng 104%, hàng dệt may tăng 27,7%); Nhật Bản giảm tới 35%, hay
giảm 700 triệu USD.
Chỉ có 5 thị trường trên đạt 7,9 tỷ USD, chiếm 55,9% tổng kim ngạch xuất
khẩu, giảm 13,4% hay giảm trên 1,2 tỷ USD. Các thị trường còn lại đạt trên 6,2
tỷ USD, tăng khoảng 54%.
Quan hệ phát triển
Một loạt các lĩnh vực hợp tác mà ông Thanh và Michalak được cho là bày tỏ sự
hài lòng còn có chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học và
công nghệ.
Một báo cáo của Cơ quan Nghiên cứu Quốc hội (CRS) Hoa Kỳ ra hồi mùa hè
nhận định Việt Nam muốn nâng cấp quan hệ với Washington do mong muốn
vào thị trường Mỹ và cũng do lo ngại về ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung
Quốc ở Đông Nam Á.
Trong năm 2008, Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam
và mang về cho Hà Nội hơn 12,6 tỷ đô la so với khoản nhập khẩu hơn 2,6 tỷ đô
la từ Mỹ.
Báo cáo của CRS nhận định về khả năng phát triển quan hệ Việt Mĩ: "Cuối
cùng thì tốc độ và mức độ của việc cải thiện quan hệ song phương hầu như sẽ
bị giới hạn bởi một số yếu tố trong đó có sự lo ngại của Hà Nội rằng họ sẽ làm
phật lòng Bắc Kinh, sự giám sát tình hình nhân quyền ở Việt Nam từ phía Hoa
Kỳ, sự ngần ngại của những người bảo thủ khi quan hệ với Mỹ và mối nghi
ngại của giới bảo thủ Việt Nam rằng mục tiêu dài hạn của Hoa Kỳ là kết thúc
sự độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền lực thông qua chiến lược
"diễn biến hòa bình".
(TTXVN) Bộ Thương mại Mỹ vừa công bố số liệu chính thức cho thấy kim

ngạch trao đổi thương mại hai chiều Mỹ - Việt Nam trong năm 2008 đạt 15.283
triệu USD, tăng 23,61% so với năm 2007 Trong tổng kim ngạch thương mại
hai chiều này, Việt Nam xuất sang Mỹ đạt 12.610 triệu USD, tăng 19,60% so
với năm trước và Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam đạt 2.673 triệu USD, tăng
46,60% so với năm 2007.
Những nhóm hàng Việt Nam xuất sang Mỹ có giá trị và tỷ lệ tăng cao so với
năm 2007 là dệt may: 5.265 triệu USD, tăng 19,97%; đồ gỗ: 1.456 triệu USD,
tăng 18,5 %; giày dép: 1.211 triệu USD, tăng 17,5%. Đây cũng là những nhóm
hàng có kim ngạch xuất khẩu cả năm vượt 1 tỷ USD. Đứng thấp nhất về giá trị
trong 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là đồ chơi, dụng
cụ thể thao và phụ tùng, đạt hơn 81 triệu USD.
Cũng theo Bộ Thương mại Mỹ, 14 trong 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của
Mỹ sang Việt Nam trong năm 2008 có giá trị tăng so với năm 2007, chỉ có
nhóm các loại quả, hạt ăn được và vỏ cam là giảm 9,7% về giá trị xuất khẩu so
với năm trước. Đứng đầu về giá trị của 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của
Mỹ sang Việt Nam là xe và phương tiện giao thông đạt hơn 322 triệu USD,
tăng 30% so với năm 2007. Nhóm hàng thịt và nội tạng dùng làm thực phẩm
của Mỹ xuất sang Việt Nam đạt mức tăng trưởng cao nhất với 230 triệu USD,
tăng 299,5% so với năm 2007./.
Trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư, trong bối cảnh khủng hoảng
kinh tế - tài chính toàn cầu, mặc dù nhập khẩu của Mỹ giảm trên 30% trong
năm 2009, nhưng riêng nhập khẩu của Mỹ từ Việt Nam giảm rất ít, chỉ 1,8%,
chủ yếu do giá cả giảm, còn về khối lượng thậm chí có những mặt hàng còn cao
hơn trước đây. Mỹ là một trong những nhà đầu tư lớn trong số 83 quốc gia và
vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Riêng năm 2009, Mỹ là nhà đầu tư số một
ở Việt Nam.
Như vậy, quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và Mĩ tốt đẹp khiến cho việc xuất
nhập khẩu giữa hai nước được thuận tiện hơn, đặc biệt giúp cho nước ta có
được thêm nhiều cơ hội phát triển và chứng tỏ bản thân với các nước trên thế
giới.

×