Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.44 KB, 22 trang )

Khoa Sư Phạm Tâm Lý Học Đại Cương
Tác giả: Trần Thị Diễm Thuý Biên mục: sdms
Giới thiệu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG
Người biên soạn
TRẦN THỊ DIỄM THÚY
Phần I: Tâm lý học đại cương
Bài 1: Tâm lý học là một khoa học
I. ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÝ HỌC:
1. Tâm lý học là gì?
Tâm lý học là khoa học nghiên cứu tâm lý. Khoa học tâm lý ra đời từ năm 1879, chủ yếu nghiên cứu đời sống tâm hồn
của con người.
2. Đối tượng của tâm lý học:
Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là toàn bộ đời sống tâm lý của con người như: cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng
tượng, trí nhớ, tình cảm, nhu cầu, hứng thú, năng lực, khí chất, tính cách…
II. BẢN CHẤT HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ NGƯỜI:
1.Tâm lý có bản chất phản ánh: Tâm lý là hình ảnh của từng người về hiện thực khách quan.
Tất cả các hiện tượng tâm lý, từ những hiện tượng tâm lý đơn giản đến những thuộc tính, phẩm chất phức tạp của nhân
cách con người đều tồn tại ở trong não dưới dạng hình ảnh này hay hình ảnh khác với mức độ phức tạp khác nhau. Điều
kiện đầu tiên để có các hình ảnh đó là phải có các hiện tượng, sự vật khách quan của thế giới bên ngoài tác động tới các
giác quan và não bộ bình thường của con người.
Tâm lý mang tính chủ quan của từng người. Tâm lý là phản ánh tồn tại khách quan, nhưng sự phản ánh tâm lý không
máy móc, nguyên xi như phản ánh cơ học, mà tâm lý là tổng hoà các hình ảnh chủ quan ( hình ảnh tâm lý) về tồn tại
khách quan.
2. Bản chất xã hội – lịch sử của tâm lý.
Để tồn tại và phát triển, thế hệ trước đã truyền đạt kinh nghiệm xã hội- lịch sử cho thế hệ sau. Thế hệ sau tiếp thu những
kinh nghiệm và sáng tạo nên những giá trị vật chất, tinh thần mới. Qua đó tâm lý con người được hình thành và phát triển
Con người tiếp thu nền văn minh nhân loại và biến thành tâm lý của bản thân. Tâm lý mỗi người có cái chung của loài
người, của dân tộc, của vùng, của địa phương nhưng cũng có cái riêng của mỗi con người cụ thể.
Như vậy, mỗi người có một đời sống tâm lý riêng, một tâm hồn riêng. Tâm lý mỗi người là kinh nghiệm xã hội- lịch sử


chuyển thành kinh nghiệm của bản thân.
3. Tâm lý có bản chất phản xạ.
Tất cả các hình ảnh tâm lý, các kinh nghiệm sống bản thân đều tồn tại trong não bộ. Nhưng không phải cứ có não là có
tâm lý. Muốn có tâm lý phải có tồn tại khách quan tác động vào não và não người phải tiếp nhận được tác động ấy.
Để tiếp nhận tác động từ bên ngoài vào, não phải hoạt động. Não hoạt động theo cơ chế phản xạ. Phản xạ có bốn khâu:
Khâu dẫn vào, khâu trung tâm, khâu dẫn ra, khâu liên hệ ngược.
Có hai loại phản xạ: phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Phản xạ không điều kiện là cơ sở sinh lý thần kinh
của bản năng, phản xạ có điều kiện là cơ sở sinh lý của các các hoạt động tâm lý khác, đặc trưng của con người. Nhưng
mỗi hiện tượng tâm lý không phải gồm một phản xạ có điều kiện mà gồm nhiều hoặc một hệ thống phản xạ có điều kiện.
Như vậy, muốn có tâm lý nhất thiết phải có phản xạ, đặc biệt là phản xạ có điều kiện. Tâm lý có bản chất phản xạ.
III.CÁC LOẠI HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ:
Có nhiều cách phân loại các hiện tượng tâm lý:
1. Cách phân loại phổ biến trong các tài liệu tâm lý học là việc phân loại các hiện tượng tâm lý theo thời gian tồn tại
của chúng và vị trí tương đối của chúng trong nhân cách. Theo cách phân loại này, các hiện tượng tâm lý có ba
loại chính:
1. Các quá trình tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến, kết
thúc tương đối rõ ràng. Người ta phân biệt thành ba quá trình tâm lý:
• Các quá trình nhận thức gồm cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy.
• Các quá trình cảm xúc biểu thị sự vui mừng hay tức giận, dễ chịu hay khó chịu…
• Quá trình hành động ý chí.
1. Các trạng thái tâm lý là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối dài, việc mở đầu và kết thúc
không rõ ràng, như: chú ý, tâm trạng…
2. Các thuộc tính tâm lý là những hiện tượng tâm lý tương đối ổn định, tạo thành những nét riêng của nhân cách.
Người ta thường nói tới bốn nhóm thuộc tính tâm lý cá nhân như: xu hướng, tính cách, khí chất và năng lực.
1. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý thành: các hiện tượng tâm lý có ý thức và các hiện tượng tâm lý chua
được ý thức.
2. Người ta còn phân biệt hiện tượng tâm lý thành: hiện tượng tâm lý sống động và hiện tượng tâm lý tiềm tàng.
3. Cũng có thể phân biệt hiện tượng tâm lý của cá nhân với hiện tượng tâm lý xã hội.
IV. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TÂM LÝ HỌC ĐỐI VỚI GIÁO VIÊN MẦM NON:
Người giáo viên là người tác động vào thế giới tâm hồn của trẻ thơ để hình thành và phát triển tâm lý, nhân cách trẻ. Vì

vậy, giáo viên phải hiểu biết thế giới tâm hồn trẻ thơ. Người giáo viên mầm non cần học tâm lý học để hiểu biết các đặc
điểm tâm lý, nhân cách của trẻ, từ đó định hướng đúng để đề ra phương pháp giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý của
từng trẻ.
Bài 2: Ý thức và vô thức
I. Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Ý thức là một hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ riêng con người mới có. Đó là khả năng con người hiểu được các
tri thức (hiểu biết) mà người đó đã tiếp thu được.
Có thể ví ý thức như “ cặp mắt thứ hai” soi vào kết quả (các hình ảnh tâm lý) do “cặp mắt thứ nhất“ (cảm giác, tri giác,
trí nhớ, tư duy, cảm xúc…) mang lại. Với ý nghĩa đó có thể nói: Ý thức là tồn tại được nhận thức.
2. Đặc điểm của ý thức:
• Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người đều được người đó nhận thức. Nghĩa là, con người biết rõ mình
đang làm gì, nghĩ gì, hiểu rõ hành vi của bản thân đúng hay sai, tốt hay xấu.
• Ý thức được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Con người dùng ngôn ngữ để nhận xét, đánh giá phân tích những hiện
tượng tâm lý của mình.
• Các hiện tượng tâm lý có ý thức của một người thường bao hàm thái độ ít nhiều rõ rệt của người ấy.
• Ở mức độ cao, ý thức thường được kèm theo sự dự kiến trước, tính có chủ định… và nhờ đó mà dẫn tới hành
động.
3. Sự hình thành và phát triển ý thức:
• Khác với con vật, con người không chỉ thích ứng một cách thụ động với môi trường không chỉ lấy những gì có
sẵn trong thiên nhiên mà con người chủ yếu tác động làm biến đổi thiên nhiên để tạo ra những sản phẩm thoả mãn
nhu cầu của mình. Sở dĩ con người làm được như vậy là nhờ lao động. Lao động là một quá trình đòi hỏi con
người phải thấy trước kết quả lao động, có chương trình lao động, có phương pháp lao động, biết phân tích đánh
giá kết quả lao động. Làm như vậy, chính là ý thức. Như vậy ý thức ra đời trong lao động.
• Khi lao động cùng nhau, con người cần phải nói với nhau ý muốn của họ, xác định mục đích của cả nhóm, cùng
nhau bàn bạc… Nhờ đó làm nảy sinh ngôn ngữ. Nhờ ngôn ngữ con người gọi tên sự vật, hiện tượng, đánh giá
hành vi, hành động của mình hay của cả nhóm. Như vậy ngôn ngữ là một yếu tố hình thành nên ý thức.
• Lao động là một dạng hoạt động tập thể. Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Vì vậy, ý thức ngay từ đầu là sản phẩm
của xã hội và luôn luôn là sản phẩm của xã hội. Cùng với lao động và ngôn ngữ, xã hội là yếu tố hình thành nên ý
thức.

• Ở mỗi người, ý thức hình thành bằng hoạt động của bản thân thông qua sản phẩm của hoạt động, trong quan hệ
giữa mình và người khác và sử dụng ngôn ngữ của mình làm công cụ.
II. VÔ THỨC:
1. Khái niệm:
Trong cuộc sống, cùng với các hiện tượng tâm lý có ý thức, chúng ta thường gặp những hiện tượng tâm lý chưa có ý thức
diễn ra chi phối hoạt động của con người (người mắc chứng mộng du, người bị thôi miên…). Hiện tượng tâm lý không ý
thức, chưa nhận thức được, trong tâm lý học gọi là vô thức.
Vô thức là các hiện tượng tâm lý mà con người chưa nhận thức được, không diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và
cho người khác hiểu.
2. Đặc điểm của vô thức:
• Con người không nhận thức được các hiện tượng tâm lý, các hành vi, cảm nghĩ của mình. Những cảm nghĩ mà
con người không nhận ra được, chúng như ẩn náu trong một “ cõi lòng” tối tăm, nhưng vẫn chi phối hành vi.
• Không diễn đạt được bằng ngôn ngữ cho mình và cho người khác hiểu.
• Vô thức không bao hàm thái độ của con người. Lúc ở trạng thái vô thức, con người không nhận xét, đánh giá gì
về hành vi, thái độ, ngôn ngữ, cách cư xử của mình.
• Vô thức thường không kèm theo sự dự kiến trước, không có chủ định
3. Vai trò của vô thức:
• Vô thức đôi khi đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Qua phân tích
các hành vi biểu hiện ở trạng thái vô thức giúp ta hiểu được các hiệ tượng tâm lý (thái độ, suy nghĩ, quan hệ…
của con người)
• Toàn bộ đời sống tâm lý trẻ từ lọt lòng đến khoảng 15 – 18 tháng tuổi do vô thức điều khiển. Một số biểu hiện vô
thức trong đời sống tâm lý của trẻ là:
o Trẻ chưa nhận ra được sơ đồ thân thể của mình, chưa nhận biết mình đau ở đâu…
o Chưa biết chủ động hướng âm thanh ngôn ngữ về phía người thân quen.
o Chưa biết nhận ra mẹ, ra người thân.
o Chưa sử dụng được âm thanh, lời nói để diễn đạt được nhu cầu sinh lý của mình.
o Trẻ làm theo, nói theo, bắt chước hành vi của người lớn một cách không chủ định…
III. TỰ Ý THỨC:
1.Khái niệm:
Tự ý thức là sự phản ánh bản thân mình theo một mẫu mực nào đó và cố gắng hoạt động theo đúng khuôn mẫu đó.

Tự ý thức là mức độ phát triển cao của ý thức. Tự ý thức bắt đầu hình thành từ tuổi lên ba. Thông thường tự ý thức biểu
hiện ở các mặt sau:
• Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến vị thế và các quan hệ xã hội.
• Có thái độ đối với bản thân, tự nhận xét, đánh giá.
• Tự điều khiển, tự điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
• Có khả năng tự giáo dục, tự hoàn thiện
2. Vai trò của tự ý thức:
• Tự ý thức tạo điều kiện cho con người tự điều khiển, điều chỉnh thái độ, hành vi, hành động của họ.
• Giúp con người xác định mục đích phù hợp, đánh giá mục đích hành động trong mối tương quan với những đặc
điểm của bản thân, lựa chọn các phương tiện, biện pháp hành động phù hợp với khả năng, nhu cầu của bản thân.
• Tự ý thức là điều kiện để con người trở thành chủ thể hành động độc lập, trở thành chủ thể của xã hội.
Bài 3: Hoạt động, giao tiếp và nhân cách
Hoạt động
1.Khái niệm về hoạt động:
Hoạt động là phương thức tồn tại của con người bằng cách tác động vào đối tượng để tạo ra một sản phẩm tương ứng,
nhằm thoả mãn (trực tiếp hay gián tiếp ) nhu cầu của bản thân, nhóm và xã hội.
2. Cấu trúc của hoạt động:
Tất cả các hoạt động đều có một cấu trúc chung. Cấu trúc đó được nhà tâm lý học A.N Lêônchiev mô tả như sau:
• Động cơ của hoạt động là cái thúc đẩy con người hoạt động. Tuy nhiên động cơ không hình thành rõ ngay một
lúc. Động cơ thường hiện thân trong đối tượng, cùng biến động theo đối tượng, mà lộ rõ dần dần theo tiến trình
của hoạt động.
• Hoạt động hợp thành bởi các hành động như là các bộ phận của hoạt động. Cái mà hành động nhằm tới gọi là
mục đích. Có thể coi động cơ là mục đích chung, còn mục đích mà hành động nhằm tới là mục đích bộ phận. Có
thể coi mục đích chung là động cơ xa và mục đích bộ phận là động cơ gần.
• Hành động bao giờ cũng để giải quyết một nhiệm vụ nhằm đạt tới mục đích đề ra trong những điều kiện cụ thể
nhất định, tức là mục đích bộ phận phải được cụ thể hoá thêm một bước nữa, sự cụ thể hoá này được quy định bởi
những điều kiện cụ thể nơi diễn ra hành động. Nói cách khác là hành động của chủ thể phải hành động theo một
cách nào đó ứng với phương tiện tức là thao tác.
Những điều mô tả sơ lược trên đây có thể diễn đạt bởi sơ đồ sau:


3. Phân loại hoạt động:
Có nhiều cách phân loại hoạt động:
a. Xét về phương diện phát triển cá thể, ta thấy trong đời người có bốn loại hình hoạt động kế tiếp nhau:
• Hoạt động vui chơi
• Hoạt động học tập
• Hoạt động lao động
• Hoạt động nghỉ ngơi
Đối với sự phát triển của từng con người cụ thể, trong mỗi giai đoạn hoặc thời kỳ phát triển của nhân cách con người, tuy
có nhiều loại hình hoạt động trong đó vẫn có một (hoặc có thể nhiều hơn ) hoạt động đóng vai trò chủ đạo.
b. Xét về phương diện sản phẩm (vật chất hay tinh thần ) người ta chia thành hai loại hoạt động:
• Hoạt động thực tiễn
• Hoạt động lý luận
c. Còn có cách phân loại khác, chia hoạt động thành bốn loại:
• Hoạt động biến đổi
• Hoạt động nhận thức
• Hoạt động định hướng giá trị
• Hoạt động giao lưu
Giao tiếp
1. Khái niệm giao tiếp:
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa con người và con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống,
kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách bản thân.
Giao tiếp là phương thức tồn tại của con người, là phương tiện cơ bản để hình thành nhân cách trẻ.
2. Chức năng của giao tiếp:
• Chức năng thông báo, định hướng: Qua quá trình giao tiếp, con người thông báo cho nhau thông tin, tư tưởng,
tình cảm… giúp con người định hướng hoạt động của mình.
• Chức năng điều khiển, điều chỉnh: Qua tiếp xúc, trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thái độ… con người điều
khiển, điều chỉnh hành vi, thái độ, hành động của mình cho phù hợp yêu cầu hoạt động.
• Chức năng liên kết (nối mạch, tiếp xúc ): Nhờ có giao tiếp con người hợp đồng được cùng nhau để làm việc cùng
nhau.
• Chức năng đồng nhất: Qua giao tiếp, cá nhân sẽ hoà nhập vào trong các nhóm xã hội.

3. Các loại giao tiếp:
Có nhiều cách phân loại giao tiếp:
a. Theo phương tiện giao tiếp, có thể có ba loại giao tiếp sau:
• Giao tiếp vật chất: giao tiếp thông qua hành động với vật thể.
• Giao tiếp bằng tín hiệu: là loại giao tiếp bằng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt…
• Giao tiếp bằng ngôn ngữ:đây là hình thức giao tiếp đặc trưng của con người, xác lập và vận hành mối quan hệ
người – người trong xã hội.
b. Theo khoảng cách, có thể có hai loại giao tiếp cơ bản:
• Giao tiếp trực tiếp: giao tiếp mặt đối mặt, các chủ thể trực tiếp phát và nhận tín hiệu với nhau.
• Giao tiếp gián tiếp: qua thư từ, báo chí truyền hình…
c. Qua quy cách, người ta chia hai loại giao tiếp:
• Giao tiếp chính thức: giao tiếp nhằm thực hiện nhiệm vụ chung theo chức trách, quy định, thể chế.
• Giao tiếp không chính thức: giao tiếp giữa những người hiểu biết rõ về nhau, không câu nệ thể thức, mà theo kiểu
thân tình, nhằm mục đích chính là thông cảm, đồng cảm với nhau.
Các loại quan hệ trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng đa
dạng, phong phú.
Hành vi
1. Khái niệm hành vi:
Trong cuộc sống, không phải lúc nào con người cũng chỉ tiến hành hoạt động, hành động với ý thức, mục đích động cơ rõ
rệt, con người còn có những hành động mà sự tham gia của ý thức không rõ rệt hoặc không có ý thức tham gia. Đó là
những hành động bản năng và hành động tự động hoá. Những hành động này ta có thể gọi là hành vi.
Hành vi là toàn bộ những cử chỉ, phản ứng, thao tác trả lời đáp ứng những yêu cầu tác động của thế giới khách quan hoặc
do nhu cầu của con người.
2. Phân loại hành vi:
Theo lịch sử tiến hoá có ba loại hành vi:
a. Hành vi bản năng:
Bản năng là hành vi bẩm sinh, sản phẩm của sự phát triển chủng loại di truyền có cơ chế sinh lý là phản xạ không điều
kiện hoặc chuỗi phản xạ không điều kiện.
Bản năng xuất phát trực tiếp cơ thể và trực tiếp thoả mãn nhu cầu cơ thể. Nhờ bản năng, mỗi thế hệ không cần được huấn
luyện đặc biệt nào vẫn có thể làm được những cái tổ tiên đã làm.

Ở động vật và trẻ mới sinh bản năng bị chi phối bởi vô thức. Nhưng với người trưởng thành, do giáo dục, rèn luyện, bản
năng con người mang đặc điểm lịch sử loài người, mang tính chất xã hội.
b. Hành vi kỹ xảo:
Kỹ xảo là các thao tác hành động, cơ thể tự tạo nên bằng cách luyện tập, lặp đi lặp lại nhiều lần đến mức thuần thục.
Cơ sở sinh lý của kỹ xảo là các phản xạ có điều kiện. Các kỹ xảo được hình thành ở tất cả các động vật. Tuy nhiên ở
người kỹ xảo chứa đựng nhiều yếu tố trí tuệ hơn và quá trình luyện tập để hình thành kỹ xảo ở người có sự tham gia của
ý chí và ý thức với mức độ khác nhau.
c. Hành vi trí tuệ:
Hành vi trí tuệ là hành vi đặc trưng cho các động vật bậc cao. Hành vi trí tuệ là kiểu hành vi mềm dẻo và hợp lý nhất
trong những điều kiện sống luôn biến đổi.
Nhân cách
1. Khái niệm về nhân cách:
Nhân cách là tổng hoà những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý được nảy sinh hình thành và phát triển trong các mối
quan hệ xã hội. Mỗi con người có nhân cách là thành viên của các mối quan hệ xã hội, chịu sự chi phối của các mối quan
hệ đó.
2. Cấu trúc tâm lý của nhân cách:
Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc tâm lý của nhân cách. Ở đây chúng ta xem xét cấu trúc tâm lý của nhân cách
theo quan điểm coi nhân cách gồm có các thành tố sau:
a. Tính cách và khí chất:
• Tính cách:
Tính cách là thái độ của con người, thể hiện mối quan hệ của người đó đối với thế giới xung quanh, biểu lộ ra bên ngoài
bằng những phương thức hành vi quen thuộc.
Tính cách của con người là một chỉnh thể không thể chia cắt, ta có thể xem xét tính cách qua những biểu hiện đặc trưng
từng mặt được gọi là những nét tính cách như:
• Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với xã hội, đối với nhóm và những người xung quanh.
Ví dụ: Tinh thần giúp đỡ bạn bè, lòng nhân ái, tính cởi mở …
• Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với lao động. Ví dụ: Yêu lao động, tính kỷ luật, tinh
thần tiết kiệm…
• Những nét tính cách biểu hiện quan hệ của con người đối với chính mình. Ví dụ: Tính khiêm tốn, tự trọng, tự ti…
• Những nét tính cách biểu hiện ý chí của con người. Ví dụ: Tính mục đích, tính độc lập, tính tự kiềm chế…

Khi xem xét, đánh giá tính cách của trẻ, giáo viên cần chú đến từng nét tính cách trong mối quan hệ lẫn nhau.
Khí chất:
Khí chất là thuộc tính tâm lý phức hợp của cá nhân, biểu hiện cường độ, tiến độ, nhịp độ của các hoạt động tâm lý thể
hiện sắc thái của hành vi, cử chỉ, cách nói năng của cá nhân.
Các kiểu khí chất:
• Kiểu khí chất linh hoạt: Những trẻ thuộc loại khí chất này thường năng động, linh hoạt, ham thích tìm tòi cái mới.
Các em thường nhạy cảm, vui vẻ, nhưng xúc cảm không bền vững, sâu sắc. Các em dễ tiếp xúc, dễ hoà nhập vào
nhóm bạn, dễ tiếp thu cái mới nhưng cũng dễ di chuyển chú ý, chóng quên, khó ngồi yên một chỗ. Nếu có
phương pháp giáo dục thích hợp thì trẻ sẽ hăng say học tập, có lòng vị tha, quan tâm bạn bè… ngược lại, nếu
phương pháp giáo dục không tốt trẻ sẽ dễ bị nhẹ dạ, nông nổi, vô tâm, không thực hiện công việc đến nơi đến
chốn…
• Kiểu khí chất bình thản: Trẻ thuộc loại này thường điềm tĩnh, chậm chạp, không hiếu động, khó quen với hoàn
cảnh mới. Trong vui chơi, sinh hoạt thường kiên trì, cố gắng hoàn thành công việc. Nếu biết động viên, lôi kéo trẻ
vào hoạt động của nhóm thì sẽ dễ hình thành những nét tính cách tốt như chuyên cần, kiên trì, chắc chắn. Ngược
lại sẽ dễ phát triển tính ỳ, thụ động, thờ ơ, lãnh đạm…
• Kiểu khí chất nóng nảy: Trẻ thuộc loại này thường dễ xúc động, hành động nhanh nhưng không bền vững. Xúc
cảm mạnh, dễ thay đổi, dễ cáu, tính tình nóng nảy. Nếu giáo viên nhẹ nhàng, tế nhị, không quát tháo, trẻ sẽ nhiệt
tình, hăng say, có sáng kiến. Ngược lại, trẻ dễ thô lỗ, cục cằn, dễ bị kích động.
• Kiểu khí chất ưu tư: Trẻ thuộc loại này các quá trình tâm lý diễn ra chậm chạp, khó đáp ứng với những kích thích
mạnh, kéo dài, khó thích nghi với môi trường mới. Trẻ dễ lo sợ, xúc cảm xuất hiện muộn nhưng sâu sắc, bền
vững. Nếu giáo viên tế nhị, luôn động viên, khuyến khích trẻ sẽ tạo cho trẻ tính kiên trì, tế nhị, nhạy cảm. Ngược
lại sẽ làm trẻ nhút nhát, xa lánh bạn bè.
Bốn kiểu khí chất trên không có kiểu nào là tốt và xấu, mỗi kiểu đều có mặt tích cực và tiêu cực. Dù trẻ thuộc bất kỳ kiểu
khí chất nào, ta đều có thể giáo dục, hình thành ở trẻ những nét tính cách tích cực, những phẩm chất tốt của nhân cách.
b. Xu hướng và năng lực:
Xu hướng:
Xu hướng xác định mục đích mà cá nhân hướng tới, xác định động cơ tương ứng với hoạt động của con người.
Các mặt biểu hiện của xu hướng:
• Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý biểu thị mối quan hệ tích cực của cá nhân đối với hoàn cảnh, là sự đòi hỏi tất
yếu mà cá nhân cần thoả mãn để tồn tại và phát triển.

• Hứng thú: Là thái độ đặc biệt của cá nhân với một đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa mang
lại một khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt động.
• Lý tưởng: Là một mục tiêu cao đẹp được phản ánh vào đầu óc con người dưới hình thức một hình ảnh mẫu mực
và hoàn chỉnh có tác dụng lôi cuốn mạnh mẽ toàn bộ cuộc sống của cá nhân trong thời gian tương đối lâu dài vào
hoạt động nhằm vươn tới mục tiêu cao đẹp đó.
• Thế giới quan: Là hệ thống quan điểm của mỗi người về thế giới.
• Niềm tin: Là cái kết tinh, đọng lại thành chân lý vững bền, không thay đổi trong nhận thức và tình cảm của mỗi
người.
Năng lực:
Năng lực là những đặc điểm tâm lý cá nhân đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động nhất định nào đó và là điều kiện để thực
hiện có kết quả hoạt động đó.
Tiền đề tự nhiên của sự phát triển năng lực gọi là tư chất.
Sự xuất hiện sớm (lúc tuổi còn nhỏ ) của năng lực ở mức độ cao gọi là năng khiếu.
3. Các yếu tố chi phối sự hình thành và phát triển nhân cách:
a. Yếu tố bẩm sinh di truyền:
Các yếu tố bẩm sinh di truyền như đặc điểm hoạt động của hệ thần kinh, cấu tạo của não, cấu tạo và hoạt động của các
giác quan…Những yếu tố này sinh ra đã có do được bố mẹ truyền lại hoặc tự nảy sinh do biến dị (bẩm sinh ).
Các yếu tố bẩm sinh, di truyền đóng vai trò tiền đề tự nhiên trong sự phát triển nhân cách.
b. Môi trường:
Môi trường tự nhiên và xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân cách trẻ.
Môi trường xã hội bao gồm: môi trường chính trị, kinh tế, văn hoá … có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển nhân
cách.
Đối với trẻ em, môi trường gia đình, nhà trường, bạn bè, hàng xóm và những phương tiện thông tin đại chúng… có tác
động trực tiếp và mạnh mẽ đối với sự phát triển nhân cách các em.
Giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội nếu được tổ chức đúng đắn, có cơ sở khoa học, đóng vai trò chủ đạo đối với
sự phát triển nhân cách trẻ.
Tuy nhiên nếu trẻ không tham gia vui chơi với bạn bè, không bắt chước những hành vi, cách xử sự của người lớn, không
học tập thì trẻ sẽ không thể phát triển đầy đủ những phẩm chất và năng lực của nhân cách. Vì vậy, người lớn cần phải
hướng dẫn, tổ chức và lôi kéo trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động để giúp hình thành và phát triển nhân cách trẻ.
Bài 4: Chú ý

I. KHÁI NIỆM VỀ CHÚ Ý:
1. Định nghĩa chú ý :
Chú ý là sự tập trung vào một hay một nhóm đối tượng, sự vật nào đó để định hướng hoạt động, bảo đảm điều kiện thần
kinh – tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến hành có kết quả.
2. Vai trò của chú ý :
Chú ý là điều kiện cần thiết để tiến hành hoạt động. Do tính chọn lọc của chú ý, nên nó giúp cho hoạt động tâm lý ở
người tập trung vào đối tượng này mà bỏ qua hoặc xao lãng đối tượng khác. Nhờ vậy, hoạt động tâm lý có ý thức hơn,
các hoạt động tập trung hơn, kết quả hoạt động sẽ cao hơn.
II. PHÂN LOẠI CHÚ Ý: Có 3 loại chú ý:
1. Chú ý không chủ định:
Là loại chú ý không có mục đích đặt ra trước, không cần sự nỗ lực của bản thân. Chú ý không chủ định chủ yếu do tác
động bên ngoài gây ra, phụ thuộc vào đặc điểm của vật kích thích như :
• Độ mới lạ của kích thích.
• Cường độ kích thích.
• Độ hấp dẫn của kích thích.
Loại kích thích này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng nhưng kém bền vững, khó duy trì lâu.
2. Chú ý có chủ định :
Là loại chú ý có mục đích định trước và phải có sự nỗ lực của bản thân. Do đã xác định mục đích của hoạt động nên chủ
thể vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động, vẫn tiến hành hoạt động không phụ thuộc vào các đặc điểm của kích thích.
3. Chú ý sau chủ định :
Là chú ý lúc đầu do mục đích định trước, về sao do hứng thú với hoạt động mà chú ý có chủ định đã phát triển đến mức
chủ thể không cần nỗ lực ý chí vẫn tập trung vào đối tượng hoạt động.
Loại chú ý này giúp cho hoạt động của con người giảm được căng thẳng thần kinh, giảm được tiêu hao năng lượng. Nó
bộc lộ ở trạng thái say sưa công việc của con người.
Bài 5: Ngôn ngữ
I. KHÁI NIỆM NGÔN NGỮ:
Cần phân biệt khái niệm ngữ ngôn và ngôn ngữ.
1. Ngữ ngôn:
Ngữ ngôn là một thứ tiếng của một dân tộc. Ngữ ngôn bao gồm một hệ thống các ký hiệu, từ, ngữ và hệ thống các quy
tắc ngữ pháp. Ngữ ngôn là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học.

2. Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ ngữ ngôn để giao tiếp, để truyền đạt để lĩnh hội những kinh nghiệm
xã hội – lịch sử, hoặc để kế hoạch hoá hoạt động của mình. Ngôn ngữ là đối tượng của tâm lý học.
Như vậy, ngữ ngôn là phương tiện hay công cụ để giao tiếp, truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm… còn ngôn ngữ chính là
quá trình sử dụng ngữ ngôn để giao tiếp, truyền đạt, lĩnh hội kinh nghiệm.
II. CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ:
Ngôn ngữ có bốn chức năng cơ bản là:
• Chức năng chỉ nghĩa:
Là quá trình dùng một từ, một câu để chỉ một nghĩa nào đó, tức là quá trình gắn từ đó, câu đó… với một sự vật hiện
tượng.
• Chức năng chỉ ý:
Mỗi từ, câu… có chức năng chỉ “nghĩa” của nó đối với riêng người nói từ ấy, câu ấy, tức là chúng có ý riêng của từng
người.
• Chức năng thông báo:
Mỗi quá trình ngôn ngữ đều chứa đựng một nội dung thông tin, sự biểu cảm dùng để truyền đạt từ người này đến người
kia, hay tự nói với bản thân mình.
• Chức năng điều khiển, điều chỉnh:
Ngôn ngữ có chức năng thiết lập và giải quyết các nhiệm vụ của các hoạt động (trong đó có hoạt động trí tuệ). Nó bao
gồm kế hoạch hoá hoạt động, thực hiện hoạt động và đối chiếu kết quả hoạt động với mục đích đã đề ra.
III. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ:
Có nhiều cách phân chia các loại ngôn ngữ. Thông thường, người ta đề cập đến hai dạng ngôn ngữ. Ngôn ngữ bên ngoài,
ngôn ngữ bên trong.
1. Ngôn ngữ bên ngoài:
Ngôn ngữ bên ngoài là ngôn ngữ chủ yếu hướng vào người khác, nhằm mục đích giao tiếp. Ngôn ngữ bên ngoài bao gồm
ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
• Ngôn ngữ nói: là thứ ngôn ngữ có trước. Ngôn ngữ nói biểu hiện bằng âm thanh và được tiếp thu bằng cơ quan
thính giác. Có hai loại ngôn ngữ nói: ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.
Ngôn ngữ đối thoại nhằm trao đổi thông tin giữa hai hay một số người với nhau. Ngôn ngữ độc thoại là loại ngôn ngữ
trong đó một người nói và những người khác nghe.
• Ngôn ngữ viết: ngôn ngữ viết ra đời muộn hơn ngôn ngữ nói. Ngôn ngữ viết là ngôn ngữ được biểu hiện bằng ký

hiệu, tín hiệu, chữ viết.
2. Ngôn ngữ bên trong:
Đây là một dạng đặc biệt của ngôn ngữ, nó hướng vào bản thân chủ thể. Ngôn ngữ bên trong là vỏ từ ngữ của tư duy, của
ý thức, giúp con người tự điều khiển, tự điều chỉnh mình. Ngôn ngữ bên trong có thể biểu hiện qua ngôn ngữ thầm không
phát ra âm thanh hoặc ngôn ngữ bên trong thực sự dành cho bản thân.
Bài 6: Nhận thức cảm tính
Nhận thức cảm tính là mức độ nhận thức đầu tiên bao gồm cảm giác và tri giác.
I. ĐỊNH NGHĨA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Cảm giác:
Cảm giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác
động vào giác quan.
2. Tri giác:
Tri giác là quá trình nhận thức phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính của sự vật hiện tượng khi chúng đang trực tiếp
tác động vào các giác quan.
II. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Đặc điểm của cảm giác:
• Là quá trình tâm lý, cảm giác có mở đầu, diễn biến, kết thúc một cách rõ ràng.
• Cảm giác chỉ phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính của sự vật hiện tượng thông qua hoạt động của từng giác
quan riêng lẻ.
• Cảm giác xảy ra khi sự ,vật hiện tượng trực tiếp tác động lên giác quan.
• Cảm giác của con người mang bản chất xã hội.
2. Đặc điểm của tri giác:
• Tri giác là sự phản ánh thế giới một cách trọn vẹn, chỉnh thể.
• Tri giác được hình thành và phát triển trên cơ sở các cảm giác, nhưng tri giác không phải là sự cộng lại đơn giản
của các cảm giác tạo thành, mà là sự tổng hợp các thuộc tính của sự vật, hiện tượng.
• Trong quá trình tri giác có sự tham gia của vốn sống, kinh nghiệm, tư duy, ngôn ngữ và nhiều chức năng tâm lý
khác.
III. PHÂN LOẠI CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
1. Các loại cảm giác:
Có nhiều cách phân loại cảm giác, dựa trên những tiêu chuẩn khác nhau. Nếu phân loại dựa trên vị trí của nguồn kích

thích nằm bên ngoài hay bên trong cơ thể ta có hai nhóm cảm giác: cảm giác bên ngoài và cảm giác bên trong.
Cảm giác bên ngoài do những kích thích bên ngoài gây nên: cảm giác nhìn, cảm giác nghe, cảm giác ngửi, cảm giác nếm,
cảm giác da.
Cảm giác bên trong gồm: cảm giác cơ thể, cảm giác vận động, cảm giác thăng bằng.
2. Các loại tri giác:
Có nhiều cách phân loại tri giác:
• Dựa trên bộ máy phân tích giữ vai trò chính, trực tiếp nhất tham gia vào quá trình tri giác, có thể chia thành: tri
giác nhìn, tri giác nghe, tri giác ngửi, tri giác sờ mó…
• Dựa vào sự phản ánh những hình thức tồn tại khác nhau của sự vật hiện tượng trong thế giới, có các loại tri giác:
tri giác các thuộc tính không gian của đối tượng, tri giác các thuộc tính thời gian của đối tượng, tri giác sự chuyển
động.
IV. VAI TRÒ CỦA CẢM GIÁC VÀ TRI GIÁC:
Là mức độ nhận thức đầu tiên, sơ đẳng, cảm giác có vai trò nhất định trong hoạt động nhận thức và toàn bộ đời sống con
người.
Cảm giác là mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và thế giới xung quanh. Nhờ mối liên hệ đó mà cơ thể có khả năng định
hướng và thích nghi với môi trường.
Cảm giác giúp con người thu nhận nguồn tài liệu trực quan sinh động, cung cấp nguyên liệu cho các hoạt động tâm lý cao
hơn.
Tri giác giúp con người định hướng nhanh chóng và chính xác hơn, giúp con người điều chỉnh một cách hợp lý hoạt động
của mình trong thế giới, giúp con người phản ánh thế giới có lựa chọn và có tính ý nghĩa.
Trong giáo dục trẻ tuổi mầm non, cảm giác và tri giác có vai trò quan trọng. Trẻ em ở lứa tuổi này nhận thức thế giới chủ
yếu thông qua cảm giác và tri giác. Ở lứa tuổi này nhận thức cảm tính chiếm ưu thế. Những tài liệu do nhận thức cảm
tính cung cấp được xem như là một trong những cơ sở của nguyên tắc trực quan trong giáo dục trẻ mầm non.
V. TÍNH NHẠY CẢM VÀ NĂNG LỰC QUAN SÁT:
Tính nhạy cảm là năng lực cảm giác nhạy bén, tinh vi, chính xác của con người. Tính nhạy cảm của con người không như
nhau.
Năng lực cảm giác chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố, trước hết là các đặc điểm cấu tạo và chức năng của các giác quan,
kiểu loại thần kinh… Song, năng lực cảm giác của con người không hoàn toàn bẩm sinh mà được hình thành phát và
triển trong hoạt động, phụ thuộc vào việc rèn luyện và giáo dục. Năng lực cảm giác chịu sự chi phối bởi nhiều phẩm chất
tâm lý của nhân cách: nhu cầu, hứng thú, khả năng chú ý, xu hướng, vốn kinh nghiệm… năng lực cảm giác là nhân tố

chủ yếu của năng lực quan sát.
Quan sát là loại tri giác có chủ định, diễn ra tương đối độc lập và lâu dài, nhằm phản ánh đầy đủ, rõ rệt các sự vật hiện
tượng và những biến đổi của chúng. Năng lực quan sát của mỗi người một khác. Đó là khả năng tri giác nhanh chóng và
chính xác. Năng lực quan sát được hình thành trong cuộc sống, do hoạt động, do luyện tập tích cực và có phương pháp.
Bài 7: Trí nhớ
I. KHÁI NIỆM TRÍ NHỚ:
1. Trí nhớ là gì?
Trí nhớ là quá trình tâm lý phản ánh vốn kinh nghiệm của con người dưới hình thức biểu tượng bằng cách ghi nhớ, giữ
gìn, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua.
2.Vai trò của trí nhớ:
Trí nhớ có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống và hoạt động của con người. Không có trí nhớ thì không có kinh
nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất cứ một hoạt động nào, không thể phát triển tâm lý, nhân cách con
người.
II. CÁC QUÁ TRÌNH CƠ BẢN CỦA TRÍ NHỚ:
1. Quá trình ghi nhớ:
Ghi nhớ là khâu đầu tiên của hoạt động trí nhớ. Đó là quá trình tạo nên dấu vết của đối tượng trên vỏ não, đồng thời cũng
là quá trình gắn tài liệu mới vào chuỗi kinh nghiệm đã có của bản thân.
Có nhiều hình thức ghi nhớ Căn cứ vào mục đích của ghi nhớ ta có thể có ghi nhớ không chủ định và ghi nhớ có chủ
định.
• Ghi nhớ không chủ định: Là loại ghi nhớ không cần phải đặt ra mục đích ghi nhớ từ trước, không đòi hỏi phải nỗ
lực ý chí hoặc dùng một cách thức nào để ghi nhớ, tài liệu được ghi nhớ một cách tự nhiên.
• Ghi nhớ có chủ định: Là loại ghi nhớ theo một mục đích đã định từ trước, đòi hỏi nỗ lực ý chí, lựa chọn các biện
pháp, thủ thuật để ghi nhớ.
Có hai cách ghi nhớ có chủ định:
• Ghi nhớ máy móc: Là loại ghi nhớ dựa trên sự lặp đi lặp lại tài liệu nhiều lần một cách đơn giản, tạo ra mối liên
hệ bề ngoài giữa các phần của tài liệu cần ghi nhớ không cần hiểu nội dung tài liệu đó.
• Ghi nhớ ý nghĩa: Là loại ghi nhớ dựa trên sự thông hiểu nội dung tài liệu, trên sự nhận thức những mối liên hệ
lôgíc giữa các bộ phận của tài liệu đó.
2. Quá trình giữ gìn:
Là quá trình lưu giữ những thông tin đã ghi nhớ bằng cách củng cố những dấu vết đã hình thành trên vỏ não.

Có hai hình thức giữ gìn là giữ gìn tiêu cực và giữ gìn tích cực.
• Giữ gìn tiêu cực: Là sự giữ gìn dựa trên sự tri giác lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn giản, thụ động tài liệu cần
ghi nhớ.
• Giữ gìn tích cực: Là sự giữ gìn bằng cách nhớ lại trong óc tài liệu đã ghi nhớ, không cần tri giác tài liệu đó.
3. Quá trình nhận lại và nhớ lại:
• Nhận lại: Là khả năng nhận ra đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó.
• Nhớ lại: Là khả năng làm sống lại những hình ảnh sự vật, hiện tượng đã được ghi nhớ trước đây trong não, khi sự
vật hiện tượng không còn ở trước mắt.
Nhận lại và nhớ lại đều có thể không chủ định và có chủ định.
4. Quên:
Quên là biểu hiện của sự không nhận lại hay nhớ lại được hoặc là nhận lại hay nhớ lại sai.
Trong một số trường hợp sự quên là cần thiết. Về một mặt nào đó quên là hiện tượng hợp lý và có ích.
III. CÁC LOẠI TRÍ NHỚ:
Có nhiều căn cứ để phân loại trí nhớ.
• Căn cứ vào nội dung phản ánh trong trí nhớ, người ta chia trí nhớ thành: Trí nhớ vận động, trí nhớ cảm xúc, trí
nhớ hình ảnh và trí nhớ từ ngữ lôgíc.
• Căn cứ vào tính chất mục đích của hoạt động trí nhớ được chia thành: Trí nhớ không chủ định và trí nhớ có chủ
định.
• Căn cứ vào thời gian củng cố và giữ gìn tài liệu mà phân biệt trí nhớ ngắn hạn và trí nhớ dài hạn.
• Căn cứ vào sự ưu thế, chủ đạo của giác quan nào trong trí nhớ mà người ta có thể chia ra thành trí nhớ bằng mắt,
trí nhớ bằng tai, trí nhớ bằng tay…
Tất cả các loại trí nhớ có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau tạo nên một thể thống nhất trong kho tàng trí nhớ của con
người.
Bài 8: Nhận thức lý tính
Muốn cải tạo thế giới, con người phải đạt tới mức độ nhận thức cao hơn nhận thức cảm tính đó là nhận thức lý tính (bao
gồm tư duy và tưởng tượng)
I. TƯ DUY:
1. Khái niệm:
Tư duy là quá trình nhận thức phản ánh một cách gián tiếp, khái quát những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và
quan hệ có tính quy luật của sự vật và hiện tượng mà trước đó ta chưa biết.

2. Đặc điểm của tư duy:
A. Tính có vấn đề của tư duy:
Khi gặp những hoàn cảnh, những tình huống mà vốn hiểu biết cũ, phương pháp hành động đã biết của con người không
đủ để giải quyết, lúc đó con người rơi vào “ hoàn cảnh có vấn đề “. Khi đó con người phải tư duy.
B. Tính khái quát của tư duy:
Tư duy có khả năng phản ánh những thuộc tính chung, những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của hàng loạt sự vật,
hiện tượng.
C. Tính gián tiếp của tư duy:
Trong tư duy, con người phản ánh thế giới một cách gián tiếp – phản ánh bằng ngôn ngữ.
D. Tư duy có quan hệ mật thiết với ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà con người nhận thức được hoàn cảnh có vấn đề, đặt ra được vấn
đề cần giải quyết, nhờ ngôn ngữ mà con người tiến hành các thao tác tư duy. Sản phẩm của tư duy là các khái niệm, phán
đoán, suy nghĩ được biểu đạt bằng từ ngữ.
E. Tư duy có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính:
Tư duy và nhận thức cảm tính có quan hệ chặt chẽ bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau trong hoạt động nhận thức thống
nhất. Tư duy thường được bắt đầu từ nhận thức cảm tính, trên cơ sở nhận thức cảm tính mà nảy sinh hoàn cảnh có vấn
đề. Trong quá trình diễn biến, tư duy phải sử dụng nguồn tài liệu do nhận thức cảm tính đem lại. Ngược lại, tư duy và
những kết quả của nó chi phối khả năng phản ánh của cảm giác và tri giác làm cho khả năng cảm giác của con người tinh
vi, nhạy bén hơn, làm cho tri giác của con người mang tính lựa chọn, tính ý nghĩa.
3. Các loại tư duy:
Có nhiều cách phân loại tư duy. Nếu xét về phương diện hình thành và phát triển tư duy thì có thể chia thành ba loại tư
duy:
• Tư duy trực quan - hành động là tư duy bằng các thao tác cụ thể tay chân, hướng vào việc giải quyết một số tình
huống cụ thể, trực quan.
• Tư duy trực quan - hình ảnh là loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa vào các hình ảnh của sự vật, hiện tượng.
• Tư duy trừu tượng (tư duy ngôn ngữ – lôgíc) là loại tư duy phát triển ở mức cao nhất, chỉ có ở con người. Đó là
loại tư duy mà việc giải quyết vấn đề dựa trên các khái niệm, các mối quan hệ lôgíc và gắn bó chặt chẽ với ngôn
ngữ, lấy ngôn ngữ làm phương tiện.
Ba loại tư duy trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung và chi phối Lẫn nhau, trong đó tư duy trực quan – hành
động, tư duy trực quan – hình ảnh là hai loại tư duy có trước, làm cơ sở cho tư duy trừu tượng.

4. Các thao tác tư duy:
Quá trình tư duy được diễn ra bằng cách chủ thể tiến hành các thao tác nhất định. Có các thao tác sau:
• Phân tích và tổng hợp:
Phân tích là dùng hoạt động trí óc tách đối tượng tư duy thành những thuộc tính, những bộ phận, những mối liên hệ, quan
hệ để nhận thức đối tượng sâu sắc hơn.
Tổng hợp là dùng trí óc đưa những thuộc tính, những thành phần đã được phân tích thành một chỉnh thể, giúp ta nhận
thức đối tượng bao quát hơn.
Phân tích và tổng hợp quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau.
• So sánh:
So sánh là dùng trí óc để xác định sự giống nhau, khác nhau giữa các sự vật hiện tượng ( hoặc giữa các thuộc tính, các
quan hệ, các bộ phận của một sự vật, hiện tượng )
• Trừu tượng hoá và khái quát hoá:
Trừu tượng hoá là thao tác trí tuệ, trong đó chủ thể dùng trí óc gạt bỏ những thuộc tính, những bộ phận, những quan hệ…
không cần thiết về một phương diện nào đó và chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết để tư duy.
Khái quát hoá là thao tác trí tuệ trong đó chủ thể tư duy dùng hoạt động trí óc để bao quát nhiều đối tượng khác nhau
thành một nhóm, một loại…trên cơ sở đó chúng có một số thuộc tính chung và bản chất, những mối quan hệ có tính quy
luật.
Hai thao tác tư duy này có quan hệ mật thiết với nhau, chi phối và bổ sung cho nhau.
II. TƯỞNG TƯỢNG:
1. Khái niệm chung về tưởng tượng:
Tưởng tượng là quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa có trong kinh nghiệm bằng cách xây dựng những hình ảnh
mới trên cơ sở những hình ảnh ( biểu tượng ) đã có.
Về nội dung phản ánh: Tưởng tượng phản ánh những cái mới chưa có trong kinh nghiệm của cá nhân hoặc của xã hội, do
chủ thể xây dựng nên trên cơ sở những biểu tượng đã biết.
Về phương thức phản ánh: Tưởng tượng tạo ra những biểu tượng mới trên cơ sở những biểu tượng đã biết.
Sản phẩm của quá trình tưởng tượng là các biểu tượng của tưởng tượng. Đó là hình ảnh mới, khái quát hơn, do con người
tạo ra trên cơ sở biểu tượng của trí nhớ.
Như vậy tưởng tượng thuộc bậc thang nhận thức lý tính: nó hướng vào việc giải quyết các tình huống có vấn đề, phản
ánh những cái mới, cái chưa biết, mang tính khái quát, tính gián tiếp, có liên hệ mật thiết với nhận thức cảm tính, với
ngôn ngữ và lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn chân lý.

2. Phân loại tưởng tượng:
Căn cứ vào mức độ của tưởng tượng có thể chia tưởng tượng thành tưởng tượng không chủ định và tưởng tượng có chủ
định.
• Tưởng tượng không chủ định: Là loại tưởng tượng không theo một mục đích trước.
• Tưởng tượng có chủ định: Là loại tưởng tượng theo một mục đích đặt ra từ trước, có kế hoạch và phương pháp
nhất định nhằm tạo ra hình ảnh mới.
Tưởng có chủ định thể hiện ở hai mức độ: Tưởng tượng tái tạo và tưởng tượng sáng tạo.
• Tưởng tượng tái tạo là quá trình tạo ra những hình ảnh mới đối với cá nhân người tưởng tượng, dựa trên sự mô tả
của người khác hoặc của sách vở, tài liệu…
• Tưởng tượng sáng tạo là quá trình xây dựng nên những hình ảnh mới chưa có trong kinh nghiệm cá nhân, cũng
như chưa có trong xã hội.
• Ước mơ là một loại tưởng tượng đặc biệt của con người, loại tưởng tượng tổng quát hướng về tương lai, biểu hiện
những mong muốn, ước ao, gắn liền với nhu cầu của con người.
3. Các cách sáng tạo hình ảnh mới trong tưởng tượng:
Có nhiều cách sáng tạo hình ảnh mới bằng tưởng tượng:
• Tách từ một hình tượng trọn vẹn của một đối tượng có thực lấy ra một yếu tố, một thuộc tính nào đó tạo thành
một biểu tượng mới.
• Thay đổi kích thước, độ lớn, số lượng các thuộc tính, các thành phần của đối tượng… nhằm làm tăng lên hay
giảm đi hình dáng của nó so với hiện thực.
• Nhấn mạnh một tính chất, hoặc một bộ phận nào đó của đối tượng, hoặc gắn thêm cho tính chất đó những ý nghĩa
đặc biệt.
• Chắp ghép là cách tạo ra biểu tượng mới bằng cách chắp ghép một số bộ phận của các sự vật khác nhau.
• Liên hợp có nhiều mặt giống với chắp ghép, nhưng khi tham gia vào việc tạo ra một hình ảnh mới thì các yếu tố
ban đầu bị cải tổ đi.
• Điển hình hoá là phương pháp tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở tổng hợp sáng tạo của các thuộc tính điển
hình là cái đại diện cho hàng loạt đối tượng.
• Loại suy là cách tạo ra những hình ảnh mới trên cơ sở mô phỏng, bắt chước những chi tiết, những bộ phận, những
sự vật có thực.
Trên thực tế, trong quá trình tưởng tượng, các cách sáng tạo nói trên kết hợp với nhau, bổ sung cho nhau làm cho phương
thức hoạt động tưởng tượng vô cùng phong phú và độc đáo.

Bài 9: Tình cảm và ý chí
I. TÌNH CẢM:
1. Khái niệm:
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những sự vật, hiện tượng cò liên quan đến nhu cầu
và động cơ của họ.
Tình cảm được hình thành và biểu hiện qua xúc cảm. Xúc cảm và tình cảm đều biểu thị thái độ của con người đối với thế
giới, nhưng là hai mức độ khác nhau, mặc dù chúng gắn bó chặt chẽ với nhau trong sự rung cảm của con người.
Xúc cảm Tình cảm
• Có cả ở người và động vật
• Có trước
• Là quá trình tâm lý
• Ở trạng thái hiện thực
• Có tính nhất thời, biến đổi phụ
Thuộc vào tình huống.

• Chỉ có ở con người
• Có sau
• Là thuộc tính tâm lý
• Vừa hiện thực vừa tiềm tàng
• có tính ổn định, lâu bền


2. Các mức độ của tình cảm và các loại tình cảm:
a. Các mức độ của đời sống tình cảm:
Tình cảm có nhiều mức độ khác nhau, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhất thời đến ổn định, từ cụ thể đến
khái quát. Các mức độ đó là:
• Màu sắc xúc cảm của cảm giác: Đây là mức độ thấp nhất của cảm xúc, nó là một sắc thái cảm xúc đi kèm theo
quá trình cảm giác.
• Xúc cảm: Là mức độ rung cảm cao hơn màu sắc xúc cảm của cảm giác. Xúc cảm có những đặc điểm là xảy ra
nhanh, cường độ tương đối mạnh, có tính khái quát và được chủ thể ý thức rõ rệt. Ở mức độ xúc cảm có hai biểu

hiện khác nhau là xúc động và tâm trạng.
Xúc động là một dạng xúc cảm có cường độ mạnh, xảy ra trong thời gian ngắn và có khi chủ thể không làm chủ được bản
thân. Tâm trạng là một trạng thái xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc yếu, tồn tại trong một thời gian tương đối dài, ảnh
hưởng đến toàn bộ hành động của con người.
Say mê là một trạng thái tình cảm mạnh, lâu, sâu sắc và bền vững.
• Tình cảm là thái độ ổn định của con người đối với hiện thực, là một thuộc tính tâm lý bền vững của nhân cách.
b. Các loại tình cảm:
Có nhiều cách phân loại tình cảm, có thể phân chia tình cảm thành: tình cảm cấp thấp và tình cảm cấp cao.
Tình cảm cấp thấp có liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu có tính chất sinh vật, sinh lý và có tính
vật chất.
Tình cảm cấp cao có liên quan đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu tinh thần. Tình cảm cấp cao bao gồm:
• Tình cảm đạo đức: biểu thị thái độ của con người đối với yêu cầu của đạo đức xã hội, , trong mối quan hệ đối với
những người khác, đối với tập thể, đối với trách nhiệm xã hội của bản thân.
• Tình cảm trí tuệ: biểu thị thái độ của con người đối với các ý nghĩ, tư tưởng, các nhu cầu nhận thức. Tình cảm trí
tuệ bao gồm: sự ham hiểu biết, sự hoài nghi, sự hài lòng …
• Tình cảm thẩm mỹ: là thái độ rung cảm của con người đối với cái đẹp trong thiên nhiên, xã hội, trong nghệ thuật,
văn học.
• Tình cảm hành động thực tiễn: tình cảm này thể hiện thái độ của con người đối với hành động liên quan đến sự
thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu thực hiện hành động đó.
• Tình cảm mang tính chất thế giới quan: là mức độ cao nhất của tình cảm con người. Loại tình cảm này thường
được diễn đạt bằng các từ “tinh thần”, “ chủ nghĩa”…
Các loại tình cảm trên có mối quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau, chi phối lẫn nhau tạo nên sự phong phú của đời sống
tình cảm con người.
3. Các quy luật của đời sống tình cảm:
Cũng như mọi hiện tượng tâm lý của con người, tình cảm diễn ra theo quy luật của nó.
a. Quy luật thích ứng: Trong lĩnh vực tình cảm, nếu một tình cảm nào đó cứ lặp đi lặp lại nhiều lần một cách đơn điệu
thì một lúc nào đó có hiện tượng thích ứng mang tính chất “ chai dạn “ của tình cảm.
b. Quy luật cảm ứng: Trong quá trình hình thành và biểu hiện tình cảm, sự xuất hiện hoặc suy yếu đi của một tình cảm
này có thể làm tăng hoặc giảm một tình cảm khác xảy ra đồng thời hoặc nối tiếp với nó.
c. Quy luật pha trộn: Trong đời sống tình cảm của một con người cụ thể, nhiều khi hai tình cảm đối cực nhau có thể xảy

ra cùng một lúc nhưng không loại trừ nhau, chúng “pha trộn” vào nhau.
d. Quy luật di chuyển: Tình cảm có thể di chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác có liên quan với đối tượng gây
ra tình cảm trước đó.
e. Quy luật lây lan: Trong mối quan hệ tình cảm có hiện tượng vui “lây“, buồn “lây” hoặc “đồng cảm “, “cảm thông”
giữa người này với người khác.
g. Quy luật về sự hình thành tình cảm: Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được hình thành do quá trình tổng
hợp hoá, động hình hoá và khái quát hoá những xúc cảm cùng loại.
II. Ý CHÍ:
1. Khái niệm ý chí:
a. Ý chí là gì?
Ý chí là mặt năng động của ý thức, biểu hiện ở năng lực thực hiện những hành động có mục đích, đòi hỏi phải có sự nỗ
lực khắc phục khó khăn, trở ngại để thực hiện đến cùng mục đích đã được xác định.
b. Các phẩm chất ý chí của nhân cách:
• Tính mục đích.
• Tính độc lập.
• Tính quyết đoán.
• Tính bền bỉ.
• Tính chủ động.
2. Hành động ý chí:
a. Hành động ý chí là gì?
Hành động ý chí là hành động có ý thức, có chủ tâm của con người, đòi hỏi sự nỗ lực khắc phục khó khăn, trở ngại bên
ngoài cũng như bên trong để đạt mục đích đã đặt ra.
b. Cấu trúc của hành động ý chí:
Trong một hành động ý chí điển hình có ba thành phần cơ bản (ba giai đoạn) sau đây:
• Giai đoạn chuẩn bị: Giai đoạn này gồm các khâu:
o Đặt ra và ý thức rõ ràng mục đích của hành động.
o Lập kế hoạch và lựa chọn phương tiện, phương pháp hành động.
o Quyết định hành động.
Trong giai đoạn này, con người phải đấu tranh để vượt qua mọi khó khăn trở ngại.
• Giai đoạn thực hiện: Trong quá trình thực hiện hành động có thể gặp những khó khăn trở ngại mà con người chưa

lường trước được, đòi hỏi phải nỗ lực ý chí để vượt qua nhằm thực hiện hành động đạt mục đích đã định.
• Giai đoạn đánh giá kết quả hành động: Khi kết thúc hành động con người đối chiếu kết quả với mục đích đã định.
Khi kết quả của hành động phù hợp với mô hình về mục đích của hành động thì hành động kết thúc.
Các giai đoạn trên có liên quan hữu cơ, tiếp nối nhau, là tiền đề của nhau.
3. Hành động tự động hoá (Kỹ xảo và thói quen):
a. Hành động tự động hoá là gì?
Hành động tự động hoá vốn là hành động có ý thức, có ý chí nhưng do lặp đi lặp lại nhiều lần, hoặc do luyện tập mà nó
trở thành tự động hoá, không cần có sự kiểm soát trực tiếp của ý thức mà vẫn được thực hiện có kết quả.
Có hai loại hành động tự động hoá: Kỹ xảo và thói quen.
• Kỹ xảo: Là loại hành động có ý thức được tự động hoá nhờ luyện tập.
• Thói quen: Là loại hành động tự động hoá đã trở thành nhu cầu của con người.
b. Quy luật hình thành kỹ xảo:
Quá trình hình thành kỹ xảo diễn ra theo các quy luật sau đây:
• Quy luật tiến bộ không đồng đều. Nghĩa là:
Có loại kỹ xảo khi mới luyện tập thì tiến bộ rất nhanh, sau đó chậm lại.
Có những kỹ xảo khi bắt đầu luyện tập sự tiến bộ chậm, nhưng đến một giai đoạn nhất định nó lại tăng nhanh.
Có những trường hợp khi bắt đầu luyện tập thì sự tiến bộ tạm thời lùi lại, sau đó tăng dần.
• Quy luật “ đỉnh” của phương pháp luyện tập:
Mỗi phương pháp luyện tập kỹ xảo chỉ đem lại một kết quả cao nhất đối với nó, gọi là “ đỉnh “ của phương pháp đó.
• Quy luật về sự tác động qua lại giữa kỹ xảo cũ và kỹ xảo mới: Sự tác động này diễn ra theo hai chiều hướng:
o Kỹ xảo cũ ảnh hưởng tốt, có lợi cho việc hình thành kỹ xảo mới. Đó là sự di chuyển kỹ xảo (còn gọi là
“cộng” kỹ xảo).
o Kỹ xảo cũ ảnh hưởng xấu, gây trở ngại, khó khăn cho sự hình thành kỹ xảo mới. Đó là hiện tượng giao
thoa kỹ xảo.
• Quy luật dập tắt kỹ xảo:
Một kỹ xảo đã được hình thành nếu không luyện tập củng cố và sử dụng thường xuyên có thể bị suy yếu và cuối cùng bị
mất đi, đó là sự dập tắt kỹ xảo.
Phần III: Các chuyên đề
Chuyên đề 3: Tâm lý học giao tiếp
Giao tiếp là một dạng hoạt động đặc biệt của con người

Hoạt động của con người bao giờ cũng diễn ra trong xã hội, vì thế bao giờ nó cũng có hai loại quan hệ, hai mặt gắn liền
với nhau tạo điều kiện cho nhau và nhiều khi chuyển hoá lẫn nhau.
Quan hệ thứ nhất là quan hệ giữa chủ thể hoạt động với sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên, và với đồ vật do con
người sáng tạo ra, tức là quan hệ giữa chủ thể với khách thể. Đó là mặt thứ nhất của hoạt động, được gọi là hoạt động đối
tượng.
Quan hệ thứ hai là quan hệ giữa chủ thể hoạt động với những người trong xã hội, những nhân cách tức là quan hệ giữa
chủ thể với chủ thể. Đó là mặt thứ hai của hoạt động, được gọi là hoạt động giao tiếp.
Giữa hoạt động có đối tượng và hoạt động giao tiếp có mối quan hệ gắn bó với nhau. Mối quan hệ đó diễn ra theo hai
cách sau đây:
Theo cách thứ nhất, giao tiếp diễn ra như một điều kiện để hình thành hoạt động đối tượng. Trong quá trình thực hiện
hoạt động, nhất thiết con người phải có giao tiếp với nhau. Trong các trường hợp này có thể coi giao tiếp như là một mặt
của hoạt động nói chung, làm điều kiện cho một hoạt động đối tượng cụ thể.
Theo cách thứ hai, giao tiếp diễn ra như một hoạt động độc lập, hay nói dúng hơn, như một dạng hoạt động của con
người, như là hoạt động lao động, hoạt động nhận thức.
Cho dù theo cách nào thì hoạt động đối tượng và giao tiếp xét về mặt cấu trúc tâm lý, chúng đều có những thành phần
giống nhau: Đều có động cơ quy định sự hình thành và diễn biến của nó, được tạo bởi các hành động và thao tác . Hoạt
động đối tượng và giao tiếp đều do chủ thể tiến hành hướng tới một đối tượng nào đó để tạo ra một kết quả nhất định.
Các phương tiện giao tiếp
1. Ngôn ngữ trong giao tiếp:
Ngôn ngữ thực chất là hệ thống ký hiệu tượng trưng về sự vật, hiện tượng cũng như những thuộc tính và quan hệ của
chúng, được con người quy ước và sử dụng trong giao tiếp giữa con người với con người. Trong giao tiếp thì ngôn ngữ
nói giữ vị trí hàng đầu.
• Đặc điểm ngôn ngữ nói trong giao tiếp:
o Đặc điểm xã hội:
 Ngôn ngữ nói bao giờ cũng cũng có các thành phần ngữ pháp, từ vựng và ngữ âm. Cấu trúc này
phản ánh trình độ phát triển dân tộc, địa phương của chủ thể sử dụng ngôn ngữ đó.
 Ngôn ngữ nói chứa đựng nghĩa xã hội.
 Ngôn ngữ nói được xã hội và cá nhân sử dụng trong giao tiếp với những người xung quanh.
 Ngôn ngữ nói được sử dụng trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể, do vậy, ít nhiều mang tính
chất tình huống cụ thể.

o Đặc điểm cá nhân:
 Đặc điểm rõ nét nhất của ngôn ngữ nói về cá nhân là giọng điệu lời nói.
 Cách sử dụng từ trong câu nói.
 Ngữ pháp: để hiểu được lời nói, thì cấu trúc câu, hành vi ngôn ngữ nói phải tuân theo cấu trúc ngữ
pháp chuẩn tiếng Việt.
 Phong cách ngôn ngữ nói: là tổng thể những đặc điểm tâm lý cá nhân thể hiện qua giọng điệu, cách
phát âm, cách sử dụng từ…
• Đặc điểm ngôn ngữ viết:
Ngôn ngữ viết ra đời muộn trong quá trình phát triển loài người và cá thể. Nfgôn ngữ viết cũng có những đặc điểm xã hội
và cá nhân tương tự như ngôn ngữ nói. Nhưng khác biệt ở chỗ, ngôn ngữ viết được thể hiện bằng đường nét và các
khoảng cách của đường nét trong không gian. Đường nét không gian có những đặc điểm riêng cá nhân và chung của xã
hội được thể hiện qua ý và nghĩa của ngôn ngữ viết.
2. Hành vi, cử chỉ, điệu bộ trong giao tiếp:
Ngoài ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, cử chỉ, điệu bộ, tư thế, hành vi, ánh mắt, nụ cười là phương tiện giao tiếp sư phạm
thường xuyên giữa giáo viên và học sinh. Vận động của các bộ phận cơ thể và toàn bộ cơ thể mang nhiều thông tin,
nhưng nó chỉ mang ý nghĩa định hướng mà thiếu sự chính xác, rành mạch; vẫn một điệu bộ, cử chỉ ở tình huống, đối
tượng giao tiếp khác nhau nhưng lại mang nội dung biểu cảm khác nhau. Do vậy, sự vận động các bộ phận cơ thể và toàn
bộ cơ thể chỉ mang ý nghĩa làm nền, hỗ trợ, bổ sung hoặc làm chính xác thêm cho nội dung ngôn ngữ nói.
3. Trang phục trong giao tiếp:
Từ lâu trang phục, y phục đã được con người sử dụng trong giao tiếp. Trang phục trong giao tiếp thường được thể hiện
qua các đặc trưng:
• Kiểu ( môđen ): Giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, vị trí xã hội, dân tộc…
• Sắc mầu: Thay đổi theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, vị trí xã hội, dân tộc, cá nhân.
Một số hiện tượng tâm lý trong quá trình giao tiếp
1. Cảm giác và tri giác trong giao tiếp:
Sự giao tiếp đầu tiên giữa hai người bao giờ cũng bắt đầu từ những cảm giác và tri giác. Những cảm giác và tri giác về
nhau giữa hai người trong giao tiếp là quan trọng, vì chính những cảm giác đó, chính sự tri giác đó nó đưa ta đến một sự
đánh giá nhân cách của đối tượng giao tiếp, đánh giá trình độ văn hoá, thái độ, tình cảm của họ đối với ta.
Tuy nhiên cảm giác, tri giác là sự nhận thức cảm tính, sự nhận thức về những hiện tượng bên ngoài. Chỉ với những cảm
giác, tri giác mà đã vội kết luận về bản chất bên trong, về nhân cách thực sự của con người rồi đánh giá con người là tốt

hay xấu thì có thể sai lầm do hiểu lầm.
2. Tưởng tượng và tư duy trong giao tiếp:
Tưởng tượng có thể tham gia vào việc chuẩn bị giao tiếp. Khi ta sắp giao tiếp lần đầu tiên với một người ta chưa hề gặp,
thì ta tưởng tượng về tầm vóc người đó, bộ mặt của người đó, cách trang phục của người đó, tính tình và khí chất, đạo
đức và tài năng của người đó.
Tư duy là hiện tượng tâm lý thường diễn ra trong quá trình giao tiếp khi có một vấn đề được đặt ra trong quá trình giao
tiếp và cần có ý kiến giải quyết, khi một câu hỏi được người này đặt ra và yêu cầu người kia phải trả lời. Nếu vấn đề đặt
ra một cách đột ngột, bất ngờ, lại là một vấn đề phức tạp, thì ta không thể trả lời ngay mà phải suy nghĩ chín chắn để trả
lời, để giải quyết. Việc trả lời người giao tiếp với mình nhiều khi đòi hỏi phải nghiêm chỉnh, đúng đắn, có trách nhiệm.
Vì thế, phải có sự tư duy, sự suy nghĩ sâu sắc, không thể tuỳ tiện, dễ dãi, hời hợt.
3. Cảm xúc và tình cảm trong giao tiếp:
Cảm xúc và tình cảm được nảy sinh và biểu lộ trong giao tiếp, đó là cảm xúc và tình cảm của con người đối với con
người.
Nếu hai người chưa quen biết nhau thì sự giao tiếp giữa hai người sẽ làm nảy sinh những cảm xúc hoặc là dễ chịu hoặc là
khó chịu. Những cảm xúc đó dược nảy sinh nhiều lần sẽ kết đọng lại thành tình cảm thương yêu, quý trọng nhau hoặc
khinh ghét nhau. Như vậy trong giao tiếp của hai người chưa quen biết nhau, các cảm xúc nảy sinh trước, sau đó những
tình cảm nảy sinh.
Khi hai người đã quen biết nhau, thì sự giao tiếp sẽ củng cố và phát triển những tình cảm đó. Trên cơ sở những tình cảm
đã có từ trước với nhau, mỗi lần giao tiếp giữa hai người lại làm nảy sinh những cảm xúc như là sự rung động của những
tình cảm đã có. Và chính là bằng cách đó mà những tình cảm đó tiếp tục tồn tại, củng cố và phát triển. Như vậy trong
trường hợp này, tình cảm có trước rồi các xúc cảm tương ứng có sau.
4. Chú ý và trí nhớ:
Trong giao tiếp với nhau, con người bao giờ cũng muốn người mà mình giao tiếp phải chú ý nhìn và nghe mình.
Muốn cho đối tượng giao tiếp chú ý đến lời nói và việc làm của mình thì nội dung lời nói và ý nghĩa việc làm đó có tầm
quan trọng đối với đối tượng đó và cách làm phải hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của đối tượng.
Trí nhớ cũng rất cần trong giao tiếp. Đã hứa với ai điều gì thì phải nhớ và phải thực hiện cho được lời hứa. Việc không
nhớ tên, hoặc nhớ nhầm tên là một điều làm buồn lòng người mình giao tiếp. Và nó cũng làm cho chúng ta ngại giao tiếp
vì sợ người ta biết mình đã quên tên người ta.

×