SỞ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TỈNH QUẢNG NGÃI
CHI CỤC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
BÁO CÁO TỔNG KẾT QUẢ ĐỀ TÀI
“Nghiên cứu tạo lập cơ sở dữ liệu, đề xuất giải pháp bảo tồn đa dạng sinh
học, môi trường và lịch sử Rừng Nà - Mộ Đức”
Chủ nhiệm đề tài:
Thạc sỹ: Nguyễn Quốc Tân
Quảng Ngãi, năm 2011
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
1. Khái niệm về đa dạng sinh học: 3
2. Bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới 3
3. Bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam 6
3.1. Đa dạng sinh học ở Việt Nam 6
3.1.1 Đa dạng về các hệ sinh thái 6
3.1.2. Đa dạng về loài 6
3.1.3. Đa dạng nguồn gen 7
3.2. Thực trạng về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam 8
CHƯƠNG 2 9
1. Mục tiêu 9
2. Nội dung 9
3. Thời gian, địa điểm, phương pháp nghiên cứu 9
3.1 Thời gian nghiên cứu 9
3.2 Địa điểm nghiên cứu 9
3.3 Phương pháp nghiên cứu 9
CHƯƠNG 3 12
CHƯƠNG 4 14
1. Kết quả về điều tra, lấy mẫu phân tích động vật tại khu vực nghiên cứu: 14
1.1. Thành phần loài động vật có xương sống ở khu vực Rừng nà - Mộ Đức 14
1.2. Cấu trúc thành phần loài 14
1.3 Các chỉ số đa dạng 14
2. Điều tra, lấy mẫu thực vật phân tích tại khu vực nghiên cứu: 14
2.1. Đặc điểm thảm thực vật rừng Nà huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi 14
2.2. Đa dạng về cấu trúc thành phần loài thực vật bậc cao có mạch ở rừng Nà 15
2.2.1. Đa dạng các bậc taxon thực vật ở rừng Nà 15
2.2.3. Đa dạng về giá trị tài nguyên thực vật rừng Nà 16
CHƯƠNG 5 17
1. Phân tích các yếu tố tác động đến tính đa dạng sinh học của khu vực Rừng Nà: 17
1.1. Phân tích tác động do môi trường 17
1.2. Phân tích tác động do phương thức khai thác không hợp lý 17
1.3. Phân tích tác động do có sinh vật ngoại lai 18
1.4. Phân tích tác động do năng lực và phương thức quản lý 19
2. Đánh giá giá trị kinh tế xã hội của đa dạng sinh học Rừng Nà 19
2.1. Giá trị khai thác gián tiếp: 19
2.1.1. Giá trị lịch sử: 19
2.1.2. Giá trị du lịch: 20
2.2. Giá trị khai thác trực tiếp: 21
2.2.1. Các loài quý hiếm, có ích: 21
CHƯƠNG 6 30
A. Biện pháp trước mắt: 30
I. Biện pháp kỹ thuật 30
1.1. Bảo tồn nguyên vị: 30
1.2. Bảo tồn bên ngoài các khu bảo tồn 30
1.3. Phục hồi và khôi phục các loài, chủng quần và HST 31
II. Biện pháp về giáo dục 32
2.1. Xây dựng nguồn nhân lực 32
2.2. Mở rộng các hoạt động truyền thông và nâng cao nhận thức về đa dạng sinh học .32
III. Biện pháp quản lý: 33
3.1. Quản lý vùng đệm: 33
2
3.2. Bảo tồn đa dạng sinh học dựa vào cộng đồng 34
3.3. Thành lập BQL rừng Nà thuộc UBND xã Đức Thạnh 34
IV. Bảo vệ ĐDSH bằng pháp chế: 34
B. Về lâu dài: 35
Đề xuất một số dự án tiền khả thi
3
MỞ ĐẦU
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người, thiên nhiên
đóng vai trò cực kỳ quan trọng, là một trong những nhân tố quyết định đến sự
sinh trưởng và phát triển của “con người”. Ngay từ buổi sơ khai, con người đã
biết dựa vào thiên nhiên để tồn tại và phát triển và cho đến ngày nay, khi nền
văn minh của xã hội loài người đã tiến những bước dài trên bậc thang tiến hoá
thì sự gắn kết, giữa tự nhiên và xã hội loài người vẫn còn là yếu tố cơ bản cho
quá trình tồn tại và phát triển của con người.
Trải qua hơn ba tỷ năm, kể từ khi những mầm móng đầu tiên của sự sống
xuất hiện, sự sống không ngừng phát triển, tiến hoá trong môi trường tự nhiên và
tác động qua lại tạo nên sự đa dạng của sinh vật.
Là một thành phần của đa dạng sinh học, con người và xã hội loài người
là đối tượng,là quần xã sinh vật đặc thù và là hợp phần sinh giới đạt tới tuyệt
đỉnh của sự tiến hoá. Do vậy, con người nhận thức được tự nhiên, tìm hiểu
nguồn gốc của mình, từ chỗ phụ thuộc vào tự nhiên, con người dần dần cải tạo
được tự nhiên, bắt tự nhiên phục vụ cuộc sống của mình.
Là quốc gia nằm ở khu vực nhiệt đới gió mùa, thiên nhiên đã ban tặng cho
Việt Nam nhiều loài sinh vật quý hiếm và Việt Nam là một trong những quốc
gia có trữ lượng đa dạng sinh học cao nhất thế giới. Tuy nhiên, cùng với hai
cuộc chiến tranh dựng nước và giữ nước trong thế kỷ trước, cùng với quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ những năm cuối thế kỷ XX, và sự bùng nổ dân
số đã làm cho giá trị đa dạng sinh học cũng như chất lượng môi trường sống
ngày càng bị suy thoái đã đặt ra cho chúng ta một thách thức vô cùng to lớn.
Chính vì thế, việc khai thác hợp lý, bảo vệ tài nguyên, môi trường và bảo tồn đa
dạng sinh học ngày càng trở nên cấp thiết. Cần làm cho cộng đồng dân cư các
cấp chính quyền hiểu rõ vấn đề để có những hành động, những quyết sách đúng
đắn.
Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc vùng Trung Trung Bộ của Việt Nam, diện
tích tự nhiên khoảng 5129,11 km
2
. Quảng Ngãi có một nguồn tài nguyên sinh
học tương đối dồi dào, tính đa dạng sinh học cao và những điều kiện tự nhiên
khá thuận lợi cho việc nâng cao năng suất sinh học của hệ sinh thái tự nhiên và
nhân tạo. Mặc dù vậy, Quảng Ngãi cũng là nơi bị hai cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ diễn ra ác liệt, cùng với quá trình khai thác không kiểm soát
của con người mà nguồn tài nguyên đang đứng trước một thực tế cần báo động.
Đó là sự xâm hại dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên và suy thái đa dạng sinh học
của các hệ sinh thái trong vùng.
Rừng Nà nằm ở thôn Lương Nông Nam và Lương Nông Bắc thuộc xã
Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, cách đường Quốc lộ 1A chừng 1,5 km về hướng
Tây và cách huyện lỵ Mộ Đức khoảng 4 km về hướng Đông - Bắc. Với vị trí gần
như trung tâm của các xã vùng Đông Mộ Đức, phía Bắc là các xã Đức Lợi, Đức
Thắng, phía Đông là xã Đức Minh, phía Nam là các xã Đức Phong, Đức Chánh
nên rừng Nà có vai trò quan yếu trên hành lang liên lạc giữa các xã ven biển
1
phía Đông và là điểm nối giữa các xã khu Đông với khu Tây huyện Mộ Đức để
tạo thể liên hoàn và hỗ trợ trong quá trình triển khai lực lượng tác chiến chống
địch. Vì vậy, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ rừng Nà đã
trở thành một trong những căn cứ kháng chiến quan trọng nằm ở phía Đông và
cùng với căn cứ kháng chiến núi Lớn (Đức Phú) nằm ở phía Tây huyện Mộ
Đức, đóng góp quan trọng về sức người, sức của để chi viện cho các địa phương
trong tỉnh và khu V, đồng thời cũng là chỗ dựa vững chắc cho các lực lượng dân
quân du kích vùng Đông Mộ Đức và các lực lượng vũ trang bộ đội địa phương
đóng quân và xuất kích tấn công địch.
Rừng Nà đã được UBND tỉnh Quảng Ngãi quyết định xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá. Hiện nay rừng Nà vẫn còn giữ được cảnh quan thiên nhiên
hoang sơ vốn có, tuy nhiên do chưa có quy hoạch bảo vệ cụ thể nên trong thời
gian qua rừng Nà bị lấn chiếm, diện tích tự nhiên dần bị thu hẹp đáng kể. Một số
loài động, thực vật trong rừng Nà đã bị xâm hại, ảnh hưởng đến giá trị đa dạng
sinh học của rừng Nà .
Có thể thấy, ngoài giá trị lịch sử, phản ánh ý chí đấu tranh cách mạng của
quân và dân xã Đức Thạnh và nhân dân huyện Mộ Đức, rừng Nà còn là một
thắng cảnh đẹp, với rừng cây tự nhiên, có đầm lầy, gò đồi, được bao bọc bởi
xóm làng, đồng ruộng và nằm gần bãi biển Đức Minh, nếu biết bảo tồn, đầu tư
khai thác rừng Nà sẽ trở thành một di tích lịch sử cách mạng và thắng cảnh đẹp
hấp dẫn khách tham quan du lịch.
Nhận thấy sự cấp thiết của việc bảo tồn giá trị đa dạng sinh học của Rừng
Nà, UBND tỉnh Quảng Ngãi và Sở Khoa học Công nghiệp đã giao nhiệm vụ Chi
cục Bảo vệ môi trường thực hiện đề tài “Nghiên cứu tạo lập cơ sở dữ liệu, đề
xuất giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường và lịch sử Rừng Nà - Mộ
Đức” nhằm xác định chính xác giá trị đa dạng sinh học của rừng Nà làm tiền đề
cho việc xây dựng các dự án bảo tồn, phát triển đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh
quan di tích lịch sử văn hoá rừng Nà.
2
CHƯƠNG 1
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI VÀ TRONG NƯỚC
1. Khái niệm về đa dạng sinh học:
Đa dạng sinh học là sự phong phú về các nguồn gen, các loài và các hệ
sinh thái trong một khu vực hoặc trên phạm vi toàn cầu. Khoa học nghiên cứu về
tính phong phú đó được gọi là Đa dạng sinh học.
Sự đa dạng của sinh vật ngày nay trên trái đất là kết quả của cả một quá
trình tiến hoá lâu dài. Cùng với thời gian, cách đây khoảng 2 triệu năm, tại rừng
châu phi loài người đã xuất hiện, không ngừng hoàn thiện và thích nghi cao đối
với môi trường sống. Trong quá trình tồn tại từ chỗ săn bắt và hái lượm, con
người đã biết cải tạo môi trường phục vụ cho cuộc sống của mình. Trong quá
trình đó, con người đã biết thuần hoá, lai tạo các giống vật nuôi và cây trồng
mới. Chính nhờ đó mà đã tăng thêm tính đa dạng sinh học trên trái đất. Tuy
nhiên, tác động của con người có thể thúc đẩy sự suy thoái, tiêu diệt các loài
sinh vật và làm thay đổi điều kiện tiến hoá của sinh giới.
Đa dạng sinh học được chia làm 3 cấp độ với đặc điểm khác nhau giữ các
vai trò khác nhau đối với sinh quyển trên trái đất. Đó là đa dạng gen; đa dạng
loài và đa dạng hệ sinh thái.
2. Bảo tồn đa dạng sinh học trên thế giới.
Hiện nay, trên thế giới sự đa dạng sinh học thể hiện rõ nhất ở vùng nhiệt
đới. Vùng nhiệt đới chỉ chiếm 15% diện tích bề mặt trái đất nhưng chiếm tới
78% tổng số loài sinh vật trên hành tinh. Cho đến nay đã có 90.000 loài sinh vật
đã được xác định ở vùng nhiệt đới, trong lúc toàn bộ vùng ôn đới Bắc Mỹ và
Châu Âu - Á chỉ có 50.000 loài.
Đến nay, người ta đã thống kê số lượng loài sinh vật trên thế giới được
mô tả theo nhóm phân loại. Trên thế giới đã có 1.730.341 loài động vật, thực vật
được mô tả. Nhưng theo dự đoán của các nhà phân loại học sự đa dạng loài trên
thế giới là rất lớn. Số loài hiện đang sống trên trái đất khoảng 10 triệu loài
(nhưng có lẽ đạt tới 30 triệu), còn số loài chết đi (tuyệt chủng) để lại hoá thạch
trong các địa tầng phải tới 100 lần lớn hơn các loài hiện sống.
Mỗi loài sinh vật đều có một chức năng nhất định trên trái đất cho dù
chúng có lợi, không có lợi, thậm chí có hại đối với con người thì chúng ta vẫn
cần phải bảo tồn vì những giá trị vốn có của nó. Bảo tồn đa dạng sinh học còn
tạo điều kiện duy trì các nguồn tài nguyên sinh vật, bao gồm những nguyên liệu
để sản xuất những sản phẩm khác nhau, cũng như chức năng sinh thái tự nhiên
của thế giới sinh vật.
Vai trò của sinh vật, trước hết là giá trị kinh tế của chúng. Chúng cung
cấp lương thực, thực phẩm, rau màu để nuôi sống con người hơn hai triệu năm
qua. Vấn đề an toàn lương thực cho con người trên hành tinh hiện nay rất nan
3
giải. Con người chỉ có thể giải quyết được nạn đói protein khi và chỉ khi biết sử
dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học.
Đa dạng sinh học cung cấp cho con người nhiều loài vật nuôi và cây trong
trong các quần xã sinh vật.
Gỗ, củi từ những khu rừng tự nhiên cung cấp trên 60% giá trị xuất khẩu ở
nhiều nước trong vùng nhiệt đới. Đặc biệt là Indonexia gỗ là nguồn thu nhập
kinh tế đứng hàng thứ hai của nước này.
Đa dạng sinh học hình thành nên các quần xã, đỉnh cực trong các Hệ sinh
thái, hình thành các chuỗi thức ăn và lưới thức ăn phong phú, thiết lập sự cân
bằng của các hệ sinh thái tự nhiên.
Nhiều loài động vật hoang dã đã thông qua cuộc sống của nó như đào bới
kiếm ăn, làm hang tổ, thải các sản phẩm dị hoá vào đất…. làm cho đất tơi xốp và
cải tạo đất rừng. Thêm vào đó là các loài sinh vật, phân huỷ các phế thải hữu cơ
thành các dạng hoà tan cho cây dễ hấp thụ, cố định nitơ từ không khí… tạo cho
thảm thực vật càng phát triển, kéo theo sự phân bố của các loài động vật trong
quần thể phát triển.
Hiện nay trên thế giới, hiện tượng làm mất các hệ sinh thái tự nhiên và
làm mất các loài đang hàng ngày, hàng giờ xảy ra. Mỗi năm, trái đất mất đi
khoảng 2000 loài động vật, thực vật, nghĩa là mất đi hơn 10% số loài đã được
mô tả. Nếu như các thế kỷ trước đây bình quân cứ vài chục năm mới có một loài
bị tuyệt chủng, thì những năm của thập niên chín mươi, người ta tính ra rằng cứ
bình quân 7 phút có một loài bị tuyệt chủng. Đặc biệt các loài có ích như chim,
ếch ăn sâu bọ…
Theo tính toán gần đây căn cứ trên tốc độ phá rừng, người ta dự đoán rằng
sẽ khoảng từ 2-8% số cây và con trên trái đất đã bị tuyệt chủng trong 25 năm tới.
Theo Raven, 1987, 1.000 loài trong đó có 150.000 loài cây có mạch đã mất
trong 100 năm quan và gần 60.000 loài hầu như ở các vùng nhiệt đới bị lâm
nguy trong 50 năm tới. Theo đánh giá của các nhà khoa học, trong các điểm
nóng trên thế giới có tới 34.000 loài đặc hữu. Tuy nhiên, theo đà thu hẹp diện
tích phân bố của các loài đặc hữu hiện nay, số loài sẽ giảm xuống 10% trong 20
năm tới. Tất cả điều đó sẽ mất đi tính đa dạng về di truyền. Hiện nay, nhiều
giống cây trồng truyền thống có khả năng chống chịu sâu bệnh đã bị tiêu diệt do
quá trình chuyên canh và nhập nội.
Ở Đông Nam Á, họ hàng hoang dại của các loại cây như: chôm chôm,
xoài, mẵng cầu và nhiều loài cây ăn quả đang bị thu hẹp diện tích. Cà phê là một
trong những cay có giá trị nhất trong rừng núi cao ở Tây nam Etiopia đã mất
90% sống giống loài và suy giảm sản lượng.
Nhiều loài động vật có ích, có nguồn gen quý hiếm đang bị thu hẹp vùng
phân bố, số lượng cá thể và mất dần nguồn gen. Chẳng hạn như heo vòi, hươu
sao, tê giác, bò rừng….
4
Đa dạng sinh học là nguồn dược liệu vô tập. Hiện con người mới chỉ biết
được 5% giá trị tiềm ẩn về nguồn dược liệu của đa dạng sinh học. Trước đây,
nguồn dược liệu con người sử dụng hoàn toàn phụ thuộc và thiên nhiên. Ngày
nay, mặc dù khoa học phát triển đến đỉnh cao nhưng vẫn chưa điều chế thuốc
chữa những bệnh hiểm nghèo thay thế cho nguồn dược liệu tự nhiên. Ở các nước
phương Đông và Việt Nam, việc phòng bệnh, chữa bệnh thì y học cổ truyền còn
đóng vai trò quan trọng. Theo một số nhà y học, hầu như tất các các loài thực
vật đều có tác dụng chữa bệnh mà hiện nay con người chưa hề biết đến.
Các loài động vật cũng là những loài thuốc chữa bệnh rất quý nên chúng
là đối tượng bị khai thác nặng nề, dẫn đến một số loài có nguy cơ bị tuyệt chủng.
Chẳng hạn như loài hưu sao, chúng có sừng là nguồn dược liệu quý nên bị khai
thác cạn kiệt và việc bảo tồn loài này chỉ thực hiện bằng cách nuôi nhốt tự
nhiên, nhưng thực tế mục đích như vậy gắn liền với thương mại hơn là bảo tồn.
Vai trò của đa dạng sinh học trong kinh tế du lịch rất lớn, nhất là du lịch
sinh thái. Trên thế giới hiện nay, xu hướng du lịch sinh thái đang phát triển
mạnh thông qua việc tham quan các Vườn Quốc gia và các khu bảo tồn.
Các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn cho phép giữ gìn quần thể của các
loài như bảo tồn các quá trình hệ sinh thái sao cho chúng ở trạng thái không bị
nhiễu loạn. Đồng thời, đây cũng là nơi phục vụ cho mục đích giáo dục, nghiên
cứu khoa học và tham quan giải trí… cho đến những năm đầu thế kỷ XXI, thế
giới có thất cả 8.619 khu bảo tồn, chiếm diện tích khoảng 7.992.660 km
2
. Mặc
dù con số khu bảo tồn trên thế giới là khá ẩn tượng, xong chúng chỉ đạt 5,7%
tổng diện tích bề mặt trái đất. Các khu bảo tồn không bao giờ chiếm tỷ lệ hơn 7-
10% diện tích mặt đất bởi nhu cầu con người đối với các nguồn tài nguyên thiên
nhiên là vô hạn. Duy trì đa dạng sinh học sẽ góp phần bảo đảm cho các quá trình
sinh thái được thực hiện như: góp phần đảm bảo cho các quá trình sinh thái được
thực hiện như: chuyển hoá năng lượng thông qua quá trình quang hợp của các
loài thực vật và tổng hợp các vi sinh vật hình thành các chất hữu cơ. Đó là khâu
đầu tiên trong chu kỳ vật chất và chuyển hoá năng lượng của hệ sinh thái. Trong
quá trình quang hợp, thực vật hấp thụ CO
2
và thải O
2
cung cấp cho sinh vật hô
hấp. Chúng điều hoà khí hậu, duy trì tuần hoàn nước, duy trì các chu trình năng
lượng, dinh dưỡng cơ bản, duy trì mối quan hệ tương tác giữa các thành phần
trong tự nhiên.
Tuy cho đến nay chưa có ai thống kê được hết về đa dạng sinh học trong
tự nhiên, cũng như thống kê được hết sự suy thoái tính đa dạng sinh học đến
mức độ nào. Song sự suy giảm không ngừng và có xu thế ngày còn tăng sự suy
thoái về nguồn gen và tài nguyên sinh học trên trái đất là điều đã được khẳng
định.
Ý thức được những tác động tiêu cực của con người lên tính đa dạng sinh
học, nhiều nhà khoa học, các tổ chức quốc tế đã thống nhất tìm những giải pháp
nhằm bảo vệ môi trường sống, cứu lấy trái đất. Sau Hội nghị thượng đỉnh đầu
tiên về môi trường do Liên Hợp Quốc tổ chức tại Thuỵ Điển, đến nay đã có
nhiều hội nghị thượng đỉnh họp bàn về tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh
5
học, như hội nghị Kyoto tại Nhật Bản, Đặc biệt, tại Rio De Janeiro (Barazil) vào
tháng 6/1992, Liên hợp Quốc đã thông qua chương trình 21 - Chương trình hành
động về bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học cho thế kỷ 21. Trong hội nghị
này, tất cả các nước tham dự đều ký vào công ước bảo tồn đa dạng sinh học trên
toàn cầu. Hành động này nhằm động viên, bắt buộc tất cả các quốc gia trên thế
giới hợp tác với nhau để bảo vệ các loài, nơi cư trú và các nguồn gen, chuyển
sang các phương thức sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững và tiến hành
những đều chỉnh cần thiết về chính sách kinh tế, quản lý của từng Quốc gia.
3. Bảo tồn đa dạng sinh học tại Việt Nam.
Nằm ở vùng Đông Nam châu Á với diện tích khoảng 330.541 km
2
, Việt
Nam là một trong 16 nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, 2002- Chiến lược quốc gia quản lý hệ thống khu
bảo tồn của Việt Nam 2002-2010). Đặc điểm về vị trí địa lý, khí hậu của Việt
Nam đã góp phần tạo nên sự đa dạng về hệ sinh thái và các loài sinh vật. Về mặt
địa sinh học, Việt Nam là giao điểm của các hệ động, thực vật thuộc vùng Ấn
Độ - Miến Điện, Nam Trung Quốc và Inđo-Malaysia. Các đặc điểm trên đã tạo
cho nơi đây trở thành một trong những khu vực có tính đa dạng sinh học
(ĐDSH) cao của thế giới, với khoảng 10% số loài sinh vật, trong khi chỉ chiếm
1% diện tích đất liền của thế giới (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
2002-Báo cáo quốc gia về các khu bảo tồn và Phát triển kinh tế).
Hiện nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau làm cho nguồn tài nguồn tài
nguyên ĐDSH của Việt Nam đã và đang bị suy giảm. Nhiều hệ sinh thái và môi
trường sống bị thu hẹp diện tích và nhiều Taxon loài và dưới loài đang đứng
trước nguy cơ bị tuyệt chủng trong một tương lai gần.
Để khắc phục tình trạng trên Chính phủ Việt Nam đã đề ra nhiều biện
pháp, cùng với các chính sách kèm theo nhằm bảo vệ tốt hơn tài nguyên ĐDSH
của đất nước. Tuy nhiên, thực tế đang đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến bảo tồn
ĐDSH cần phải giải quyết như quan hệ giữa bảo tồn và phát triển bền
vững hoặc tác động của biến đổi khí hậu đối với bảo tồn ĐDSH
3.1. Đa dạng sinh học ở Việt Nam
3.1.1 Đa dạng về các hệ sinh thái
Nguồn tài nguyên đa dạng sinh học trong tự nhiên của Việt Nam hiện nay
tập trung ở 3 hệ sinh thái (HST) chính là: HST trên cạn (HST rừng), HST đất
ngập nước và HST biển.
3.1.2. Đa dạng về loài
Trong những năm qua, cùng với những nỗ lực về bảo tồn đa dạng sinh
học, công tác điều tra nghiên cứu về đa dạng sinh học cũng được nhiều cơ quan
Việt Nam cũng như các tổ chức quốc tế thực hiện. Các nghiên cứu chủ yếu tập
trung vào thành phần loài động, thực vật, các hệ sinh thái đặc trưng. Các kết quả
nghiên cứu được tập hợp từ các nhà khoa học, các cơ quan nghiên cứu cho thấy:
Bảng 2.1- Thành phần loài sinh vật đã biết được cho đến nay
6
TT Nhóm sinh vật Số loài đã xác định được
1 Thực vật nổi 1.939
- Nước ngọt 1.402
- Biển 537
2 Rong, tảo 697
Nước ngọt Khoảng 20
Biển 682
Cỏ biển 15
3 Thực vật ở cạn 13.766
Thực vật bậc thấp 2.393
Thực vật bậc cao 11.373
4 Động vật không xương
sống ở nước
8.203
Nước ngọt 782
Biển 7.421
5 Động vật không xương
sống ở đất
khoảng 1.000
6 Côn Trùng 7.750
7 Cá 2.738
Nước ngọt 700
Biển 2.038
8 Bò sát 296
Rắn biển 50
Rùa biển 4
9 Lưỡng cư 162
10 Chim 840
11 Thú 310
Thú biển 16
Nguồn: Viện sinh thái và Tài nguyên sinh vật, 2005
3.1.3. Đa dạng nguồn gen
Theo đánh giá của Jucovski (1970) Việt Nam là một trong 12 trung tâm
nguồn gốc giống cây trồng và cũng là trung tâm thuần hoá vật nuôi nổi tiếng thế
giới.
7
Các loài cá nuôi có nguồn gốc từ nước ngoài được nhập và thuần dưỡng ở
Việt Nam khoảng 50 loài. Trong đó có 35 loài cá cảnh còn lại là các loài cá nuôi
lấy thịt.
Các giống cây trồng ở Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Hiện nay đã
thống kê được 802 loài cây trồng phổ biến thuộc 79 họ.
Loài người hiện nay đang tiêu dùng khoảng 40% năng suất sơ cấp của trái
đất (năng lượng mặt trời được chuyển đổi qua quá trình quang hợp). Nhiều
ngành kinh tế đã và đang có các tác động trực tiếp lên các khu bảo tồn, như nông
nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản, công nghiệp gỗ, buôn bán các loài động thực vật
hoang dã, sản xuất năng lượng, sử dụng nước ngọt v.v.
3.2. Thực trạng về bảo tồn đa dạng sinh học của Việt Nam
Để ngăn ngừa sự suy thoái đa dạng sinh học, Việt Nam đã tiến hành công
tác bảo tồn đa dạng sinh học khá sớm. Hai hình thức bảo tồn ĐDSH phổ biến
được áp dụng ở Việt Nam là: Bảo tồn nội vi hay nguyên vị (Insitu conservation)
và bảo tồn ngoại vi hay chuyển vị (Exsitu conservation).
8
CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu
- Nhằm xác định rõ những giá trị đa dạng sinh học Khu vực Rừng Nà- Mộ
Đức cần giữ gìn, bảo tồn.
- Bảo tồn tính đặc sắc “Rừng ngập nước” nằm trong khu vực khô hạn.
- Nâng cao vai trò vị trí và ý nghĩa lịch sử của di tích Rừng Nà trong sự
nghiệp giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ hôm nay và mai sau.
- Nâng cao nhận thức, ý thức về bảo tồn đa dạng sinh học, văn hoá cho
cộng đồng.
2. Nội dung
- Đánh giá về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, cảnh quan môi trường;
đa dạng sinh học và khảo sát tính lịch sử - văn hoá khu vực khu vực nghiên
cứu;
- Phân tích các yếu tố tác động đến khu vực Rừng Nà:
- Đánh giá giá trị KT-XH của ĐDSH:
- Xây dựng bản đồ:
- Biên soạn tài liệu phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng
về đa dạng sinh học, môi trường và lịch sử Rừng Nà.
- Xây dựng băng tư liệu, phóng sự về đa dạng sinh học và di tích lịch sử
Rừng Nà.
- Đề xuất giải pháp nhằm bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường và ý nghĩa
lịch sử
3. Thời gian, địa điểm, phương pháp nghiên cứu
3.1 Thời gian nghiên cứu
Đợt khảo sát thực địa được tiến hành từ 10/2009 đến 7/2010
Phân tích dữ liệu, địa loại mẫu vật: 10/2009 đến 8/2010
3.2 Địa điểm nghiên cứu
- Nghiên cứu thực địa: tiến hành trên địa bàn Rừng Nà - Mộ Đức, tỉnh
Quảng Ngãi.
- Nghiên cứu trong phòng thí nghiệm: phòng Động Thực vật Sinh thái,
Khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
3.3 Phương pháp nghiên cứu
+ Với nhóm nghiên cứu đa dạng Thực vật
- Ngoài thực địa:
9
- Áp dụng phương pháp điều tra theo hệ thống tuyến băng qua các khu
vực rừng Nà và lập các ô tiêu chuẩn điển hình (kích thước ô tiêu chuẩn10x10m).
- Thu mẫu thực vật, xử lý và bảo quản theo phương pháp của Klein
(1970). Mẫu được chụp ảnh, bảo quản và lưu giữ tại phòng thí nghiệm khoa
Sinh học, trường Đại học Khoa học Huế.
Sử dụng máy định vị (GPS) để xác định các điểm khảo sát thực địa.
- Trong phòng thí nghiệm:
Phân tích mẫu và xác định tên loài theo phương pháp so sánh hình thái
dựa trên các tài liệu chính: ‘Cây cỏ Việt Nam’ (Phạm Hoàng Hộ, 1999-2000),
‘Cây gỗ rừng Việt Nam’ (1971-1988), ‘Cây có vị thuốc ở Việt Nam’ (Phạm
Hoàng Hộ, 2006).
+ Với nhóm nghiên cứu đa dạng Động vật
- Ngoài thực địa:
- Vạch tuyến và điểm nghiên cứu: Dựa theo phương pháp điểm tối ưu của
Colin Bibby và nnk (2003) kết hợp với việc khảo sát thực tế địa hình vùng
nghiên cứu.
- Thu thập, quan sát mẫu vật: thu mẫu trực tiếp bằng tay hoặc nhờ các
dụng cụ hỗ trợ (gậy bắt rắn, bẫy hố ); quan sát trực tiếp bằng hoặc nhờ thiết bị
hỗ trợ (máy ảnh, ống nhòm, telescop ). Các thông tin về mẫu vật được ghi chép
lại các đặc điểm chẩn loại vào sổ nhật ký và chụp ảnh. Ngoài ra, mẫu vật được
thu thập nhờ mạng lưới cộng tác viên địa phương.
- Phỏng vấn người dân về thành phần động vật và các thông tin liên quan
đến mục tiêu đề tài bằng việc sử dụng bộ phiếu phỏng vấn kết hợp với bộ ảnh
màu để đối chiếu. Người phỏng vấn phải là người có quan tâm, hiểu biết về
động vật của Rừng Nà, phỏng vấn được lặp lại ở nhiều người để tăng độ tin
cậy thông tin được xử lý thống kê.
- Trong phòng thí nghiệm:
- Định loại mẫu vật: định danh mẫu vật bằng phương pháp so sánh hình
thái dựa vào các tài liệu chuyên dụng và phương pháp chuyên gia.
+ Định loại cá dựa vào các tài liệu của Nguyễn Hữu Phụng (2001).
+ Định loại Lưỡng cư, Bò sát dựa vào các tài liệu của Cox (1998);
Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Quảng Trường, Hồ Thị Thu Cúc (2005)
+ Định loại Chim dựa vào các tài liệu của Võ Quý (1975, 1981); Robson,
C. R. (2000); Nguyễn Cử, Lê Trọng Trải, Karen Phillips (2005).
+ Định loại Thú dựa vào các tài liệu của Cao Văn Sung, Đặng Huy
Huỳnh, Bùi Kính (1980), Đào Văn Tiến (1985).
- Đánh giá mức độ quý hiếm, đe doạ dựa vào các ấn phẩm được nhà nước
và các tổ chức bảo tồn ban hành: Sách đỏ Việt Nam (2007), Nghị định 32/NĐ -
CP (2006), Danh lục đỏ IUCN (2009).
10
- Phân tích một số yếu tố tác động đến đa dạng động sinh học động vật có
xương sống: xử lý số liệu phỏng vấn, các số liệu liên quan kết hợp với các quan
điểm bảo tồn
11
CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HOÁ KHU VỰC RỪNG NÀ - MỘ ĐỨC
Rừng Nà nằm ở thôn Lương Nông Nam và Lương Nông Bắc thuộc xã
Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, cách đường Quốc lộ 1A chừng 4 km về hướng tây
và cách huyện lỵ Mộ Đức khoảng 7 km về hướng đông – bắc. Với vị trí gần
như trung tâm của các xã vùng đông Mộ Đức, phía bắc là các xã Đức Lợi, Đức
Thắng, phía đông là xã Đức Minh, phía nam là các xã Đức Phong, Đức Chánh
nên rừng Nà có vai trò quan yếu trên hành lang liên lạc giữa các xã ven biển
phía đông và là điểm nối giữa các xã khu đông với khu tây huyện Mộ Đức để
tạo thể liên hoàn và hỗ trợ trong quá trình triển khai lực lượng tác chiến chống
địch. Vì vậy, trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và đế quốc Mỹ rừng Nà đã
trở thành một trong những căn cứ kháng chiến quan trọng nằm ở phía đông và
cùng với căn cứ kháng chiến núi Lớn (Đức Phú) nằm ở phía tây huyện Mộ Đức,
đóng góp quan trong về sức người, sức của để chi viện cho các địa phương trong
tỉnh và khu V, đồng thời cũng là chỗ dựa vững chắc cho các lực lượng dân quân
du kích vùng đông Mộ Đức và các lực lượng vũ trang bộ đội địa phương đóng
quân và xuất kích tấn công địch.
Rừng Nà là khu rừng rậm với nhiều gò đồi và bãi sình lầy chạy dọc theo
chiều Bắc - Nam của xã Đức Thạnh. Rừng có diện tích hơn 350.000m2 với
nhiều cây cối, đầm lầy, ao lũng bao quanh tạo nên thế hiểm yếu có thể dựa vào
để làm căn cứ phòng thủ, trú ẩn và phát triển lực lượng cũng như tổ chức đánh
địch của các lực lượng vũ trang trong tỉnh. Vì thế trong 2 cuộc kháng chiến
chống Pháp và Mỹ - Nguỵ rừng Nà là căn cứ vững chắc của lực lượng vũ trang
địa phương. Từ căn cứ rừng Nà, du kích và bộ đội địa phương đã tổ chức phòng
thủ chống càn và xuất kích đánh địch giành nhiều thắng lợi vang dội. Trong
những năm 1930 -1936, rừng Nà là nơi hoạt động và trú ẩn của một số cán bộ
lãnh đạo chủ chốt của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi và huyện Mộ Đức trong những
tháng năm Đảng ta còn hoạt động bí mật để lãnh đạo phong trào quần chúng và
xây dựng cơ sở cách mạng chuẩn bị lực lượng cho cuộc đấu tranh giành chính
quyền sau này. Cũng trong thời gian này, đồng chí Trần Lương (Trần Nam
Trung) - Thường vụ Tỉnh uỷ và Bí thư Huyện uỷ Mộ Đức đã ở tại xã Đức Thạnh
bí mật hoạt động và ẩn nấu tại rừng Nà để chỉ đạo phong trào cách mạng huyện
Mộ Đức. Vì vậy trong thời gian này phong trào đấu tranh của quần chúng ở xã
Đức Thạnh đòi dân sinh, dân chủ, đòi ruộng đất và các quyền lợi kinh tế do
đồng chí Trần Lương lãnh đạo; các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh niên dân
chủ, nông hội đỏ, được thành lập dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng đã lãnh đạo
và phát triển mạnh phong trào đòi dân sinh dân chủ tại địa phương và lan rộng ra
khắp địa bàn huyện Mộ Đức.
Rừng Nà đã được UBND tỉnh Quảng Ngãi quyết định xếp hạng di tích
lịch sử văn hoá. Hiện nay rừng Nà vẫn còn giữ được cảnh quan thiên nhiên
hoang sơ vốn có, tuy nhiên do chưa có quy hoạch bảo vệ cụ thể nên trong thời
gian qua rừng Nà bị lấn chiếm, diện tích tự nhiên dần bị thu hẹp đáng kể. Có thể
12
thấy, ngoài giá trị lịch sử, phản ánh ý chí đấu tranh cách mạng của quân và dân
xã Đức Thạnh và nhân dân huyện Mộ Đức, rừng Nà còn là một thắng cảnh đẹp,
với rừng cây tự nhiên, có đầm lầy, gò đồi, được bao bọc bởi xóm làng, đồng
ruộng và nằm gần bãi biển Đức Minh, nếu biết bảo tồn, đầu tư khai thác rừng Nà
sẽ trở thành một di tích lịch sử cách mạng và thắng cảnh đẹp hấp dẫn khách
tham quan du lịch.
13
CHƯƠNG 4
THỰC TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC KHU VỰC RỪNG NÀ
1. Kết quả về điều tra, lấy mẫu phân tích động vật tại khu vực nghiên
cứu:
1.1. Thành phần loài động vật có xương sống ở khu vực Rừng nà -
Mộ Đức
Qua quá trình khảo sát thực địa, phân tích mẫu vật và xử lý các thông tin
phỏng vấn, lần đầu tiên chúng tôi đã ghi nhận được 123 loài động vật có xương
sống thuộc 5 lớp, 21 bộ, 57 họ và 92 giống có ở khu vực rừng nà. Đây là công
bố đầu tiên về thành phần loài động vật có xương sống ở Rừng nà, tuy nhiên đây
chưa phải là danh sách cuối cùng.
Động vật có xương sống Rừng Nà có 3 nhóm là nhóm di cư mùa đông,
nhóm di cư mùa hè và nhóm định cư, đối với nhóm di cư thì chủ yếu là lớp
chim. Trong đó, nhóm di cư mùa đông có 23 loài (chiếm 18,7% tổng số loài),
nhóm di cư mùa hè có 17 loài (chiếm 13,8 % tổng số loài), nhóm định cư có số
lượng loài nhiều nhất (83 loài, chiếm 67,5%).
1.2. Cấu trúc thành phần loài
Qua phân tích thành phần loài cho thấy lớp Chim (Aves) có 84 loài thuộc
57 giống, 29 họ, 11 bộ là lớp có số bậc taxon đa dạng nhất. Tiếp theo là lớp Bò
sát (Reptilia) có 17 loài thuộc 15 giống, 7 họ, 1 bộ; lớp Lưỡng cư (Amphibia) có
11 loài thuộc 9 giống, 15 họ, 2 bộ; lớp Cá xương (Osteichthyes) có 7 loài thuộc
7 giống, 5 họ, 4 bộ; đơn giản nhất là lớp Thú (Mamamlia) chỉ có 4 loài thuộc 4
giống, 3 họ, 3 bộ.
Số lượng về thành phần loài ĐVCXS ở Rừng nà như vậy cũng chưa đầy
đủ so với thực tế vốn có của nó. Tuy nhiên, những số liệu này cũng thể hiện
được tính đa dạng của các bậc taxon.
1.3 Các chỉ số đa dạng
Trong tổng số 123 loài động vật được phát hiện thuộc 92 giống, 49 họ, 21
bộ. Như vậy trung bình mỗi giống có 5,8 loài, mỗi họ có 8,5 giống và 10,2 loài.
Mỗi bộ chứa 33,2 loài, 27,8 giống và 14,35 họ
Bảng 3.5: Tỷ số đa dạng giữa các bậc taxon của các nhóm ĐVCXS ở
Rừng nà.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở taxon bậc giống hầu hết là giống đơn
loài (có đến 71 giống đơn loài, chiếm 77,2% tổng số giống), có 21 giống có từ 2
loài trở lên.
2. Điều tra, lấy mẫu thực vật phân tích tại khu vực nghiên cứu:
2.1. Đặc điểm thảm thực vật rừng Nà huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngãi
14
Rừng Nà gồm 6 khoảnh rừng nhỏ, cây phát triển trên các vũng đầm lầy
ngập nước ở xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. So với cấu trúc 5
tầng mà Thái Văn Trừng đã phân chia cho thảm thực vật rừng Việt Nam thì rừng
Nà có cấu trúc phân tầng đơn giản hơn, chỉ gồm 2 tầng sau:
- Tầng tán gồm các cây gỗ vừa, có đường kính ngang ngực thường đạt từ
7 - 41 cm, chiều cao vút ngọn từ 7 - 14m, ưu thế là Gáo (Glochidion
zeylanicum), Kháo (Machilus chinensis), Bùi tụ tán (Ilex cymosa), Dung
(Symplocos sp1.), Ba chạc (Euodia lepta). Tầng này được xem là tầng ưu thế
sinh thái của rừng. Độ tàn che từ 70-80%.
- Tầng thảm gồm các cây bụi nhỏ có chiều cao dưới 2m và các loài cỏ
quyết. Thường gặp ở rừng Nà là các loài: Ráng hình dải (Taenitis blechnoides),
Ráng thân lân có lông (Nephrolepsis hirsutula), Riềng mép ngắn (Alpinia
breviligulata), Lấu (Psychotria montana), Ngái (Ficus spp.), Đùng đình
(Caryota sp.), Lác (Cyperus sp.)
2.2. Đa dạng về cấu trúc thành phần loài thực vật bậc cao có mạch ở
rừng Nà
2.2.1. Đa dạng các bậc taxon thực vật ở rừng Nà
Trong 52 loài và dưới loài thực vật xác định được ở rừng Nà, ngành
Dương Xỉ (Polypodiophyta) chỉ có 4 họ và 4 loài (chiếm 11,8% tổng số họ và
7,7% tổng số loài), ngành Ngọc Lan (Magnoliophyta) chiếm ưu thế với 30 họ và
48 loài (chiếm 88,2% tổng số họ và 92,3% tổng số loài). Số lượng các taxon
trong ngành Ngọc Lan tập trung chủ yếu vào lớp Ngọc lan - Magnoliopsida với
21 họ, 31 chi và 39 loài, trong khi lớp Loa kèn - Liliopsida ít hơn với 9 họ, 9 chi
và 9 loài.
Trong số 34 họ thực vật ở rừng Nà, 3 họ Dâu tằm (Moraceae), Sim
(Myrtaceae) và Thầu dầu (Euphorbiaceae) là đa dạng nhất bởi cùng có 5 loài.
Các họ Rubiaceae, Lauraceae, Caesalpiniaceae, Symplocaceae có 2 - 4 loài, các
họ còn lại chỉ có 1 loài.
Ở bậc chi, hầu hết các chi ở khu hệ thực vật rừng Nà chỉ có 1 loài, ngoại
trừ chi Ficus có 5 loài, Psychotria có 3 loài và 2 chi Symplocos, Syzygium có 2
loài.
Một cách đơn giản để đánh giá tính đa dạng của hệ thực vật là thông qua
các chỉ số đa dạng của các họ, chi trong khu hệ. Tổng các chỉ số đó (gọi là chỉ số
đa dạng phân loại) càng cao thì mức độ đa dạng càng lớn [6]. Khu hệ thực vật
rừng Nà có các chỉ số như sau: chỉ số họ là 1,5 (mỗi họ trung bình có 1,5 loài),
chỉ số chi là 1,2 (mỗi chi trung bình có 1,2 loài), chỉ số chi/họ là 1,3 và chỉ số đa
dạng phân loại là 4,0. Các chỉ số trên cho thấy hệ thực vật này có mức độ đa
dạng thấp, điều này phù hợp với sự đơn giản trong cấu trúc thảm thực vật của
rừng Nà.
Tuy không nằm trong danh lục thành phần loài thực vật rừng Nà, nhưng
trong quá trình khảo sát thực địa chúng tôi nhận thấy có sự xuất hiện của 2 loài
15
ngoại lai xâm hại là Mai dương Mimosa pigra L. (họ Trinh nữ Mimosaceae) và
bèo Lục bình Eichhornia crassipes Solms (họ Pontederiaceae) phân bố ven Nà
Đôn Lương. Theo quan sát thấy cây Mai dương có khả năng phát triển rất tốt và
đang có xu hướng lấn chiếm các khoảng đất trống ở bìa rừng Nà. Loài ngoại lai
xâm hại này có khả năng phát tán nhanh, thích hợp với môi trường ẩm ướt, bán
ngập [10] nên cần đặc biệt lưu ý và có biện pháp loại bỏ khi thực hiện các biện
pháp quản lý và bảo tồn rừng Nà.
2.2.3. Đa dạng về giá trị tài nguyên thực vật rừng Nà
Trong tổng số 52 loài đã xác định ở rừng Nà có 28 loài có giá trị sử dụng,
một số loài chỉ có 1 mục đích sử dụng nhưng cũng có nhiều loài được sử dụng
với nhiều mục đích khác nhau. Trong đó nhóm cây làm thuốc có số loài lớn nhất
với 21 loài chiếm 40,4 % tổng số loài, tiếp đến là nhóm cây lấy gỗ (12 loài,
chiếm 23,1%), nhóm cây làm cảnh (7 loài, chiếm 13,5%), nhóm cây ăn quả (5
loài, chiếm 9,6%) và cuối cùng là nhóm cây cho tinh dầu chỉ có 2 loài (chiếm
3,8%).
Ngoài ra, ở rừng Nà còn gặp loài Sơn dây (Strophanthus sp.), thân và lá
loại cây leo nhiều năm này chứa nhựa mủ và có thể gây sưng ngứa nếu da người
tiếp xúc với nhựa mủ này.
16
CHƯƠNG 5
Phân tích, Đánh giá các yếu tố tác động đến tính đa dạng sinh học của
khu vực Rừng Nà và giá trị kinh tế xã hội của đa dạng sinh học tại khu vực
1. Phân tích các yếu tố tác động đến tính đa dạng sinh học của khu
vực Rừng Nà:
1.1. Phân tích tác động do môi trường.
Mọi hoạt động phát triển luôn luôn đi đôi với việc tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội đồng thời cũng để lại những hậu quả khôn lường từ môi trường.
Chính vì vậy các hoạt động về môi trường cần phải đi kèm với công tác đánh giá
tác động môi trường.
Qua 2 đợt thu mẫu, nhận thấy môi trường nước ngầm tại khu vực Nà Đức
Tân và Nà Đôn Lương tại rừng Nà là khá tốt. Tác động ảnh hưởng của môi
trường xung quanh đến mạch nước ngầm tại Nà hầu như là không có. Nước
ngầm được cư dân quanh Nà xem là nguồn cung cấp nước sinh hoạt chủ yếu. Do
vậy từ lâu Nà đã chứng minh mình chính là túi nước ngọt cực tốt để phục vụ cho
đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ.
Sự ô nhiễm của môi trường đất thực chất chủ yếu là do tiếp nhận một khối
lượng lớn chất thải từ sinh hoạt sống hàng ngày của người dân. Một khi dân cư
ngày càng đông đúc thì lượng chất thải sinh hoạt sinh ra ngày càng nhiều. Mặt
khác trình độ phát triển kỹ thuật ngày càng cao và mức sống vật chất của người
dân cũng tăng theo thì lượng chất thải tính trên đầu người càng cao.
Ngoài ra ô nhiễm môi trường đất cũng do từ sản xuất nông nghiệp, các
loại phân bón hoá học chiếm một vai trò khá lớn đối với việc gây ô nhiễm môi
trường đất. Như chúng ta được biết khi bón phân thì 50% được hấp thụ vào cây
trồng còn 50 % sẽ đi vào đất dẫn tới ô nhiễm đất làm suy thoái chất lượng đất ,
làm mất cân bằng dinh dưỡng giữa đất và cây trồng.
Tuy nhiên kết quả thu được qua 2 đợt phân tích chúng tôi nhận thấy môi
trường đất tại Nà tương đối tốt. Hầu như các chỉ tiêu đo được điều không vượt
quá QCVN 03:2008 BTN.
Môi trường không khí và tiếng ồn tại khu vực Nà Đức Tân và Nà Đôn
Lương sau 2 đợt phân tích nhận thấy hầu như các chỉ tiêu cũng không vượt sự
cho phép của TCVN.
Nhìn chung qua các kết quả phân tích được ở trên chúng tôi nhận thấy tác
động do môi trường đến khu vực rừng Nà là không đáng kể. Tuy nhiên chúng ta
cần có những biện pháp cụ thể cho việc duy trì cũng như ngăn chặn các diễn
biến có thể ảnh hưởng đến môi trường xảy ra trong tương lai.
1.2. Phân tích tác động do phương thức khai thác không hợp lý.
Mất rừng, đồng nghĩa với việc mất nơi ở, nơi trú ẩn và nguồn thức ăn của
các loài động vật hoang dã sẽ giảm đi nhanh chóng, vùng phân bố của chúng
17
cũng ngày càng bị thu hẹp theo diện tích của rừng. Mất rừng sẽ gây nên những
chuyển biến về khí hậu trong vùng, gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống của các
loài động vật cũng hoạt động sống hằng ngày của người dân quanh khu vực. Tất
cả điều đó đã và đang làm suy giảm tính đa dạng sinh học.
Việc xâm lấn đất rừng để mở đường, làm đất canh tác một mặt đã thu
hẹp diện tích rừng, làm giảm sức chứa của hệ sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến
nơi ở, kiếm ăn của hầu hết các loài động vật ở đây. Mặt khác, việc xâm lấn đất
rừng để canh tác đã góp phần trực tiếp làm giảm thành phần loài động thực vật,
đặc biệt với loại hình canh tác độc canh như lúa nước và rau màu đã làm mất đi
tính đa dạng vốn có ở rừng Nà. Khi diện tích rừng thu hẹp, trực tiếp đe doạ đến
thành phần thực vật trong Nà mà nó còn làm giảm vai trò là ngôi nhà cho muôn
thú trú ngụ vì bề dài bị thu hẹp, tiếng động do hoạt động sinh hoạt của con
người
Ngoài việc thu hẹp diện tích rừng thì hoạt động săn bắn cũng gây tác động
xấu. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho tính đa dạng sinh học
cũng như sinh thái cảnh quan của Rừng Nà bị suy thoái nghiêm trọng là việc
khai thác không hợp lý của người dân địa phương. Đã có khá nhiều loài động -
thực vật bị tiêu diệt hàng loạt, dẫn đến có một số loài bị tuyệt chủng.
1.3. Phân tích tác động do có sinh vật ngoại lai.
Mất mát đa dạng sinh học đã và đang là mối lo chung của nhân loại.
Trong nhiều nguyên nhân gây tổn thất đa dạng sinh học, các loài sinh vật ngoại
lai xâm hại được coi là một trong những mối đe doạ nguy hiểm nhất. Nhận ra
được điều này, Công ước Đa dạng Sinh học đã dành hẳn một khoản trong điều
8, để kêu gọi các bên tham gia công ước: "Ngăn chặn sự du nhập, kiểm soát
hoặc diệt trừ các loài ngoại lai gây hại cho các hệ sinh thái, nơi sống hoặc các
loài sinh vật bản địa"
Sinh vật ngoại lai xâm hại trước hết là những loài không có nguồn gốc
bản địa. Khi được đưa đến một môi trường mới, một loài ngoại lai có thể không
thích nghi được với điều kiện sống và do đó không tồn tại được. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp khác, do thiếu vắng các đối thủ cạnh tranh và thiên địch
như ở quê nhà cùng với điều kiện sống thuận lợi, các loài này có điều kiện sinh
sôi nảy nở rất nhanh và đến một lúc nào đó phá vỡ cân bằng sinh thái bản địa và
vượt khỏi tầm kiểm soát của con người. Lúc này nó trở thành loài ngoại lai xâm
hại.
Sinh vật ngoại lai có thể xâm nhập vào một môi trường sống mới bằng
nhiều cách. Nó có thể đi theo con đường tự nhiên như theo gió, dòng biển và
bám theo các loài di cư, nhưng quan trọng hơn cả là do hoạt động của con
người. Cùng với sự phát triển của giao thông vận tải và hoạt động thông thương,
con người đã mang theo, một cách vô tình hay hữu ý, các loài sinh vật từ nơi
này đến nơi khác thậm chí đến những vùng rất xa quê hương của chúng. Việc
kiểm soát sự du nhập của chúng là rất khó, đặc biệt là đối với các trường hợp du
nhập một cách vô thức. Các loài này có thể trà trộn trong hàng hoá, sống trong
nước dằn tàu, bám vào các phương tiện vận tải như tàu thuyền và nhờ đó được
18
mang đến đến môi trường sống mới. Nhiều loài được du nhập một cách có chủ ý
cho các mục đích kinh tế, giải trí, khoa học nhưng do không được kiểm tra và
kiểm soát tốt đã bùng phát và gây ra nhiều tác hại nặng nề.
1.4. Phân tích tác động do năng lực và phương thức quản lý.
Nghiên cứu cho thấy hầu hết người dân đều xác định được vai trò của
Rừng Nà trong việc thu hút các đàn chim di cư, là môi trường sinh sống cho các
động vật khác. Tuy nhiên, việc khai thác chúng vẫn không hợp lý nhìn chung là
do nhận thức chưa cao, người dân chưa có cái nhìn tổng thể về đa dạng sinh học.
Họ quan niệm chim trời, cá nước, đến mùa thì chim về, cá vào nà. Do đó, việc
khai thác của họ không làm ảnh hưởng đến mùa di cư năm sau Mặc dù xác
định được mùa vụ sinh sản, nhưng quan niệm mình không khai thác thì người
khác sẽ khai thác, dẫn đến hàng loạt loài bị đánh bắt ngay khi đang đẻ trứng,
chăm con.
Qua điều tra cũng cho thấy khâu quản lý về khai thác động vật cũng như
thực vật trong Rừng Nà vẫn chưa được quan tâm một cách cụ thể. Diện tích
rừng bị thu hẹp bởi các hoạt động canh tác, công trình dân sinh chia cắt đã làm
ảnh hưởng đáng kể đến đa dạng sinh học. Ngoài ra, một số hiện tượng sau thể
hiện rõ việc yếu kém trong quản lý tại địa phương đã góp phần làm suy giảm đa
dạng sinh học Rừng nà.
2. Đánh giá giá trị kinh tế xã hội của đa dạng sinh học Rừng Nà
2.1. Giá trị khai thác gián tiếp:
2.1.1. Giá trị lịch sử:
Tháng 4/1931 giữa rừng cây bạt ngàn thời ấy. Rừng Nà còn khá hoang sơ
và nguyên thuỷ. Cờ búa liềm của Đảng đã phất phới bay dưới nền trời xanh
trong những ngày kháng sưu cựu thuế biểu tình Trà Niên. Có thể nói rừng Nà là
một địa điểm lịch sử nổi bật thuộc xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng
Ngãi, thời ấy từng được xem là một trong những căn cứ địa vững chắc của cách
mạng, ngoài ra nơi đây còn là điểm thu đấu quân lương tạo nên căn cứ hậu cần
vững mạnh cho lực lượng cách mạng trong thời chống Mĩ, do vậy giặc Mĩ đã
điên cuồng càn quét giết hại vô số dân lành vô tội, để lại một dấu ấn lịch sử
không thể nào quên.
Khu di tích Rừng Nà hiện nay đã được bảo vệ nhằm mục đích giáo dục
lịch sử cho nhân dân địa phương nói riêng và cả nước nói chung. Tất nhiên, ý
nghĩa lịch sử không chỉ ở những nấm mồ và bia tưởng niệm mà còn bao trùm cả
cảnh quan sinh thái của địa phương…Như thế rõ ràng chúng ta cần phải có
những chương trình bảo vệ, phục hồi và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên của cả
khu vực. Chương trình đó chính là hành động bảo tồn đa dạng sinh học.
19
Thực hiện tốt những hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học khu vực tức là
chúng ta đã góp phần gìn giữ những nét son lịch sử cho địa phương.
Thực hiện tốt một dự án bảo tồn đa dạng sinh học, chúng ta sẽ phát huy
được giá trị của những nguồn tài nguyên thiên nhiên, vốn đã gắn liền với những
hoạt động cách mạng chống xâm lược. Nhiều loài động vật, thực vật đã từng là
nguồn thực phẩm, thuốc men chữa bệnh, cứu đói cho các chiến sĩ cách mạng.
Nhiều sinh cảnh đã từng che chở cho các lực lượng vũ trang, giúp cho các lực
lượng vũ trang nguỵ trang để chiến đấu hiệu quả.
Bảo tồn đa dạng sinh học tức là bảo vệ, phục hồi và phát triển nguồn tài
nguyên thiên nhiên đã từng gắn bó với sự sống còn và thắng lợi của quân dân
địa phương trong hai cuộc chiến tranh chống giặc Pháp và giặc Mĩ. Từ đó chúng
ta có điều kiện giới thiệu, ôn lại lịch sử cho thế hệ con cháu mai sau.
2.1.2. Giá trị du lịch:
Hiện nay du lịch sinh thái được xem là một trong những hoạt động du lịch
được nhiều người quan tâm. Ngày càng có nhiều du khách tham gia du lịch sinh
thái, ở Quảng Ngãi đã có nhiều địa điểm được phát triển hình thành khu du lịch
sinh thái, cuốn hút được nhiều du khách trong nước cũng như nước ngoài đến
thăm quan và nghĩ dưỡng.
Rừng Nà là một trong những điểm đó, tuy nhiên để phát huy vai trò sinh
thái của thiên nhiên, tăng sức hấp dẫn du khách thì chúng ta phải biết tác động
hợp lý vào những gì sẵn có.
Tất cả các loài động vật ở rừng Nà, đặc biệt là chim góp phần quan trọng
trong chiến lược phát triển du lịch sinh thái, một loại hình công nghiệp không
khói. Khi mà xu hướng công nghiệp hoá đang phát triển mạnh cùng với sự tuyệt
chủng của nhiều loài động vật hoang dã, các khu rừng ngày càng chia nhỏ và lùi
xa khu dân cư thì nhu cầu du lịch sinh thái thưởng ngoạn thiên nhiên sẽ là nhu
cầu bức thiết.
Diện tích khu vực rừng Nà không lớn và thành phần loài động vật đã phát
hiện cũng không quá đa dạng. Nhưng nghiên cứu cho thấy động vật ở đây có
những đặc trưng riêng: nhiều loài chim nước xuất hiện với số lượng lớn (các loài
như: cò, vạc…).
Chính các loài này sẽ là điểm nhấn cho khai thác du lịch với thấp thoáng
bóng cò ngoài đồng và điểm trắng các bìa rừng sẽ tạo cho du khách chiêm
ngưỡng vẻ thanh bình, tỉnh lặng. Đây cũng là một lợi thế so với các khu vực
khác như VQG Bạch Mã, Khu vực hành lang xanh du khách muốn ngắm chim
rừng chỉ cần dậy thật sớm, lặng lẽ men theo bìa rừng. Chúng ta có thể thấy sự di
cư từng đàn sau một đêm tìm kiếm thức ăn mệt mỏi quay về của bầy Vạc thì
cũng lúc ấy những đàn Cò Trắng lại réo rắt bay đi bắt đầu cuộc hành trình kiếm
mồi cho một ngày mới. Có thể nói ngày mới bắt đầu của rừng Nà là đây.
20
2.2. Giá trị khai thác trực tiếp:
*. Các loài quý hiếm, có ích:
* Thực vật:
BẢNG 1.5: DANH LỤC THÀNH PHẦN LOÀI THỰC VẬT Ở RỪNG
NÀ - MỘ ĐỨC
Stt
họ
Tên Họ
Stt
loài Tên khoa học
Tên tiếng
Việt
Công
dụng
Ngành Dương xỉ - Polypodiophyta
1 Aspidiaceae
1
Taenitis blechnoides (Willd.)
Sw.
Ráng hình
dải
2 Davalliaceae
2
Nephrolepsis hirsutula
(G.Forst.) C.Presl.
Ráng móng
trâu lông
3 Blechnaceae
3
Stenochlaena palustris
(Burm.f.) Bedd. Chai, Choại
4 Ligodiaceae
4 Lygodium scandens (L.) Sw.
Bòng bong
leo
Ngành Ngọc Lan – Magnoliophyta
Lớp Ngọc Lan – Magnoliopsida
5 Apocynaceae 5 Strophanthus sp. Sơn dây
6 Aquifoliaceae 6 Ilex cymosa Blume Bùi tụ tán T, M
7 Asclepiadaceae 7 Dischidia sp. Song ly
8 Caesalpiniaceae
8 Ormosia sp. Ràng ràng
9 Caesalpinia sp. Me leo
9 Clusiaceae 10 Calophyllum inophyllum L. Mù u M, T
10 Dilleniaceae 11 Tetracera scandens (L.) Merr. Dây chìu M, Or
11 Euphorbiaceae
12 Bridelia insulana Hance Đỏm M
13 Croton sp.
14
Mallotus microcarpus Pax et
Hoffm.
Ruối trái
nhỏ T
15
Glochidion zeylanicum
(Gaertn.) A. Juss.
Sóc tích lan,
Gáo M, T
16
Phyllanthus cf. gracilipes
Muell Arg.
Diệp hạ
châu cọng
mảnh
12 Fabaceae 17 Canavalia cathartica Thouars Đậu cộ biển, M
21
Đậu dao
13 Flacourtiaceae
18 Scolopia chinensis (Lour.) Clos
Bóm tàu,
Bôm tàu
14 Lauraceae
19 Cassytha filiformis L. Tơ xanh M
20
Machilus chinensis (Champ. ex
Benth.) Hemsl.
Vàng trắng
Trung quốc,
Kháo T
15 Melastomaceae 21 Melastoma cf. sangonense Mua Or, F
16 Mimosaceae
22
Archidendron clypearia (Jack)
I.Nielsen Mán đĩa
17 Moraceae
23 Ficus microcarpa L.f. Gừa, Si M, Or
24
Ficus hispida var.
badiostrigosa Corner
Sung đất,
Ngái rễ Or
25 Ficus formosana Maxim.
Sung Đài
Loan
26 Ficus simplicissima Lour. Ngái đơn
27
Ficus simplicissima Lour. var.
annamica (Gagnep.) Corner
Ngái vẽ, Vú
bò nam
18 Myrsinaceae
28 Myrsine linearis (Lour.) Poir.
Xay hẹp, Ma
ca
19 Myrtaceae
29
Cleistocalyx operculatus
(Roxb.) Merr. et Perry
Vối, Trâm
nắp
M, T,
F
30 Melaleuca leucadendra (L.) L. Tràm
M,
Oil
31
Rhodomyrtus tomentosa
(Aiton) Hassk. Sim
M,
Or, F
32 Syzygium sp. Trâm
33 Syzygium zeylanicum (L.) DC. Trâm vỏ đỏ M, T
20 Oleaceae 34 Olea brachiata (Lour.) Merr. Ô liu nhánh
21 Rhizophoraceae
35
Carallia brachiata (Lour.)
Merr.
Xăng mã,
Trúc tiết
M, T,
F
22 Rubiaceae
36 Gardenia angusta (L.) Merr. Dành dành
M,
Or,
Oil
37 Psychotria montana Blume Lấu núi M
22