Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Kỹ năng giải tỏa stress

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.42 KB, 36 trang )

Mục lục
PHẦN I: KHÁI QUÁT ĐỀ TÀI
Tên đề tài: “Kỹ năng giải toả stress”.
1 Tính cấp thiết của đề tài:
a Lí do thực tiễn và lí luận
Hiện nay, stress là một hiện tượng diễn ra phổ biến và có tác động phức tạp trong
đời sống xã hội. Stress được rất nhiều các nhà khoa học ở nhiều ngành nghề quan tâm và
nghiên cứu như: y học, sinh học, tâm lý học… nhằm mục đích đưa ra được những biện
pháp tốt nhất để giảm những tác hại của stress. Những nghiên cứu về stress cho thấy: Ở
mức độ nào đó stress vừa là trở ngại, vừa là tác nhân buộc con người phải phải vượt qua để
tồn tại.
Khi ở mức độ nhất định, stress kích thích cơ thể hoạt động, huy động năng lượng dự
trữ, tạo thuận lợi cho hành động trong những điều kiện khó khăn, nguy hiểm. Đây chính là
mặt có lợi của stress. Tuy nhiên, stress thái quá sẽ làm cho cơ thể kiệt sức, căng thẳng lo âu,
kích động, mất ngủ, suy giảm hệ miễn dịch, giảm khả năng lao động trí óc và chân
tay Trong trường hợp cơ thể không tự điều chỉnh được để lấy lại cân bằng tâm sinh lý,
stress có thể gây ra bệnh tật ở con người. Đây là mặt có hại của stress cần được nghiên cứu
và khắc phục.
Không phải chối cãi hay tránh né, chắc chắn stress (căng thẳng) đã trở thành một
“yếu tố thời đại”. Stress tồn tại trong mọi nền văn hóa, mọi quốc gia, và mọi mối quan hệ
của con người trên thế giới này. Đặc biệt hơn, những người sống tại các thành phố lớn,
thành phố công nghiệp nói chung và những người làm việc trong môi trường nhiều cạnh
tranh sẽ có nguy cơ đối diện với nhiều vấn đề gây stress hơn.
Đặc biệt đối tượng học sinh là những đối tượng cần được quan tâm nhiều nhất vì đó
là những thế hệ tương lai của đất nước và cũng là lực lượng nòng cốt chủ yếu trong xã hội.
Ngày nay do sự phát triển của công nghệ hiện đại, kỹ thuật tinh vi, nhịp độ sống
và làm việc khẩn trương và sôi động, thông tin ngập tràn … đang làm gia tăng sự căng
thẳng tâm lý và chấn thương tinh thần ở con người. Stress đang là nguyên nhân của
những bệnh như: tim mạch, loét dạ dày, tiểu đường, trầm cảm, tâm thần phân liệt…của
2
con người hiện nay.


Xã hội càng hiện đại, nhịp sống ngày càng tăng và gấp gáp. Một mặt, sự phát triển
làm cho điều kiện sống ngày càng tốt hơn, mặt khác, là sự kéo theo các tác nhân gây stress
với tất cả mọi người. Ai cũng có thể bị stress. Stress có mặt ở mọi biến cố đời người, nó
dường như là một phần không thể thiếu trong cuộc sống từ nam tới nữ, từ trẻ em, thanh
niên tới người trưởng thành và người già. Tỷ lệ chịu đựng stress đang gia tăng. Stress hiện
diện khắp nơi trong cuộc sống với mọi người và mọi lứa tuổi. Trẻ em đi học cũng bị
stress vì áp lực bài vở, đầu sách, chương trình học thêm, dạy thêm tràn lan. Trẻ em mất
cơ hội chơi để phục hồi sau stress.
Stress gặp ở lứa tuổi học sinh vì gánh nặng thì cử, học hành, vấn đáp.
Ở Việt Nam rối nhiễu tâm lý học đường (trong đó có stress) đã trở thành vấn đề
được nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục, phụ huynh học sinh quan tâm. Đã có một
số công trình nghiên cứu về vấn đề học đường đã nhấn mạnh cách yếu tố như sức ép xã
hội, gia đình, chương trình học quá tải, tình trạng dạy thêm học thêm, bệnh thành tích trong
thi cử là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress học đường ngày càng tăng cao.
Hậu quả stress học đường có ảnh hưởng rất lớn tới sinh hoạt và học tập của sinh
viên. Sinh viên trở nên rất khó tập trung trong học tập, học hành sa sút ở tất cả các môn bất
chấp mọi nỗ lực cố gắng. Nặng hơn, học sinh có những hành vi bột phát, thiếu kiểm soát
như bỏ học, phá rối, bỏ nhà, đánh nhau thậm chí tự sát hoặc trở nên loạn thần.
b Lịch sử nghiên cứu về vấn đề stress của con người:
Ngoài nước:

- Những nghiên cứu về stress trước thế kỷ XX.
Trong lịch sử phát triển khoa học, mặc dù chưa hiểu bản chất của stress và cơ chế
của nó, nhưng bằng thực tiễn của cuộc sống, con người đã nhận thấy được những tác hại của
nó đối với sức khoẻ và đã đề xuất cách chống stress có hại. Từ thời Xuân thu Chiến Quốc
(403-221 TCN), các danh y người Trung Quốc với hơn 2000 năm kinh nghiệm, đã đúc
kết những nguyên nhơn dẫn đến bệnh tật là do:
Nguyên nhân bên ngoài: “lục khí - ngũ vận”, (tức là gió - rét, nắng - ẩm thấp, khô
3
hanh và nóng).

Nguyên nhân bên trong: do rối loạn 7 loại cảm xúc, còn gọi là “thất tình” tức là: vui,
giận, sầu bi, khoái lạc, yêu, ghét, đam mê.
Nguyên nhân do những biến cố trong đời sống như: thiên tai, tai nạn, bị con vật
cắn.
Sự đóng góp của Hooke bởi thuyết “tương đồng cấu trúc” và tư tưởng “cơ thể như
một cỗ máy” đặt nền móng cho hai tư tưởng khác có ảnh hưởng sâu sắc đến khái niệm về
stress. Đó là:
Thứ nhất, cơ thể được xem như cỗ máy là vật bị hư tổn và bào mòn.Sau này, năm
1956 H.Selye cũng cho rằng stress tác động làm cơ thể “hư tổn và bào mòn”.
Thứ hai, cỗ máy cần nhiên liệu để hoạt động, cơ thể để hoạt động được cũng cần
năng lượng.Tuỳ thuộc vào năng lượng - sản phẩm của hệ thần kinh, cơ thể sẽ hoạt động
hiệu quả, kém hiệu quả hoặc thậm chí ngừng hoạt động. Các nhà khoa học nhanh chóng sử
dụng những khái niệm “sự cạn kiệt năng lượng thần kinh” và “những rối loạn thần kinh”.
Thế kỷ XVIII, những “cảm xúc mạnh” như: trạng thái tinh thần bị kích động,
chứng hysteri, ảo tưởng được xem xét lại như một lời giải thích cho bệnh tật. Khi dùng
những trạng thái đó để giải thích, nhiều người đã đi tới kết luận “Ít nhất 1/3 căn bệnh đều
có nguồn gốc thần kinh”. Các nhà khoa học và lý luận phê bình xã hội cùng thời cũng
nhận định: “Hệ thần kinh của con người thích nghi kém và không thể đương đầu với
tính phức tạp đang ngày càng tăng của cuộc sống hiện đại” (Dẫn theo 47, tr.4).
Thế kỷ XIX, George Beard - Bác sĩ thần kinh người Mỹ cho rằng: Cuộc sống với
những yêu cầu đầy áp lực là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự quá tải của hệ thần
kinh - “suy nhược thần kinh”. Tình trạng này được biểu hiện bởi những triệu chứng như: lo
âu không lành mạnh, mệt mỏi không rõ lý do, và những nỗi lo sợ vô lý - mà nguyên nhân là
do hệ thần kinh không có khả năng đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hàng ngày. G.Beard cũng
cho rằng suy nhược thần kinh là hậu quả của “một loại tổ chức xã hội nào đó”, và “cũng cố
gắng làm rõ vai trò của xã hội trong việc tạo ra những căn bệnh tâm thần” (Dẫn theo 47, tr.5-
7), chính ở khía cạnh này, nghiên cứu của ông vẫn còn giá trị cho tới ngày nay.
4
Năm 1859, nhà sinh lý học Pháp, Claude Bernard, đã đưa ra khái niệm “milieu
intérieur (môi trường bên trong cơ thể), xem cơ thể con người phức tạp như một “tập hợp

những tồn tại đơn giản, như là những nhân tố giải phẫu”. Khái niệm này mô tả nguyên lý:
Chính sự hoà hợp và ổn định của môi trường bên trong được quyết định bởi môi trường bên
ngoài (nhiệt độ, da thú .) là điều kiện để có cuộc sống bình thường, tức là những thay đổi của
môi trường bên ngoài sẽ không ảnh hưởng đến cơ thể, nếu cơ thể bù trừ và làm cân bằng
những thay đổi đó. Tuy nhiên nếu chúng bị xáo trộn quá mức bình thường, con người sẽ đau
ốm hoặc có thể chết.Theo đó, chính hệ thần kinh đảm bảo chức năng điều tiết bằng cách sắp
đặt và làm hài hoà hoạt động của cơ thể.Ông nhấn mạnh, chỉ có động vật cao cấp nhất trong
sự phát triển chủng loại mới có hệ thần kinh làm được nhiệm vụ này. Dựa vào sự phát
hiện của Claude Bernard, các nhà nghiên cứu sau này đã khám phá bản chất của những
thay đổi thích ứng mà nhờ đó tình trạng ổn định được duy trì.
- Những nghiên cứu stress ở thế kỷ XX. Trên thế giới:
Đầu thế kỷ XX, Walter Cannon - nhà sinh lý học trường Harvard (Mỹ) người đặt nền
móng cho việc nghiên cứu thực nghiệm tương đối trong hệ thống về những ảnh hưởng của
stress qua các quan sát chi tiết của ông (1927) về sự thay đổi của cơ thể khi bị đau đớn, đói
và một số cảm xúc căn bản khác. Đặc biệt trong tác phẩm nổi tiếng “Sự khôn ngoan của cơ
thể” đã đưa ra khái niệm “tự điều chỉnh, cân bằng nội môi” (“homeostasis”) và khái niệm
“chống trả hoặc bỏ chạy” (“the fight or fight reaction”) (Dẫn theo 10, tr.7). dễ nhận thấy có
một trình tự hoạt tính được phát khởi trong các dây thần kinh và các tuyến nội tiết nhằm
chuẩn bị để có thể chiến đấu chống lại hoặc bỏ chạy để bảo toàn tính mạng trước những đe
doạ của ngoại cảnh. Con người nhanh chóng nắm được bản chất của kích thích và những
hành động bỏ chạy hay chiến đấu với kích thích. Thậm chí, nếu không có hành động nào xảy
ra, có thể giữ nguyên trong trạng thái thức tỉnh một khoảng thời gian kèm theo là sự cảm
nghiệm kích thích hàng loạt phản ứng ở vị trí đầu tiên. “Homeostasis” là khuynh hướng của
cơ thể trở về trạng thái sinh lý trước khi xảy ra stress (thở, nhịp tim .). Trung tâm của đáp
ứng với stress là vùng dưới đồi, đôi khi được gọi là trung tâm stress là vì nó kiểm soát hệ
thần kinh tự chủ và hoạt hoá tuyến yên. Nghiên cứu của Cannon, đặc biệt khái niệm “chống
trả hoặc bỏ chạy” là tiền đề cho các nghiên cứu sau này.
5
Năm 1932, I.P.Pavlov cũng đã nêu ra đặc trưng của khái niệm “Tự điều chỉnh, cơn
bằng nội môi”: “ .Cơ thể là một hệ thống tự điều chỉnh, và là một hệ thống tự điều chỉnh bản

thơn ở mức cao nhất, hệ thống ấy tự duy trì bản thân, tự hiệu chỉnh bản thân, tự cân bằng bản
thân và thậm chí hoàn thiện bản thân”.
Sau Đại chiến thế giới lần II, W.H.Rivers, một bác sỹ tâm thần, cũng là nhà nhân
chủng học làm việc ở Anh, đã đặt ra những tiền đề cho các nhà nghiên cứu khoa học ngày
nay về tình trạng được gọi là rối loạn stress sau sang chấn. Năm 1936, Hans Selye, nhà nội
tiết học người Canada đã mở rộng nghiên cứu của Cannon và là người đầu tiên theo phương
pháp hiện đại nghiên cứu các ảnh hưởng của stress nặng tác động liên tục lên cơ thể. Ông mô
tả stress theo thuật ngữ “Hội chứng thích nghi chung” (GAS: General Adaptation Syndrome)
qua 3 giai đoạn (báo động, kháng cự và kiệt sức).
Giai đoạn thứ nhất (báo động và huy động sức lực): xảy ra khi người ta ý thức sự hiện
diện của tác nhân gây stress. Về mặt tâm lý, phân hệ thần kinh giao cảm được kích thích
trong suốt giai đoạn báo động và động viên này. Sự kéo dài tình trạng phát động hệ thần kinh
này có thể dẫn đến các rối loạn trong hệ tuần hoàn máu hoặc bệnh loét dạ dày và cơ thể dễ
mắc nhiều thứ bệnh khác.
Giai đoạn thứ hai (kiệt sức): Trong giai đoạn này, khả năng thích ứng với tác nhân
gây stress của con người sút giảm xuống đến mức các hậu quả tệ hại của stress xuất hiện:
bệnh cơ thể, các triệu chứng tâm lý dưới dạng mất khả năng tập trung tinh thần, dễ cáu giận
hoặc trong vài trường hợp bị mất định hướng và mất khả năng tiếp xúc với thực tại. Theo
một ý nghĩa nào đó người ta hoàn toàn kiệt sức. Nếu stress chấm dứt, giai đoạn ba sẽ dẫn đến
sự chết đi của một cơ quan nào đó. Nghiên cứu của H. Selye giúp chúng ta hiểu tác động
ngắn hạn của những sự kiện gây stress đồng bộ.
H. Selye đã đóng góp ba thuật ngữ quan trọng là: eustress (stress tích cực), neustress
(stress hữu ích), distress (stress tiêu cực). Năm 1970, ông phân làm bốn loại: eustress(stress
hữu ích), distress (stress tiêu cực), hyperstress (overstress: stress quá mức), và hypostress
(understress: stress dưới mức). Theo H. Selye, không phải tất cả các loại stress đều xấu,
nhưng khi nói về stress là người ta nghĩ đến stress tiêu cực (distress). H.Selye đã có hơn
1500 công bố khoa học, và 30 cuốn sách chuyên khảo.Công tŕnh của ông cũn được tiếp tục
6
tại Đại học Selye - Toffler để xem xét những vấn đề thách thức của xã hội hiện đại là căng
thẳng thần kinh về thể xác, sự thay đổi và tương lai. Tuy nhiên đánh giá về mô hình GAS

chúng ta thấy mô hình hoàn toàn căn cứ vào các nhân tố sinh lý nên không quan tâm đến các
nguyên nhân tâm lý. Dù vậy mô hình vẫn đề ra cơ sở cho việc tìm hiểu stress.
Năm 1972 Viện sĩ V.V.Parin đã nhận xét: “Khái niệm stress của H.Selye đã thay đổi
phần lớn quy tắc chữa trị và phòng ngừa hàng loạt bệnh. Quan điểm của ông lúc đầu gặp
không ít sự phản đối, bây giờ đã nhận được sự phổ biến rộng khắp. Nói một cách tổng quát,
học thuyết của nhà bác học Canada nổi tiếng này có thể được coi là hệ thống luận điểm cơ
bản, đặt nền móng cho sự phát triển của khoa học y học hiện đại” (Dẫn theo10,tr.10) Không
quên công lao đóng góp và tiếp tục công tŕnh của ông, kể từ hội nghị quốc tế tại Montreux
(1988) đến nay đó cú gần 20 hội nghị về stress được tổ chức. Các hội nghị là nơi quy tụ
nhiều nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới nhằm loại bỏ đi những rào cản đối với sự tiến bộ
trong phương pháp nghiên cứu stress, đồng thời trao giải thưởng “Hans Selye” cho những
người có nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu đã trình bày về nhiều vấn
đề khác nhau như: ảnh hưởng của stress và cảm xúc đến sức khoẻ (Charles Spielberger);
Nghiên cứu stress trong bối cảnh thế giới thứ 3 (Nicola Malan); Tự nhận thức và sức khoẻ -
Tầm quan trọng của thái độ về sức khoẻ và bệnh tật (Daniel Goleman).
Nếu như trước đây, những tài liệu khoa học đã công bố về stress phần lớn thuộc lĩnh
vực sinh lý học và y học, ít đề cập đến khía cạnh tâm lý học của stress thì trong những năm
gần đây ngày càng có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề tâm lý học của stress.
Những khái niệm: “Các biến cố quan trọng của cuộc sống” và “sự khủng hoảng” đã
gợi lên nhiều định hướng lý thuyết khác nhau trong nghiên cứu tâm lý học.
Gương mặt tiêu biểu là Adolf Meyer, người đứng đầu chuyên khoa Tâm lý lâm sàng
của Bệnh viện Johns Hopkins (Hoa Kỳ), đã đề xuất ra biểu đồ người (life chart) làm công cụ
chẩn đoán y khoa (50). Nghiên cứu của ông đã định hướng cho sự phát triển một dụng cụ đo
lường những biến cố đời sống và stress(47).
Năm 1940, A.Meyer đã thiết lập một thư mục các biến cố của đời sống như: chuyển
nhà, thành công, thất bại, sinh tử .trong gia đình. Ông là người đầu tiên đưa ra giả thuyết về
sự liên hệ giữa các biến cố đời sống và bệnh tật . Kế thừa kết quả nghiên cứu của A.Meyer,
để ước lượng tỷ lệ tiêu hao sức khoẻ do stress gây nên, hai nhà nghiên cứu Hoa Kỳ là
7
T.H.Holmes và R.H.Rahe cùng cộng sự (1967) đã xây dựng “Thang sự kiện cuộc sống” (Life

Events Sacle) gồm 43 biến cố của đời sống thuộc về gia đình, cá nhân, việc làm, và tài chính.
Mỗi sự việc đều được ấn định một số điểm cố định, tiêu biểu cho số lượng đơn vị thay đổi
đời sống (L.C.Us = Life Change Units ). Cao điểm nhất là 100 điểm (LCUs) cho biến có qua
đời của người phối ngẫu.Trung bình là 500 điểm (LCUs) cho việc hôn nhơn. Thấp nhất là 11
điểm (LCUs) cho lỗi vi phạm nhỏ về pháp luật. Sau khi áp dụng cho hàng ngàn người trong
cuộc thí nghiệm, Homes và Rahe nhận thấy tổng số điểm (LCUs) của những sự việc xảy ra
cho một người, trong một năm, đều có liên hệ trực tiếp và tỉ lệ thuận với tiêu hao sức khoẻ
của người đó,trong vòng hai năm sau. Điều này có nghĩa là tổng số điểm (LCUs) trong năm
càng cao, cơ hội sinh bệnh tiêu hao sức khoẻ càng trầm trọng trong vòng hai năm sắp tới. Để
tìm ra đáp số trong ước lượng này, Holmes và Rahe đã lập ra tiêu chuẩn chỉ dẫn và bảng liệt
kê:
150 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 10% sức khoẻ trong vòng hai năm tới.
150-300 điểm sẽ có bệnh làm tiêu hao 50% sức khoẻ trong vòng hai năm tới.
300 điểm trở lên sẽ có bệnh nguy hiểm, tiêu hao 90% sức khoẻ trong hai năm tới.
Nghiên cứu này đã được thực hiện với mẫu 394 người từ nhiều dơn tộc, văn hoá khác nhau,
chia làm 15 cặp của các phơn nhúm đối nghịch nhau về: kinh tế, xã hội, tôn giáo .Tiếp tục
theo dõi các biến cố và sức khoẻ của 88 người trong 10 năm, họ nhận thấy 93% bệnh tật gắn
liền với biến cố trong đời sống xảy ra trong vòng 2 năm. Sau đó, công tŕnh này đã được thử
nghiệm với nhiều cách thức khác nhau bởi Wyler, Masuda và Holmes (1974) và đi đến kết
luận: các biến cố cuộc sống liên quan đến nguyên nhơn xảy ra bệnh tật, thời điểm xuất hiện
và mức độ trầm trọng của nó. Tuy nhiên, thang đo này vẫn cũn một vài nhược điểm như: khó
thích hợp với một nhóm cư dơn đặc biệt và không kể đến sự khác biệt nhân cách trong ứng
phó với stress.
Năm 1979, Kosaba xem xét lại thang đo này và đưa ra giả thuyết: nhân cách có lẽ là
một biến cố điều hòa giữa các biến cố đời sống và sự xuất hiện bệnh. Để chứng minh giả
thuyết, Kosaba đã nghiên cứu trên mẫu gồm nhiều những cán bộ trung và cao cấp, nam giới,
tuổi từ 40 - 49. Tất cả đều có chỉ số đơn vị thay đổi đời sống rất cao theo thang đo của
Wyler, Masuda và Holmes. Ông đưa thêm vào 6 biến cố liên quan đến nhơn cách: 3 biến cố
liên quan đến sự tự chủ, 1 biến cố đo lường sự rối trí (alienation) và 2 biến cố đo lường sự
8

thách đố. Kết quả cho thấy những cá nhơn khoẻ mạnh nghĩ rằng họ làm chủ được môi trường
xung quanh họ, cảm thấy ít bị rối trí và thích thách đố hơn.
Năm 1977, nhà nghiên cứu Caroline Bedell Thomas đã công bố kết quả nghiên cứu từ
năm 1946 đến năm 1977 cho thấy: những người thường kỡm nộn cảm xúc, che giấu các tính
cảm mạnh, cả tiêu cực lẫn tích cực - trước những tình huống khó - dễ bị ung thư. Những
nghiên cứu khoa học khác của Rogentine, Fos, van Krammen, Rosenblatt, và cộng sự
(1978); Jemmott và Locke (1984); Le Shan (1966) đều có chung một nhận định: Stress
không gây ra ung thư, nhưng ảnh hưởng đến diễn biến của căn bệnh, bằng cách làm cạn kiệt
sức mạnh của hệ thống miễn dịch. O’Leary (1990) nghiên cứu psychoneuro-immunology
(Tâm thần kinh- Miễn dịch học) cho đến nay xác định rằng stress ảnh hưởng trực tiếp đến hệ
thống miễn dịch.
Tại website tìm kiếm bởi từ khoá “psychology of stress”,
xuất hiện 200.000.000 kết quả, và 25.000.000 hình ảnh cho stress.Nhiều trường Đại học trên
thế giới đã có chương trình giảng dạy, nghiên cứu với những phương pháp khoa học cụ thể,
tin cậy. Các vấn đề tâm lý học stress được nghiên cứu là:
Những nhân tố ảnh hưởng tới đối phó stress: mô tả và phân biệt giữa stress và tác
nhân gây stress; ảnh hưởng của nhận thức cá nhân với việc thích ứng với tác nhân gây stress;
những nhân tố bên trong và bên ngoài làm giảm nhẹ tác dụng thích ứng stress; cơ chế đối
phó làm giảm stress.
Các chức năng đáp ứng sinh lý với stress: mô tả sự thích ứng stress trên hệ thống cơ
thể (thần kinh, hệ nội tiết .) mối liên hệ giữa những nhân tố làm giảm stress và thích ứng sinh
lý, sự khác biệt hệ thống miễn dịch giữa người lớn và trẻ em.
Thích ứng tâm lý với stress: nhận biết nguyên nhân gây stress; nguyên nhân và các
tính chất của stress hậu sang chấn; tương quan giữa kiểu nhân cách và sự thích ứng stress;
phân tích các loại kế hoạch đối phó, lựa chọn hệ thống phòng thủ, những hành vi thích ứng
không hiệu quả .
Những năm gần đây, qua kinh nghiệm điều trị, bác sỹ Petre D’sdamo- Ceterine Whitney
nhận thấy có mối quan hệ giữa nhóm máu và stress. Theo ông, những người nhóm máu A và
B thường rất dễ bị stress kể cả khi có những nhân tố nhỏ nhất và thường có hàm lượng
9

cortisol trong máu cao; ngược lại những người nhóm máu O và AB ít bị stress và khi bị
stress thì hàm lượng cortisol và adrenalin trong máu của người nhóm máu O và AB thấp.
Pakers năm 1997 chú ý tới lĩnh vực mới gọi là: Psychoneuroimmunology (PIN), nghiên cứu
mối liên hệ giữa năo bộ, hệ thống miễn dịch của cơ thể và các yếu tố tâm lý, đã phát hiện
thấy stress gây ra nhiều tác động khác nhau. Trước hết là sự biến đổi các tiết tố trong cơ thể,
ảnh hưởng hoạt động tuyến thượng trong máu. Trong một số trường hợp, những ảnh hưởng
này là có ích, vỡ nó tác động lên hệ thần kinh giao cảm (the sympathetie nervour system)
giúp cho con người có thể chống đỡ một cách tốt hơn với những tình huống bất ngờ, nguy
hiểm trong cuộc sống .
Trong nước

Bắt đầu từ thập niên 60, một số nhà nghiên cứu đã quan tâm đến stress nhưng chủ yếu là các
nhà khoa học thuộc lĩnh vực sinh lý học và y học. Người đầu tiên nghiên cứu stress dưới góc
độ sinh lý và y học là giáo sư Tô Như Khuê. Những công tŕnh của ông và cộng sự trong thời
chiến tranh (1967-1975) chủ yếu phục vụ cho việc tuyển dụng, huấn luyện và nơng cao sức
chiến đấu cho bộ đội và cac binh chủng đặc biệt của Quân đội nhơn dơn ViệtNam. Sau năm
1975 đến nay, những nghiên cứu của ông về stress và cách chống stress đã được công bố
trong một đề tài cấp Nhà nước “Tìm hiểu tác dụng dưỡng sinh của võ thuật”.
Sau ông, tác giả Nguyễn Văn Nhận và cộng sự, các bác sỹ Phạm Ngọc Rao và
Nguyễn Hữu Nghiêm với tác phẩm “Stress trong thời đại văn minh” cảnh báo với mọi người
đang sống trong xã hội văn minh về nguy cơ stress và hậu quả ghê gớm của nó.
Đặc biệt, các tác giả Đặng Phương Kiệt và Nguyễn Khắc Viện cũng bắt tay vào
nghiên cứu lí thuyết stress. Tuy nhiên, hai ông chỉ tập trung chủ yếu đến vấn đề stress ở trẻ
em.Nhiều bài viết của hai ụng đó được tập hợp trong các bài giảng tại Trung tâm nghiên cứu
trẻ em (N-T). Một số tác phẩm sau này của Đặng Phương Kiệt chủ yếu tổng hợp và chuyển
dịch từ các tác phẩm nước ngoài như: Tâm lý và sức khoẻ, Cơ sở tâm lý học ứng dụng,
Bách khoa y học phổ thông, Chung sống với stress, Stress và đời sống, Stress và sức
khoẻ, Tâm lý học chuyên sâu, Những vấn đề tâm lý và văn hóa hiện đại. Những công trình
của các ông đã góp phần làm cơ sở lý luận để nghiên cứu stress tại Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ tâm lý học của Phạm Thị Thanh Hương với đề tài: “Stress trong

10
học tập của sinh viên” (2003)
Đề tài nghiên cứu: “Căng thẳng và bệnh tim” (2006) của Phạm Mạnh Hùng -
Trường Đại học Y Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ tâm lý của tác giả Phạm Thị Hồng Định với đề tài: “Nghiên
cứu stress ở những trẻ em vị thành niên qua đường dây tư vấn và hỗ trợ trẻ em 18001567”
(2007).
2 Mục đích nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu kỹ năng giảm stress, đánh giá mực độ stress nhằm đưa ra
những giải pháp hiệu quả nhất nhằm tối thiểu hóa mức độ stress.
3 Nhiệm vụ
- Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu lí luận ( Tổng quan về đề tài, định nghĩa khái niệm liên quan)
- Nhiệm vụ 2: khảo sát thực tiễn, thu thâp thông tin
- Nhiệm vụ 3: đề xuất giải pháp xử lí vấn đề
4 Đối tượng nghiên cứu
- Kỹ năng giải toả stress.
11
PHẦN 2: NỘI DUNG ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI : KỸ
NĂNG GIẢI TOẢ STRESS
1 Các khái niệm có liên quan đến đề tài
 Kỹ năng
Kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ
năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định
nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Kỹ năng là năng lực hay khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay
một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra
kết quả mong đợi.
 Stress
12

Theo Encarta và một số từ điển tâm lý học của Mỹ, danh từ stress có hai nhĩa:
Thứ nhất, đó là “lực kháng lại được hình thành trong cơ thể chống lại tác động
bên ngoài” hoặc “một tình trạng gây khó chịu hoặc gây những ảnh hưởng trái ngược
bên ngoài có thể ảnh hưởng tới sức khỏe thể lực, dễ nhận thấy qua dấu hiệu: nhịp tim
tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác khó chịu, và ưu phiền” (Dẫn theo 10, tr.20)
Thứ hai, “stress là một kích thích thể lí hoặc tâm lý có thể gây ra sự căng thẳng
tinh thần hoặc các phản ứng sinh lý - những phản ứng có thể dẫn đến các bệnh”; chấn
động từ stress chỉ việc “chịu áp lực, căng thẳng về thể lực và tinh thần” (Dẫn theo 10,
tr.20).
Trong từ điển tâm lý học của Nga, theo V.P.Dintrenko và B.G.Mesiriakova,
“Stress - trạng thái căng thẳng về tâm lý xuất hiện ở người trong quá trình hoạt động
ở những điều kiện phức tạp, khó khăn của đời sống hàng ngày, cũng như trong những
điều kiện đặc biệt” (Dẫn theo 22, tr.18).
Dictionary of Psychology của Andrew M. Colman, Oxford (2003) có cái nhìn
tổng quát hơn: “stress là căng thẳng thể lực và tâm lý phát sinh do những tình huống,
sự kiện, trải nghiệm, khó có thể chịu đựng được hoặc vượt qua, như những biến cố
nghề nghiệp, kinh tế, xã hội, cảm xúc hoặc thể lực”.
Theo từ điển Y học Anh-Việt (2007) NXB Khoa học: “Bất kỳ nhân tố nào đe
doạ đến sức khoẻ cơ thể hay có tác động phương hại đến các chức năng cơ thể, như
tổn thương, bệnh tật hay tâm trạng lo âu đều gọi là stress”.
Bác sỹ Eric Albert, nhà tâm lý học, sáng lập Viện nghiên cứu stress định
nghĩa: “Stress là sự nỗ lực của cơ thể để thích nghi với những đổi thay”
Khái niệm stress lần đầu tiên được nhà sinh lý học Canada Hans Selye sử dụng
để mô tả hội chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật. Vào thập niên 80,
L.A.Kitaepxmưx đã nêu các quan điểm khác nhau về stress: Stress là những tác động
mạnh ảnh hưởng không tốt và tiêu cực đến cơ thể, quan điểm này tồn tại một thời
gian dài, nhưng nó lạt trùng với khái niệm về tác nhân gây stress. Stress là những
phản ứng mạnh không tốt của cơ thể về sinh lý hoặc tâm lý đối với tác động của tác
13
nhân gây stress, cách hiểu này ngày nay khá phổ biến. Stress là những phản ứng mạnh

đủ loại, không tốt hoặc tốt đối với cơ thể. Hai cách hiểu này đều khẳng định stress là
những phản ứng mạnh của cơ thể trước các tác động khác nhau của môi trường.
Nhưng trong thực tế không phải phản ứng mạnh nào của cơ thể cũng đều là stress và
không phải chỉ có phản ứng mạnh mới là biểu hiện stress.
Tác giả Tô Như Khuê quan niệm :
“Stress chính là những phản ứng không đặc hiệu xảy ra một cách chung khắp,
do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện trong các tình thế mà con người chủ quan
thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai trò quyết định không chủ yếu do các tác nhân
kích thích, mà do sự đánh giá chủ quan về tác nhân đó”
Theo Nguyễn Thành Khải
“Dưới góc độ tâm lý học, có thể hiểu stress là trạng thái căng thẳng về
tâm lý mà con người cảm nhận được trong quá trình hoạt động cũng như trong cuộc
sống”. Dưới góc nhìn nhận từ góc độ tâm lý học, stress được hiểu như sau:
“Stress là trạng thái căng thẳng về mặt tâm lý, xuất hiện ở người trong quá trình
hoạt động gặp phải những biến cố, những khó khăn trong cuộc sống hàng ngày, dễ
nhận thấy qua các dấu hiệu: nhịp tim tăng, huyết áp cao, cơ năng, cảm giác mệt
mỏi khó chịu, hoặc ưu phiền chán nản có thể dẫn đến những hậu quả nhiều mặt
tuỳ theo khả năng ứng phó của mỗi người”.
2.
Một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài
a Biểu hiện chung khi bị stress
Stress có thể hoành hành theo nhiều cách, gây ra các hậu quả về mặt tâm lý và sinh
lý. Nếu tiếp cận thường xuyên với stress, toàn bộ chức năng sinh học của cơ thể sẽ bị giảm
sút bởi các loại hormon liên quan đến stress tiết ra không ngừng. Nếu bị stress lâu ngày,
cỏc mụ cơ thể, như mạch máu và bộ phận tim có thể bị thoái hoá thực sự. Không kể đến
các triệu chứng nghiêm trọng, rất nhiều cơn đau lặt vặt bao gồm: nhức đầu, đau lưng, ban
ngứa ở da (skin rashes) khó tiêu, mệt mỏi và táo bón .gây ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc
sống.
14
Ngoài ra , stress cũng có thể dẫn đến một nhóm rối loạn bệnh lý gọi là các rối loạn

cơ thể tâm thần (Psychosomatic disorders). Các dạng rối loạn bệnh lý này phát sinh do sự
tương tác giữa các rối loạn tâm lý , tình cảm và cơ thể gây ra. Các rối loạn cơ thể tâm thần
thường thấy nhất là loét bao tử (ulcer), hen suyễn, viêm khớp (arthritis), áp huyết cao và
chàm (eczema).
Về lâm sàng, phản ứng stress cấp tính làm người bệnh hưng phấn quá mức về tâm lý
lẫn cơ thể, với các biểu hiện: tăng trương lực cơ làm cho nét mặt căng thẳng, cử chỉ cứng
nhắc, có cảm giác đau bên trong cơ thể; rối loạn thần kinh thực vật như nhịp tim tăng nhanh,
có cơn đau vùng trước tim, huyết áp tăng, khó thở, ngất xỉu, vă mồ hôi, nhức đầu, đau nhiều
nơi, nhất là đau các cơ bắp. Bệnh nhân bị tăng cảm giác (giảm ngưỡng kích thích của các
giác quan ), nhất là thính giác , làm cho tiếng động bình thường cũng trở nên khó chịu . Họ
cũn cú biểu hiện rối loạn hoạt động trí tuệ (khó tập trung suy nghĩ do nhớ lại các tình huống
stress ), dễ nổi cáu, kích động, bất an, rối loạn hành vi và khó khăn khi giao tiếp với người
khác; lo âu, sợ hăi, mơ hồ, trầm cảm, ý thức thu hẹp.
Như vậy, stress ảnh hưởng đến cơ thể theo nhiều cách, có thể tăng nguy cơ bị các
bệnh tật cơ thể, cũng có thể là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh, hoặc cũng có thể làm cho
khả năng phục hồi cơ thể làm giảm khả năng đương đầu với stress trong tương lai.
 Phân loại stress
Có thể phân loại khác nhau về stress, nếu dựa vào những cơ sở khác nhau và
cách phân loại này đều có ý nghĩa nhất định:
* Dựa vào tác nhân gây stress: người ta có thể phân ra stress vật lý, stress thoái
hoá, stress tâm lý, stress sinh lý.
* Dựa vào thời điểm của yếu tố tác động gây ra stress có thể có:
Stress quá khứ (khi nhớ về quá khứ tốt đẹp hoặc không tốt đẹp người ta có thể bị
stress trở lại, ví dụ như vô tình gặp lại những người quen trong quá khứ, những kỷ niệm
với người đó lại hiện về có thể kỷ niệm tốt đẹp làm cho chúng ta cứ luyến tiếc, hoặc
15
những kỷ niệm là đau buồn làm cho chúng ta buồn rầu, đó chính là yếu tố gây stress.
Stress hiện tại: yếu tố gây stress đang tác động và phát huy tác dụng trong hiện
tại gặp nhiều những biến cố không mong muốn và không chờ đợi khiến cho cơ thể
không chuẩn bị sự đáp ứng, thích nghi dẫn đến stress.

Stress tương lai: cá nhân bị stress khi nghĩ về tương lai (ví dụ: những sinh viên
năm cuối nghĩ về tương lai không biết mình ra trường đi đâu, về đâu, làm gì cũng có thể bị
stress).
* Căn cứ vào cấp độ của stress: có thể phân ra stress sơ cấp và stress thứ cấp:
Stress sơ cấp là stress lần thứ nhất do yếu tố gây stress khách quan gây ra.
Stress thứ cấp là khi chủ thể đang ở trạng thái stress sơ cấp cho rằng có tình trạng như
hiện nay là bởi lỗi lầm của mình, do đó rất ân hận, hối tiếc, giận bản thân làm cho stress
tăng nặng thành thứ cấp.
*Dựa vào mức độ, theo H.Selye phân ra stress tích cực (eustress) và stress tiêu cực
(distress).
Stress tích cực(eustress):
Trong một tình huống stress bình thường, cơ thể phản ứng lại với các tác động của
môi trường bằng giai đoạn báo động và giai đoạn chống đỡ.
Giai đoạn báo động: bị chi phối bởi sự cảnh tỉnh cao độ, kích thích các quá tŕnh
tâm lý, đặc biệt là quá tŕnh tập trung chú ư, ghi nhớ, phán đoán, trong cơ thể triển khai
những phản ứng đến trước đối với một tác động có thể xảy ra thể hiện bằng việc tăng nhịp
tim, tăng huyết áp, tăng nhịp thở, tăng lực cơ bắp. Các thay đổi tâm sinh lý này góp phần
vào việc đánh giá tình huống stress đối với chính bản thân người đó, cũng như đối với môi
trường xung quanh.
Giai đoạn chống đỡ: Đặc trưng bởi việc huy động các đáp ứng thích hợp nhằm giúp
cơ thể làm chủ được tình huống stress và có được một cân bằng mới đối với chính bản thân
người đó. Tuy nhiên, cường độ của stress có thể khác nhau, và động cơ cá nhân cũng có
thể thay đổi. Như vậy, một hoàn cảnh gây stress bình thường có thể chuyển sang distress
khi có sự thay đổi về một trong các cực của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể và môi trường.
Stress tiêu cực (distress):
16
Phản ứng stress trở thành distress khi tình huống bất ngờ , quá dữ dội, hoặc ngược
lại, quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại, vượt quá khả năng thích ứng của chủ thể. Distress là
stress có cả giai đoạn tiếp sau giai đoạn báo động và chống đỡ.Đó là giai đoạn kiệt sức.
Trong distress, các rối loạn tâm lý ở cơ thể có thể xuất hiện ở cấp tớnh, tạm thời hoặc nhẹ

hơn hoặc kéo dài.
Stress cấp tính: Các biểu hiện của stress này thường gặp trong các tình huống
không lường trước, có tính chất dữ dội, như lúc bị tấn công, gặp thảm hoạ, hoặc khi thân
chủ biết ḿnh hay người thân bị bệnh nặng nguy hiểm, khó cứu chữa (AIDS, ung thư). Trong
stress bệnh lý cấp tính, các phản ứng xúc cảm cấp diễn, tức thì, trạng thái cấp tính của stress
được đặc trưng bởi những cử chỉ cứng nhắc, không linh hoạt, kèm theo cảm giác đau do
căng thẳng bên trong; có sự rối loạn thần kinh thực vật như: tim đập nhanh, cơn đau tim,
cao huyết áp, khó thở, ngất xỉu, chóng mặt, ra mồ hôi, nhức đầu, đau ở nhiều nơi, nhất là ở
cơ bắp; phản ứng giác quan quá mức, nhất là tai có cảm giác khó chịu trước những tiếng
động thường ngày. Distress cấp tính dẫn đến các rối loạn trí tuệ thể hiện ở việc khó tập
trung suy nghĩ , kèm theo tư duy bị nhiễu do nhớ lại các tình huống gây stress. Những biểu
hiện khác thường thấy là dễ cáu gắt, trên cơ sở cảm giác bất an có thể đưa đến những rối
loạn trong hành vi, nhất là trạng thái kích động nhẹ kèm theo khó khăn trong quan hệ với
những người xung quanh. Chủ thể ở trạng thái lo âu lan rộng, kèm theo sợ hăi mơ hồ.
Phản ứng distress cấp tính thường kéo dài từ vài phút đến vài giờ, rồi mờ nhạt đi. Sự có mặt
của những người xung quanh, nhất là người thân sẽ làm cho chủ thể distress yên tâm hơn và
khuây khoả ít nhiều tuỳ theo tính chất và tiến triển của stress.
Khi có những phản ứng cảm xúc cấp tính thì các rối loạn tâm sinh lý đều xảy ra chậm,
chủ thể có vẻ chịu đựng và chống đỡ được với tình huống gây stress. Nhưng thực tế , các
biểu tượng của tình huống gây stress vẫn tiếp tục phát huy tác dụng và từng bước xâm
chiếm chủ thể. Giai đoạn chống đỡ của chủ thể tiếp diễn, nhưng chỉ tạo ra một sự cân bằng
rất tạm thời, không bền vững, và chỉ kéo dài trong vài giờ hoặc vài ngày, sau đó đột nhiên
xuất hiện một phản ứng distress cấp tính xảy ra chậm, có biểu hiện và tiến triển giống như
phản ứng cấp. Chứng tỏ về mặt tâm lý chủ thể không Còn khả năng dàn xếp được tình
huống stress nữa. Chủ thể bị suy sụp và mất khả năng bù trừ một cách chậm chạp.
17
Distress kéo dài: thường gặp nhất trong các tình huống stress quen thuộc lặp đi lặp
lại như xung đột, bất toại, phiền nhiễu trong cuộc sống hàng ngày. Nó có thể xảy ra tiếp
theo như một phản ứng cấp ban đầu và không thoái lùi hoàn toàn, hoặc sau một loạt nhiều
phản ứng cấp trung nhưng không mạnh. Nhưng dù cho nó cú nguồn gốc nào, những

biểu hiện của stress kéo dài cũng rất đa dạng thay đổi tuỳ theo ưu thế của các biểu hiện
tâm lý, thể chất và có sự pha trộn của nhiều hiện tượng khác nhau. Con người khi bị
stress kéo dài thường phản ứng quá mức với hoàn cảnh xung quanh và đây là biểu hiện
nổi trội nhất. Nó kèm theo với sự cáu giận, cảm giác khó chịu, căng thẳng tâm lý, mệt mỏi
về trí tuệ không thể thư giăn được. Ngoài ra, cũn cú biểu hiện về rối loạn giấc ngủ, như khó
ngủ, giấc ngủ chập chờn , hay thức giấc, về cảm giác không thấy phục hồi sau khi ngủ.
Những rối loạn này tuỳ theo bối cảnh , tính chất cũng như mức độ lặp đi lặp lại của tình
huống stress, có thể tiến triển thành trạng thái bi quan kéo dài, tính dễ cáu giận và sự căng
thẳng nội tâm. Chủ thể thậm chí có biểu hiện lo âu, ám ảnh sợ khi gặp lại những nơi đã gây
nên tình huống distress , hoặc nhớ lại tình huống này.
Khi bị stress kéo dài, cơ thể thường có những rối loạn thực vật ở mức độ vừa
phải, chúng chỉ tăng lên khi hồi tưởng về các tình huống stress, hay khi phải đương đầu
với những tình huống đó. Con người thường xuất hiện cùng với các rối loạn tâm lý và biểu
lộ trong những lời than phiền của chủ thể về các rối loạn chức năng cơ thể. Đó là những
than phiền về:
+ Trạng thái suy nhược kéo dài.
+ Căng thẳng cơ bắp với cảm giác bị chuột rút.
+ Chứng run và đổ mồ hôi.
+ Nhức đầu cho căng thẳng và đau nửa đầu kéo dài.
+ Đau cột sống dai dẳng.
+ Đau vùng trước tim, huyết áp tăng và không ổn định.
+ Bệnh đại tràng chức năng.
Như vậy, dựa vào ảnh hưởng có lợi hay có hại của stress đối với cơ thể, người ta có
thể thấy có hai loại stress: Stress tích cực (eustress) là stress mà chủ thể có thể đối phó
được. Đó là phản ứng stress thích nghi, loại stress này không thể thiếu được trong cuộc
18
sống của người , không có stress này cơ thể sẽ chết . Còn stress tiêu cực (Distress) xuất hiện
khi cơ thể không còn khả năng đối phó với tình huống đe doạ, cơ thể đã mất khả năng bù
trừ để lấy lại cân bằng, hay nói cách khác, khả năng thích nghi bị rối loạn (Dẫn
theo22,tr.23-28).

* Dựa vào đặc tính của stress người ta cũng chia ra làm 2 loại: Stress lạc quan (Positive) và
stress bi quan (Negative).
* Dựa vào đặc tính của stress
Stress lạc quan: trong tính chất lạc quan, stress đưa đến những thử thách, kích thích,
để tạo cho đời sống thêm phần thú vị, vui tươi, nhưng không làm tổn hại đến sức khoẻ.
Theo các nhà chuyên môn, stress là một kinh nghiệm học tập, giúp con người có cơ hội
trưởng thành và phát triển.Ngoài ra, stress giúp tập trung sức lực nhằm vào mục tiêu, và
thực thi, để tiến đến hiệu quả công việc, trong một thời gian ngắn nhất. Sau một tiến tŕnh
vội vă, đầy áp lực (stress), để hoàn thành công việc chúng ta dành thời gian cho việc nghỉ
ngơi, và thư giăn cơ thể, để phục hồi sinh lực thân tâm, nhằm chuẩn bị cho những thử
thách sắp tới. Sự nghỉ ngơi, để phục hồi sinh lực, chính là một trong những yếu tố của
tính chất stress lạc quan.
Stress bi quan: trong tính chất bi quan, stress có liên quan đến việc gây nên nhiều
chứng bệnh chứng cho cơ thể như : nhức đầu, cao huyết áp, đau tim, nhức mỏi gân thịt ,
suy nhược thể chất và tinh thần . Khi cơ thể bị đặt trong tình trạng thử thách dài hạn, hoặc
những kích thích ngắn hạn liên tục và thiếu thời gian nghỉ ngơi, thư giăn thích đáng,
stress là tiêu hao sinh lực, đưa cơ thể đến tình trạng kiệt sức và tổn hại sức khoẻ.
* Theo bác sỹ Đặng Phương Kiệt, có các mức độ stress như sau:
Stress mức độ nhẹ: là mức độ mà bạn có thể cảm nhận như một thách thức làm
tăng thành tích.
Stress mức độ vừa: là mức độ phá vỡ ứng xử và có thể dẫn đến những hành động
rập khuôn, lặp đi lặp lại.
Stress mức độ nặng: là mức độ dẫn đến ngăn chặn ứng xử và gây ra những
phản ứng lệch lạc, dễ bối rối, giận dữ và trầm nhược.
Tham khảo những ý kiến khác nhau đồng thời dựa vào số mặt biểu hiện của chủ thể
19
khi bị stress, chúng tôi phân loại stress theo các mức độ như sau:
Ít trầm trọng: stress chỉ biểu hiện ở một mặt, không kéo dài, nó chỉ như một thách
thức và chủ thể có thể tự khắc phục được.
Trầm trọng: stress biểu hiện ở hai hay một số mặt, dẫn đến hậu quả phá vỡ những

ứng xử và có những hành động rập khuôn, lặp đi lặp lại trong một thời gian tương đối
dài, phải khắc phục trong một thời gian nhất định.
Rất trầm trọng: stress biểu hiện ở nhiều mặt, diễn ra trong một thời gian dài, dẫn
đến hậu quả ngăn chặn những ứng xử phù hợp và gây ra những phản
ứng lệch lạc, dễ bối rối, có thể có những hành bi tự huỷ hoại ḿnh và người
khác, phải khắc phục trong một thời gian rất dài.
Tuy nhiên chúng tôi áp dụng các tiêu chí này một cách linh hoạt , nhiều khi chúng
tôi chỉ dựa vào 1 tiêu chí hay 2 tiêu chí để sắp xếp loại mức độ , đặc biệt là dựa vào hậu
quả, cách khắc phục và thời gian khắc phục. Bởi vì có những trường hợp chỉ biểu hiện ở
một hoặc hai mặt nhưng phải mất thời gian dài mới có thể khắc phục hậu quả. Những
trường hợp này vẫn phải xếp loại stress ở mức độ trầm trọng.
20
CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA STRESS TRONG ĐỜI SỐNG
1 Ảnh hưởng tiêu cực
Như đã nói, stress lôi kéo sự tham gia của nhiều cơ quan chức năng
trong cơ thể nên nếu cố tình "lờ" nó đi, bạn sẽ phải trả giá rất đắt vì sự coi
thường nó.
Stress có ảnh hưởng tới:
Não: Stress gây mất ngủ thường xuyên khiến não trở nên kém linh hoạt, có
thể bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu bạn không chợp mắt 20 giờ liên tục, não
giảm khả năng kiểm soát tương đương với tình trạng nồng độ cồn trong máu
tăng 50% so với mức cho phép. Stress làm bạn ủ rũ, rã rời, lười vận động.
Tim: Bị stress, tim giải phóng hóc-môn cortisol, làm xuất hiện các bệnh cao
huyết áp, béo phì và tiểu đường. Nguy cơ mắc các bệnh tim mạch khó tránh khỏi.
Phổi: Stress kích thích tuyến thượng thận giải phóng hóc-môn adrenalin
khiến bạn hồi hộp, lo lắng không yên, thở hổn hển như hụt hơi. Với người bị
hen suyễn, tình hình càng tồi tệ gấp bội.
Mắt và da: Mất ngủ do stress gây mệt mỏi, mắt đỏ và quanh mi bị thâm
quầng, có thể giảm thị lực và các bệnh khác về mắt. Stress kích thích các tuyến
nhờn hoạt động mạnh làm da trở nên thô ráp, nhanh lão hóa, nổi mụn, nhăn

nheo.
Lưng và cổ: Hóc-môn adrenalin làm các cơ bắp căng cứng, lưng và cổ bị
"ngay đơ", đau nhức.
Dạ dày: Stress làm các hóc-môn có chức năng tăng cường lưu thông máu
giảm xuống rõ rệt. Dạ dày không được cung cấp đủ máu sẽ dẫn đến tình trạng
khó tiêu, đầy hơi và chướng bụng. Nhiều trường hợp stress là nguyên nhân
viêm loét dạ dày.
Răng miệng: Khi thần kinh suy sụp, hoạt động của hệ miễn dịch trở nên
kém hiệu quả, nên viêm miệng, lưỡi, lợi và xuất hiện những nốt nhỏ, thường gọi là
"nhiệt".
21
Đầu óc: Stress là nguyên nhân chính gây đau đầu, chóng mặt, choáng váng.
Giảm sức đề kháng với các bệnh truyền nhiễm.
Cuối cùng, stress còn làm giảm khả năng tình dục, ít ham muốn chuyện gối
chăn.
Thật khó thấy một loại "bệnh" nào (tạm gọi như vậy) có thể làm tổn
thương cả sức khỏe thể lực và sức khỏe tinh thần, ảnh hưởng đến toàn thân như
stress. Nó dai dẳng, thường xuyên hành hạ thể xác và dẫn đến nhiều bệnh nguy
hiểm có thể xuất hiện đồng thời. Nó làm thui chột mọi khả năng tư duy, trí nhớ,
khả năng tự kiểm soát, phán đoán. Stress không trực tiếp gây tử vong, nhưng
trong cơn buồn chán, tuyệt vọng, không ít trường hợp stress đã đưa người ta
đến tự sát.
Stress thường xảy ra nhiều nhất ở nhóm tuổi học sinh, sinh viên. Nguyên
nhân là do lứa tuổi này có nhiều sự thay đổi và phát triển về mặt tâm sinh lí, thể
chất, chịu nhiều áp lực về học tập và công việc. Một trong những nguyên nhân
trực tiếp và phổ biến dẫn đến stress ở các bạn trẻ là mâu thuẫn giữa mục tiêu, lí
tưởng quá cao với khả năng thực hiện. Bên cạnh đó, khi thất bại, các bạn lại hay có
suy nghĩ tiêu cực.
Không những thế stress còn là nguyên nhân căn bản gây ra bệnh trầm
cảm: Ngày nay trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến và có xu

hướng ngày một tăng ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt ở các nước đang phát
triển. Trầm cảm là một vấn đề lớn cần được quan tâm, đặc biệt trong công tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu ở cộng đồng.
Trầm cảm có đặc điểm lâm sàng, bệnh nguyên, bệnh sinh rất đa dạng, phức
tạp. Có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng hiện vẫn chưa nghiêng hẳn về một giả
thuyết nào.Tuy nhiên, các tác giả đều thống nhất cho rằng trầm cảm là phản ứng cảm
xúc của con người trước những tác động không thuận lợi, tiêu cực của môi trường
vào các hoạt động cân bằng của đại não.
Rối loạn trầm cảm ở trẻ em có nhiều nét đặc thù riêng, đó là tính đa dạng
chưa ổn định. Bên cạnh các biểu hiện về khí sắc trầm , mất quan tâm thích thú ,
22
giảm năng lượng, dễ mệt mỏi thì các triệu chứng như rèi loạn hành vi, tăng hoạt
động, cáu bẳn, không tuân thủ nề nếp gia phong, chán học, tù cô lập hoặc gia
nhập nhóm trẻ “chậm tiến” gây rối trật tự xã hội. Ngoài ra, trẻ thường có các
biểu hiện cơ thể (đau mái, ngột ngạt khó chịu, rối loạn tiêu hóa, đau tức vùng
ngực, bụng .), các biểu hiện này nhiều khi nổi trội che lấp những biểu hiện khí
sắc, làm cho thực hành lâm sàng rất khó nhận dạng và chẩn đoán.
Trầm cảm ở vị thành niên ảnh hưởng rất lớn đến năng lực học tập, giao tiếp,
sù hình thành phát triển các mối quan hệ xã hội, sự phát triển hoàn thiện thể chất
và tinh thần, tính cách của trẻ. Nếu rối loạn trầm cảm không được phát hiện và
điều trị kịp thời sẽ tăng gánh nặng cho gia đ́ nh và xã hội . Ngược lại, việc phát hiện
và điều trị sớm mang lại hiệu quả cao, cải thiện đáng kể tình trạng sức khỏe, đem
lại cho trẻ sự hoàn thiện nhân cách và nâng cao chất lượng cuộc sống.
• Khi một đứa trẻ hoặc một thanh thiếu niên cảm thấy buồn chán quá thường
xuyên, quá nhiều, hoặc quá lâu, em có thể đã mắc chứng trầm cảm.
Khi đứng trước những áp lực trong cuộc sống mà không biết phải giải
quyết như thế nào có một số học sinh, sinh viên đã chọn cái chết để giải quyết
mọi việc. Hiện nay chúng ta có thể thấy rất nhiều bài báo đăng tin về các vụ tự tử
của học sinh, sinh viên vì những lí do có thể nói là không đáng chút nào cả. Và
những bài báo đề cập đến những áp lực mà học sinh phải chịu.Học, học và học…

Áp lực học hành khiến sinh viên không còn thời gian vui chơi, thư giãn và
đây cũng chính là nguyên nhân khiến dẫn đến trầm cảm
Theo bác sĩ chuyên khoa tâm thần Lê Quốc Nam, quá tải trong học tập là
nguyên nhân thường gặp dẫn đến stress cho lứa tuổi học trò. Thật vậy, thời
khoá biểu học tập phổ biến của học sinh mọi cấp lớp hiện nay rất dày đặc: sáng
học chính khoá, chiều học phụ đạo ở trường, tối học thêm/học kèm ở nhà, chưa kể
có em còn “bị” học Anh văn vào ngày chủ nhật ở trung tâm. Một ngày mới của
nhiều em học sinh bắt đầu vào 5h45 sáng và kết thúc lúc 9h30 tối sau khi đã hoàn
tất các bài tập về nhà, không còn thời gian nghỉ ngơi, thư giãn.
Thật ra áp lực học tập đến do chính gia đình nhiều hơn nhà trường.
23
Không ít ông bố, bà mẹ nhiều lúc cũng rất xót xa khi thấy con học hành vất vả,
nhưng nghĩ nếu như không ép con học thì con sẽ thua kém bạn bè, sợ con lớn lên
không thành công. Có người lớn cũng cho phép con đi giải trí với bạn bè, nhưng
với điều kiện… sau khi hoàn tất các bài tập.
Sang chấn tâm lý từ gia đình
Theo bác sĩ Phạm Thị Ngọc Tuyết, bệnh viện Nhi Hà Nội.đa số học sinh bị
stress có liên quan đến sang chấn tâm lý trong gia đình và học đường. Một khảo
sát của bệnh viện này cho thấy sang chấn tâm lý thuộc gia đình thường gặp là
trẻ bị cha mẹ rầy la, cãi nhau với anh chị em, bị cha mẹ bỏ bê, cha mẹ ly dị. Yếu
tố sang chấn tâm lý ở học đường là bị thầy cô rầy la, đổi trường học, học quá
nhiều.
Các hành vi chống đối xã hội phổ biến trong một năm qua là trốn học
(21,3%), đua xe (11,3%), gây rối trật tự công cộng (6,6%) và đánh nhau bằng vũ
khí (5,5%). Đáng lưu ý có 20,8% học sinh có biểu hiện trầm cảm và 3 % có hành
vi cố ý tự gây thương tích cho bản thân.
Bác sĩ Quốc Nam cho biết tùy nguyên nhân xác định,trẻ bị stress cần
được hỗ trợ khác nhau. Chẳng hạn nguyên nhân từ học tập, chuyên gia có thể trao
đổi với giáo viên tìm cách giảm tải cho trẻ.Nếu nguyên nhân từ gia đình, chuyên
gia sẽ trao đổi với cha mẹ để tháo gỡ những khúc mắc, tạo ra bầu không khí thân

yêu.”(Theo Châu Giang).
Theo các nghiên cứu thì mức độ stress càng nặng thì mức độ hứng thú và nỗ
lực trong học tập của học sinh, sinh viên càng giảm.
2 Ảnh hưởng tích cực
Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực thì stress cũng có những ảnh hưởng tích
cực của nó theo một bài báo thì Stress thể nhẹ là nguồn gốc của hạnh phúc:
“Bạn đang lo lắng khi sắp bước vào kỳ thi tốt nghiệp?Bạn "mất ngủ" khi suy
nghĩ về tương lai? Hãy yên tâm! Những mối lo âu trên sẽ mang đến cho bạn một
cuộc sống hạnh phúc hơn mà bạn không thể cảm thấy được.
Theo một nghiên cứu gần đây được đăng trên tạp chí Current Directions in
24
Psychological Science chỉ ra rằng những người hay bị stress thường duy trì cuộc
sống tốt hơn những người ít bị căng thẳng. Tuy nhiên, từ "Stress" ở đây chỉ bao gồm
các stress dạng nhẹ chẳng hạn như mối lo lắng khi bị điểm kém trong lớp học hay
nỗi buồn khi bị người yêu cho "leo cây".
Kết quả của cuộc nghiên cứu trên cho thấy thông thường sau mỗi lần bị
stress, con người sẽ học được cách giải quyết vấn đề và khả năng đối phó trước mọi
khó khăn. Chính những đặc điểm này sẽ giúp họ cân bằng được cuộc sống và có
thêm nhiều niềm vui sau mỗi lần gặp căng thẳng.
Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cũng khám phá ra được rằng cứ mỗi ngày
dành ra 30 phút để "lo lắng", con người sẽ cảm thấy hạnh phúc và thoải mái hơn.
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×