Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Sử dụng bài tập thí nghiệm để rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy trong dạy học phần sinh học cơ thể Sinh học 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 86 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
LÊ THỊ HỒNG BÍCH
Sử dụng bài tập thí nghiệm để rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy trong dạy học
phần sinh học cơ thể - Sinh học 11
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN SINH
HỌC
MÃ SỐ: 60 14 01 11
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG THỊ DẠ THỦY
Huế, năm 2014
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các
đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ
một công trình nào khác.
Họ tên tác giả
Lê Thị Hồng Bích
3
4

Hoàn thành luận văn này, tôi bày tỏ long biết ơn sâu
sắc đến Cô giáo – TS. Đặng Thị Dạ Thủy, giảng viên Khoa
Sinh học, Trường Đại học Sư Phạm, Đại học Huế đã tận
tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy giáo, cô giáo


trong khoa Sinh học – Trường Đại học Sư phạm Huế đã
nhiệt tình giảng dạy và có những ý kiến đóng góp quý báu
cho đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng
Đào tạo Sau Đại học – Trường Đại học Sư phạm Huế đã
tạo điều kiện cho tôi học tập và nghiên cứu.
Cám ơn Ban giám hiệu, quý thầy cô và các em học
sinh các trường THPT Hai Bà Trưng, THPT Phan Đăng Lưu,
THPT Đặng Huy Trứ, THPT Nguyễn Huệ, THPT Thừa Lưu đã
tạo điều kiện và hợp tác cùng với tôi trong quá trình
nghiên cứu, thực hiện đề tài.
Cuối cùng tôi xin cảm ơn các anh chị, bạn bè trong
lớp cao học lý luận và phương pháp dạy học Sinh học K21
và người thân đã nhiệt tình động viên, giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Huế, tháng 9 năm 2014
Tác giả
Lê Thị Hồng Bích
iii
5
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7. CẤU TRÚC CỦA BÁO CÁO
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
9. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Thí nghiệm và bài tập thí nghiệm
1.1.1.1. Thí nghiệm và vai trò của thí nghiệm trong dạy học sinh học
1.1.1.2. Bài tập thí nghiệm
1.1.1.3. Các dạng bài tập thí nghiệm
1.1.1.4. Vai trò của bài tập thí nghiệm
1.1.2. Kĩ năng học tập của học sinh
1.1.2.1. Kĩ năng học tập
1.1.2.2. Một số kĩ năng nhận thức
1.1.2.3. Các yêu cầu khi sử dụng BTTN trong dạy học Sinh học
6
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu, cấu trúc và nội dung chương trình Sinh học 11, trung học phổ
thông.
1.2.1.1. Mục tiêu chương trình Sinh học 11, trung học phổ thông
1.2.1.2. Phân tích cấu trúc nội dung chương trình Sinh học 11
1.2.2. Hệ thống thí nghiệm trong dạy học Sinh học ở THPT
1.2.3. Thực trạng dạy học Sinh học ở trường trung học phổ thông
1.2.3.1. Thực trạng dạy Sinh học ở trường trung học phổ thông

1.2.3.2. Thực trạng học tập của học sinh
1.2.3.3. Nguyên nhân của thực trạng dạy học Sinh học
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG BÀI TẬP THÍ NGHIỆM TRONG DẠY
HỌC SINH HỌC 11, TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1. THIẾT KẾ BÀI TẬP THÍ NGHIỆM TRONG DẠY HỌC SINH HỌC 11 Ở
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
2.1.1. Qui trình thiết kế BTTN để rèn luyện kỹ năng tư duy cho học sinh
2.1.2. Hệ thống bài tập thí nghiệm trong dạy học Sinh học ở trường phổ
thông
2.1.2.1. Bài tập rèn luyện kỹ năng phân tích thí nghiệm
2.1.2.2 Rèn luyện kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm:
2.1.2.3 Rèn luyện kỹ năng phán đoán kết quả thí nghiệm:
2.1.2.4 Rèn luyện kỹ năng thiết kế thí nghiệm
2.2. QUI TRÌNH SỬ DỤNG BÀI TẬP THÍ NGHIỆM ĐỂ RÈN LUYỆN MỘT SỐ
KỸ NĂNG TƯ DUY TRONG DẠY HỌC SINH HỌC CƠ THỂ - SINH HỌC 11.
THPT
2.2.1. Qui trình chung
2.2.2. Sử dụng qui trình để rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho HS.
2.2.2.1. Sử dụng BTTN để rèn luyện kỹ năng phân tích thí nghiệm.
2.2.2.2. Sử dụng BTTN để rèn luyện kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm.
2.2.2.3. Sử dụng BTTN để rèn luyện kỹ năng phán đoán kết quả thí nghiệm.
2.2.2.4. Sử dụng bài tập thí nghiệm để rèn luyện kĩ năng thiết kế thí ngiệm:
7
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. MỤC ĐÍCH THỰC NGHIỆM
3.2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP THỰC NGHIỆM
3.2.1 Nội dung thực nghiệm
3.2.2. Chọn trường, lớp thực nghiệm

3.2.3. Bố trí thực nghiệm
3.2.4. Tiêu chí đánh giá việc rèn luyện các kỹ năng tư duy thực nghiệm
3.2.4.1. Tiêu chí đánh giá việc rèn luyện kỹ năng phân tích thí nghiệm
3.2.4.2. Tiêu chí đánh giá việc rèn luyện kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm
3.2.4.3. Tiêu chí đánh giá việc rèn luyện kỹ năng phán đoán kết quả thí nghiệm
3.2.4.1. Tiêu chí đánh giá việc rèn luyện kỹ năng thiết kế thí nghiệm
3.3. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
8
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Viết đầy đủ Chữ viết tắt
1 Thí nghiệm TN
2 Bài tập thí nghiệm BTTN
3 Trung học phổ thông THPT
4 Giáo viên GV
5 Học sinh HS
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Bảng hệ thống TN trong dạy học chương trình Sinh học 11 ở THPT.
Bảng 1.2. Kết quả điều tra về phương pháp dạy học của giáo viên
9
Bảng 1.3. Kết quả điều tra về việc sử dụng BTTN trong các khâu của quá trình dạy
học Sinh học ở các trường THPT
Bảng 1.4. Kết quả điều tra ý kiến của GV về sự cần thiết của việc rèn luyện kỹ năng tư
duy cho HS
Bảng 1.5. Kết quả điều tra thực trạng rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho HS

Bảng 1.6. Kết quả điều tra về học tập của học sinh
Bảng 3.1. Các kỹ năng được đánh giá qua các lần kiểm tra trong thực nghiệm
Bảng 3.2. Số lượng HS được chọn thực nghiệm ở các trường THPT
Bảng 3.3. Các tiêu chí và các mức độ đánh giá việc rèn luyện kỹ năng phân tích thí
nghiệm
Bảng 3.4. Các tiêu chí và các mức độ đánh giá việc rèn luyện kỹ năng so sánh kết quả
thí nghiệm
Bảng 3.5. Các tiêu chí và các mức độ đánh giá việc rèn luyện kỹ năng phán đoán kết
quả thí nghiệm
Bảng 3.6. Các tiêu chí và các mức độ đánh giá việc rèn luyện kỹ năng thiết kế thí
nghiệm
Bảng 3.7. Tổng hợp các mức độ từng tiêu chí của kỹ năng phân tích thí nghiệm
Bảng 3.8. Tổng hợp các mức độ từng tiêu chí của kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm
Bảng 3.9. Tổng hợp các mức độ từng tiêu chí của kỹ năng phán đoán kết quả thí
nghiệm
Bảng 3.10. Tổng hợp các mức độ từng tiêu chí của kỹ năng thiết kế thí nghiệm
10
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
HÌNH
Hình 2.1. Thí nghiệm hô hấp ở thực vật
Hình 2.2. Thí nghiệm ở rong
Hình 2.3. Thí nghiệm quang hợp ở thực vật
Hình 2.4. Thí nghiệm về sự sinh trưởng của cây đậu xanh
Hình 2.5. Tách chiết sắc tố
Hình 2.6. Thí nghiệm về hướng động
Hình 2.7. Thí nghiệm trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.8. Thí nghiệm ở cây đậu xanh
Hình 2.9. Thí nghiệm quan sát sự nở hoa ở hoa mười giờ
Hình 2.10. Thí nghiệm trao đổi nước (đậu rồng)
Hình 2.11. Thí nghiệm về trao đổi nước ở thực vật

Hình 2.12. Thí nghiệm ở ốc sên
Hình 2.13. Thí nghiệm ở chuột bạch
Hình 2.14. Sinh sản vô tính ở cây hoa đá
Hình 2.15. TN trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.16. Trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.17. Thí nghiệm về hô hấp ở thực vật
Hình 2.18. TN tính hướng nước của rễ cây đậu xanh
Hình 2.19: Thí nghiệm chậu cây treo nghiêng
Hình 2.20. Thí nghiệm ở lá rau khoai
Hình 2.21. Thí nghiệm về tập tính của động vật
Hình.2.22. Thí nghiệm ở bồ câu và chuột bạch
Hình 2.23. TN về hoocmon ở thực vật
Hình 2.24. TN về hô hấp ở thực vật
Hình 2.25. Phim TN hô hấp ở thực vật
Hình 2.26. Thí nghiệm ở đậu xanh
Hình 2.27. TN quang hợp ở thực vật
Hình 2.28. Thí nghiệm trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.29. Thí nghiệm về trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.30. Thí nghiệm ở cây mướp đắng
Hình 2.31. Thí nghiệm ở củ khoai lang
Hình 2.32. Thí nghiệm ở ốc sên
Hình 2.33. Dụng cụ và nguyên liệu của thí nghiệm hô hấp ở thực vật
Hình 2.34. Dụng cụ, vật liệu và hóa chất cho TN tách chiết sắc tố
Hình 2.35. Thí nghiệm về trao đổi nước
11
Hình 2.36. Thí nghiệm ở cây đậu xanh
Hình 2.37. Thí nghiệm về quang hợp
Hình 2.38. Mẫu vật thí nghiệm
Hình 2.39. Dụng cụ thí nghiệm
Hình 2.40. Dụng cụ thí nghiệm hocmon thực vật

Hình 2.41. Dụng cụ thí nghiệm quá trình thoát hơi nước
Hình 2.11. Thí nghiệm về trao đổi nước ở thực vật
Hình 2.18. TN ở cây đậu xanh
Hình 2.42. Kết quả TN ở cây đậu xanh
Hình 2.24. TN hô hấp ở thực vật
Hình 2.39. Dụng cụ thí nghiệm
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1. Quy trình thiết kế BTTN trong dạy học Sinh học
Sơ đồ 2.2. Qui trình sử dụng BTTN rèn luyện kỹ năng tư duy cho HS
12
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục và đào tạo là một lĩnh vực có vai trò hết sức to lớn trong xã hội. Đây
là cơ sở, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội; là công cụ xây dựng đất nước
ngày càng văn minh, giàu mạnh. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng giáo dục luôn
được Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội quan tâm. Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu ”, do đó “phải
đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các cấp học, bậc học, khuyến khích tự học, áp
dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư
duy sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề” [3]. Định hướng trên đây đặt ra cho nhà
trường phổ thông nhiệm vụ quan trọng đó là phải tích cực nghiên cứu đổi mới phương
pháp dạy học nhằm đào tạo ra những con người mới có trình độ văn hóa cao, năng
động, sáng tạo và có kỹ năng thực hành giỏi.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, một trong những phương pháp nghiên
cứu chính là quan sát và thí nghiệm (TN). Chương trình Sinh học 11 ở trung học phổ
thông (THPT) nghiên cứu Sinh học cơ thể, một cấp độ tổ chức trong hệ thống sống.
Nội dung chủ yếu của phần này là những kiến thức về các quá trình sinh lý cơ bản như
chuyển hoá vật chất và năng lượng, tính cảm ứng, sinh trưởng và phát triển, sinh sản
trong cơ thể động vật, thực vật; ảnh hưởng của các nhân tố sinh thái lên các quá trình
đó và các nguyên tắc ứng dụng vào thực tiễn sản xuất và cuộc sống. Có thể nói, toàn

bộ kiến thức sinh học 11 gắn liền với thực tiễn, đòi hỏi cần có sự thực hành và sâu sát
với thực tế, điều này có thể thực hiện bằng các bài tập thí nghiệm (BTTN) hay các
hoạt động quan sát tiến hành được trên lớp, ở phòng TN, vườn trường, ở nhà
Tuy nhiên, trong dạy học Sinh học ở phổ thông hiện nay, phần lớn giáo viên
(GV) chưa gắn việc giảng dạy lí thuyết với thực hành, có tâm lí ngại sử dụng TN trong
các giờ dạy và có xu hướng dạy chay. Vì vậy, học sinh (HS) chưa được tạo điều kiện
để bồi dưỡng phát triển năng lực tư duy, năng lực thực nghiệm, năng lực hoạt động tự
lực sáng tạo. Với cách học như hiện nay, HS không mấy chú trọng khâu thực hành,
hầu hết kiến thức thu được đều ở dạng lí thuyết, cách học tích luỹ tri thức trong sách
giáo khoa, coi trọng ghi nhớ các sự kiện, công thức, quy trình, quen làm theo các mẫu
13
đã cho, học theo lối học thuộc lòng. HS chưa có điều kiện để bồi dưỡng phương pháp
nhận thức, rèn luyện tư duy khoa học, phát triển năng lực tự giải quyết vấn đề, chưa
kích thích được tính tư duy sáng tạo và yêu thích học tập môn Sinh học.
Một trong những phương hướng để gắn lí thuyết với thực hành, giúp HS nắm
vững các kiến thức, kỹ năng cơ bản về lý thuyết và thực nghiệm của môn Sinh học là
việc sử dụng BTTN trong dạy học. Thông qua các BTTN, HS được bồi dưỡng, phát
triển năng lực tư duy, năng lực thực nghiệm, năng lực hoạt động tự lực, sáng tạo, bộc
lộ rõ khả năng sở trường, sở thích về sinh học.
Như vậy, giải BTTN là một hình thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học
tập, đây cũng là một trong những biện pháp để phát hiện và bồi dưỡng những HS khá,
giỏi về sinh học. Vì vậy, loại bài tập này có tác dụng toàn diện trong việc đào tạo,
nâng cao chất lượng dạy học Sinh học ở THPT.
Xuất phát từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Sử dụng bài
tập thí nghiệm để rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy trong dạy học phần sinh
học cơ thể - Sinh học 11”
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thiết kế và sử dụng các BTTN trong dạy học phần Sinh học cơ thể -
Sinh học 11 để rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho HS góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học Sinh học ở trường THPT.

3. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu thiết kế và sử dụng BTTN phù hợp với nội dung sẽ rèn luyện được các kỹ
năng tư duy cho HS, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phần Sinh học cơ thể –
Sinh học 11.
4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài gồm những
vấn đề cơ bản sau:
4.1. Nghiên cứu cơ sở lí thuyết và thực tiễn về BTTN, vai trò và phương pháp
sử dụng BTTN, hệ thống các nhóm kĩ năng nhận thức của HS.
4.2. Nghiên cứu quy trình, nguyên tắc, kỹ thuật thiết kế các BTTN.
4.3. Thiết kế hệ thống các BTTN nhằm rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho
HS trong dạy - học Sinh học 11.
14
4.4. Nghiên cứu quy trình sử dụng BTTN để rèn luyện một số kỹ năng tư duy
cho học sinh trong dạy học phần Sinh học cơ thể - Sinh học 11.
4.5. Thực nghiệm sư phạm để khảo sát khả năng giải và xử lý các BTTN của
HS, xác định hiệu quả rèn luyện một số kỹ năng tư duy của việc sử dụng các BTTN.
5. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
5.1. Đối tượng nghiên cứu
-Các BTTN và phương pháp sử dụng BTTN trong dạy học phần Sinh học cơ
thể - Sinh học 11.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu, thiết kế và
sử dụng các BTTN để rèn luyện cho HS các kỹ năng tư duy: kỹ năng phân tích thí
nghiệm, kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm, kỹ năng phán đoán kết quả thí nghiệm,
kỹ năng thiết kế - đề xuất phương án thí nghiệm trong dạy học Sinh học 11, THPT.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết [2]
- Nghiên cứu các tài liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chủ trương thực hiện
đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở phổ thông; các công trình nghiên cứu cải

tiến dạy học hướng vào việc sử dụng TN, BTTN trong dạy học của các tác giả trong và
ngoài nước.
- Nghiên cứu các tài liệu TN sinh học để làm cơ sở cho việc thiết kế, phân loại
BTTN trong dạy học Sinh học ở trung học.
- Nghiên cứu các tài liệu về phương pháp và biện pháp dạy học làm cơ sở để đề
xuất các biện pháp sử dụng BTTN nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học Sinh học ở
THPT.
6.2. Phương pháp chuyên gia [2]
Trao đổi trực tiếp, xin ý kiến của những giáo sư đầu ngành về lĩnh vực nghiên
cứu, giúp việc định hướng triển khai nghiên cứu đề tài.
6.3. Phương pháp điều tra cơ bản
Điều tra về thực trạng của việc sử dụng các BTTN trong dạy học Sinh học ở
trường THPT.
- Đối với GV:
15
+ Dùng phiếu điều tra để lấy số liệu về thực trạng dạy học bộ môn Sinh học .
+ Tham khảo giáo án của một số GV.
+ Dự giờ và trao đổi kinh nghiệm với một số GV.
- Đối với HS:
Sử dụng phiếu điều tra để điều tra hứng thú học tập bộ môn Sinh học của HS.
6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Để đánh giá kỹ năng tư duy ở HS, chúng tôi tiến hành xây dựng bộ tiêu chí.
Căn cứ vào các tiêu chí được đặt ra để tiến hành đo mức độ đạt được của mỗi kỹ năng
theo thời gian.
6.5. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng một số công cụ toán học để xử lý các kết quả điều tra và kết quả thực
nghiệm sư phạm. Tham số sử dụng để xử lý: phần trăm (%).
7. CẤU TRÚC CỦA BÁO CÁO
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, báo cáo tổng
kết gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2: Thiết kế và sử dụng BTTN để rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho
HS trong dạy học phần Sinh học cơ thể - Sinh học 11.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
8.1. Xây dựng được quy trình thiết kế BTTN để rèn luyện các kỹ năng tư duy
cho HS trong dạy học Sinh học
8.2. Xây dựng được hệ thống BTTN nhằm rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho
HS trong dạy học phần Sinh học cơ thể - Sinh học 11.
8.3. Sử dụng các BTTN đã thiết kế để rèn luyện một số kỹ năng tư duy cho HS:
kỹ năng phân tích thí nghiệm, kỹ năng so sánh kết quả thí nghiệm, kỹ năng phán đoán
kết quả thí nghiệm, kỹ năng thiết kế - đề xuất phương án thí nghiệm.
8.4. Xác định bộ tiêu chí đánh giá mức độ đạt được các kỹ năng tư duy của HS
thông qua việc sử dụng BTTN trong dạy học Sinh học 11.
16
9. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
9.1. Trên thế giới
Phương pháp TN đã được nghiên cứu ở nhiều nước, người mở đầu cho phương
pháp này là Galile – Nhà vật lí học, ông đã xây dựng phương pháp này vào thế kỷ
XVII và rất có hiệu quả trên con đường đi tìm chân lí với câu nói nổi tiếng “Muốn
hiểu biết thiên nhiên phải trực tiếp quan sát thiên nhiên, phải làm thí nghiệm, phải hỏi
thiên nhiên chứ không hỏi Aristot hoặc kinh thánh ”. Về sau, các nhà khoa học khác
đã kế thừa phương pháp đó và xây dựng nó cho hoàn chỉnh hơn. Phương pháp này
được thâm nhập vào nhiều ngành khoa học tự nhiên cũng như các ngành khoa học xã
hội khác, trong đó có Sinh học.
Liền sau Galile, I.A Konmenxki, một nhà sư phạm lỗi lạc của thế kỉ XVII đã
đưa ra biện pháp dạy học bắt HS phải tìm tòi suy nghĩ để nắm được bản chất của các
sự vật hiện tượng, trong đó có phương pháp thực hành TN. J.J. Ruxo cũng cho rằng
phải hướng HS tích cực tự giành lấy kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng
tạo.

Việc vận dụng phương pháp thực hành TN vào dạy học đã được nhiều nhà giáo
dục trên thế giới quan tâm nghiên cứu như: B.P Exipop, M.A Danilop, M.N Scattin,
I.F Kharlamov, I.I Samova, M.N Veczelin (Nga), Skinner (Mỹ), Okon (Ba Lan).
Skinner (1904-1990) trong tác phẩm “Công nghệ dạy học” (1968) đã cho rằng: dạy
học là quá trình tự khám phá, và ông đã đưa ra mô hình dạy học khám phá bằng việc
sử dụng TN thực hành.
Dạy học bằng phương pháp TN đã được sử dụng ở nhiều nước tiên tiến trên thế
giới từ (Anh, Pháp, Mỹ, Đức ), bắt đầu từ đầu thế kỉ XX và phát triển rầm rộ từ nửa
sau của thế kỉ này. Ở Pháp vào những năm 1980-1990, đã có nhiều trường hợp sử
dụng phương pháp TN trong dạy học và được xem là phương pháp trọng tâm của các
môn khoa học tự nhiên ở các trường trung học. Năm 1980, ông Pie Giôliô Quiri - Viện
trưởng viện hàn lâm Pháp đã khởi xướng phương pháp Lamap “Bàn tay nặn bột”, bắt
nguồn từ thực trạng xuống cấp của sinh viên các ngành khoa học tự nhiên. Với phương
pháp này Viện hàn lâm mong muốn mang đến một cơ hội để người học tiếp cận khoa
học bằng các bài học thực tiễn chứ không phải các bài giảng thuần tuý lí thuyết. Theo
phương pháp này, lớp học được chia thành nhiều nhóm (4 HS/nhóm). Mỗi nhóm được
17
giao các tài liệu và các yêu cầu khác nhau liên quan đến các bài học. Căn cứ vào yêu
cầu, các nhóm sẽ lựa chọn các vật dụng cần thiết cho việc thực hành TN. Các vật dụng
thường đơn giản, dễ tìm. Các nhóm sẽ thảo luận cách thức thực hiện các bài TN, trình
bày các hiểu biết mà mình khám phá được. Trong suốt quá trình các nhóm làm việc,
GV đóng vai trò là người quan sát hướng dẫn.
Tại một số nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Bộ giáo dục và
đào tạo các nước này cũng đã đưa phương pháp Lamap vào chương trình học chính
khoá trong trường phổ thông [24].
9.2. Ở Việt Nam
Ở nước ta, có rất nhiều nhà lý luận dạy học nghiên cứu về phương pháp TN,
nhằm cải tiến phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của
HS như: Nguyễn Ngọc Quang, Đinh Quang Báo, Nguyễn Đức Thành, Nguyễn Văn
Duệ, Trần Bá Hoành, Nguyễn Quang Vinh, Trịnh Nguyên Giao, Lê Văn Lộc, Nguyễn

Cương, Nguyễn Đức Thâm, …
Việc sử dụng phương pháp thực hành trong giảng dạy để phát huy tính tích cực,
sáng tạo của HS đã thu hút một số tác giả nghiên cứu như:
Nguyễn Thị Dung (2006) với nghiên cứu “Tích cực hóa hoạt động học tập trong
giờ thực hành củng cố môn Sinh học ở trường phổ thông”. Tác giả cho rằng với quan
niệm dạy học mới hiện nay, việc tích cực hoạt động học tập trong giờ thực hành củng
cố cần được coi trọng, bằng cách tạo điều kiện cho HS tự lực tìm con đường chứng
minh cho các vấn đề được học [6].
Nguyễn Tiến Dũng (2007) với đề tài "Tác dụng của BTTN trong dạy học vật lí
ở trường Phổ thông". Tác giả đã đi nghiên cứu vai trò của TN trong việc phát huy các
kỹ năng tư duy của HS trong dạy học vật lý ở trường phổ thông [7].
Đoàn Xuân Hinh (2007) với nghiên cứu “Một số ví dụ về việc sử dụng thí
nghiệm trong dạy học Vật lý” đã đưa ra những nguyên tắc và quy trình của việc sử
dụng TN trong dạy học Vật lý [14].
Trần Thị Thúy (2007) với nghiên cứu “Sử dụng bài tập thực hành rèn luyện một
số kỹ năng tư duy thực nghiệm trong dạy – học Sinh học THPT” (Luận văn thạc sĩ
giáo dục học). Tác giả đã đi nghiên cứu khá sâu về bài tập thực hành thí nghiệm và
bước đầu đưa ra được một số BTTN trong chương trình THPT [23].
18
Huỳnh Trọng Dương (2008) với nghiên cứu “BTTN vật lý với việc phát huy
tính tích cực nhận thức của học sinh trung học cơ sở”. Theo tác giả, BTTN vật lý vừa
là một môn học vừa là một phương pháp dạy học, nó tạo ra ở người học động cơ học
tập, sự khám phá, xây dựng kiến thức mới; gây hứng thú, phát huy tính tích cực sáng
tạo. Cũng theo tác giả trong bài “Sử dụng TN vật lý nhằm tích cực hóa hoạt động nhận
thức của HS”. Trong bài viết này, tác giả trình bày về vai trò của TN vật lý trong việc
đổi mới chương trình vật lý và việc sử dụng TN vật lý nhằm tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS [8,9].
Đặng Thị Dạ Thủy (2013) với nghiên cứu “Nâng cao hiệu quả dạy – học Sinh
học bậc trung học phổ thông bằng việc sử dụng bài tập thí nghiệm”, tác giả đã đưa ra
quy trình thiết kế và sử dụng BTTN trong dạy học Sinh học [24].

Đặng Nhật Kim Ngọc (2014) với nghiên cứu “Sử dụng bài tập thí nghiệm để
rèn luyện cho học sinh kỹ năng tư duy trong dạy học Sinh học 8” (Luận văn Thạc sĩ
giáo dục học). Tác giả đã chứng tỏ được hiệu quả của việc sử dụng BTTN trong rèn
luyện các kỹ năng tư duy cho HS [20].
Như vậy, việc sử dụng phương pháp thực hành TN hay sử dụng BTTN trong
dạy học đã được nghiên cứu và chú ý từ rất sớm. Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng
BTTN để rèn luyện kĩ năng tư duy thực nghiệm trong các khâu của quá trình dạy học,
nâng cao chất lượng dạy học trong môn Sinh học còn rất hạn chế. Vì vậy, việc đi sâu
nghiên cứu lí luận, đề xuất quy thiết kế BTTN và đề xuất giải pháp sử dụng các BTTN
trong dạy học Sinh học là rất cần thiết.
19
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Thí nghiệm và bài tập thí nghiệm
1.1.1.1. Thí nghiệm và vai trò của thí nghiệm trong dạy học sinh học
TN là sự tác động vào đối tượng nghiên cứu bằng những điều kiện nhân tạo
nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của một hoặc một vài yếu tố xác định, tập trung theo dõi
một vài khía cạnh nhất định.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm gắn liền với TN và thực hành. TN trong
dạy học có thể tiến hành trên lớp, phòng TN, vườn trường, ở nhà,… có thể do GV biểu
diễn hoặc do HS thực hiện. TN vừa là phương tiện, vừa là nguồn cung cấp kiến thức
mới có vai trò quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển tư duy, sáng tạo của HS.
Vai trò của TN trong dạy học Sinh học :
- TN là mô hình đại diện cho hiện thực khách quan, là nguồn cung cấp thông
tin, là điểm xuất phát cho quá trình nhận thức của HS.
- TN là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn.
- TN là phương tiện duy nhất giúp HS hình thành kỹ năng, kỹ xảo thực hành và
tư duy khoa học.

- TN giúp HS nắm vững kiến thức lí thuyết đầy đủ hơn nhờ đi sâu tìm hiểu bản
chất của các hiện tượng, quá trình sinh học [2].
1.1.1.2. Bài tập thí nghiệm
Theo Nguyễn Đức Thâm, BTTN là bài tập đòi hỏi HS khi giải phải làm TN,
qua đó hình thành nên các kiến thức và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo [22].
Theo Nguyễn Thượng Chung, BTTN là bài tập đòi hỏi HS phải vận dụng một
cách tổng hợp các kiến thức lí thuyết và thực nghiệm, các kỹ năng hoạt động trí óc và
chân tay để tự mình giải quyết vấn đề, đề ra phương án, lựa chọn phương tiện, tiến
hành TN… nhằm rút ra kết luận khoa học [22].
20
Theo tác giả Đặng Thị Dạ Thủy (2013), trong dạy học Sinh học, BTTN là dạng
bài tập luôn đi kèm với TN mà khi giải bài tập HS không những dựa vào kết quả của
TN mà còn vận dụng tổng hợp các kiến thức lý thuyết và thực nghiệm, các kĩ năng
hoạt động trí óc và thực hành kết hợp với vốn hiểu biết về thực tiễn đời sống của HS.
Bằng các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, trừu tượng hóa
giúp các em giải thích được kết quả TN, từ đó lĩnh hội được các khái niệm, phân tích
được cơ chế của các quá trình, quy luật sinh học [24].
BTTN thường được sử dụng khi nghiên cứu các loại kiến thức sinh lý, sinh thái.
Thông qua hoạt động giải bài tập, HS tự mình khám phá ra những điều mới mẻ từ tác
động chủ ý của các em lên đối tượng TN, qua đó kích thích hứng thú học tập, tạo sự
say mê yêu thích môn Sinh học.
1.1.1.3. Các dạng bài tập thí nghiệm
- Căn cứ vào việc thực hiện TN trong quá trình giải bài tập của người học, có
thể chia BTTN trong dạy học Sinh học thành hai dạng:
+ BTTN yêu cầu HS phải thực hiện TN trong quá trình giải bài tập. Dạng bài
tập này được gọi là bài tập thực hành TN.
+ BTTN có dữ kiện là các TN được biểu diễn gián tiếp (thông qua quan sát
đoạn phim quay các thao tác, diễn biến của một TN thật hay TN ảo); hoặc bài tập có
dữ kiện được mô tả bằng các hình vẽ mô phỏng hay các hình ảnh chụp từ TN thật.
Như vậy, dạng bài tập này chỉ được giải bằng lí thuyết, HS không cần phải tiến hành

TN.
- Căn cứ vào vào mục đích của quá trình dạy học, BTTN có các dạng:
+ BTTN hình thành kiến thức mới:
Trong khâu nghiên cứu bài học mới, BTTN được dùng như là một bài tập tình
huống, bài tập nhận thức, đặt ra vấn đề mới mà khi giải xong HS sẽ lĩnh hội được kiến
thức mới và hình thành nên kỹ năng mới.
HS phải tự mình tiến hành TN, quan sát hiện tượng, phân tích TN… để rút ra
kết luận có giá trị nhận thức mới. Vai trò của GV là hướng dẫn HS phân tích kết quả,
tìm ra mối quan hệ nhân quả bằng các câu hỏi định hướng. Bài tập này thường đưa ra
trước khi nghiên cứu một nội dung mới, vấn đề mới.
+ Bài tập thí nghiệm củng cố - hoàn thiện kiến thức:
21
Các BTTN được sử dụng trong khâu hoàn thiện kiến thức thường được tiến
hành sau khâu dạy bài mới, vào cuối tiết học, giờ thực hành, ngoại khóa, ôn tập cuối
chương, cuối học kỳ hoặc ôn tập cuối năm… Các bài tập này có tác dụng lớn trong
việc chính xác hóa các khái niệm , tăng cường tính vững chắc, tính hệ thống các kiến
thức và rèn luyện kỹ năng kỹ xảo. Trong đó, việc xác lập các mối quan hệ giữa các
biểu tượng về sự vật hiện tượng cụ thể với các khái niệm trừu tượng có vai trò quan
trọng.
+ BTTN kiểm tra đánh giá:
Trong dạy học Sinh học, việc kiểm tra đánh giá được tiến hành thường xuyên
và định kì với nhiều hình thức: kiểm tra miệng, viết, trắc nghiệm khách quan… Công
việc kiểm tra đó cũng có thể thực hiện thông qua các BTTN vì vừa có tác dụng kiểm
tra được kiến thức, vừa kiểm tra được kỹ năng, vừa sinh động hấp dẫn đối với HS [2],
[18], [20].
- Với mục tiêu hình thành và phát triển kỹ năng tư duy cho HS, BTTN có các
dạng:
+ Bài tập rèn luyện kỹ năng phân tích TN: Đối với bài tập này yêu cầu HS
phải phân tích được mục đích của các TN, các điều kiện tiến hành TN, kết quả TN,
trên cơ sở đó giải thích được kết quả của các TN đã tiến hành. Từ đó rút ra được kiến

thức cơ bản cần khám phá.
+ Bài tập rèn luyện kỹ năng so sánh kết quả TN: Phân tích được các TN tiến
hành, so sánh sự giống nhau và khác nhau về kết quả giữa các TN hoặc giữa TN và đối
chứng, giải thích được vì sao có sự giống nhau và khác nhau đó. Rút ra kết luận về
kiến thức.
+ Bài tập rèn luyện kỹ năng phán đoán kết quả TN: HS phải phân tích các
điều kiện TN, các hiện tượng (nếu có) để đưa ra các phán đoán về kết quả TN. Đưa ra
được lí do vì sao có sự phán đoán đó. Làm TN để kiểm chứng các phán đoán.
+ Bài tập rèn luyện kỹ năng thiết kế TN: HS trình bày được mục đích TN,
dụng cụ và vật liệu tiến hành TN, mô tả được cách tiến hành TN hoặc cách thức bố trí
TN, tiến hành TN và giải thích được kết quả TN. Đối với dạng bài tập này HS có thể
đưa ra nhiều phương án TN khác nhau nhưng nếu đúng đều có thể chấp nhận, đây là
một trong số các bài tập phát huy được tính sáng tạo của HS một cách có hiệu quả.
22
Tóm lại, BTTN cung cấp cho HS cả kiến thức, cả phương thức giành lấy kiến
thức và mang lại niềm vui trong học tập . Do đó, BTTN vừa là mục đích, vừa là nội
dung, vừa là phương pháp dạy học hiệu nghiệm nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo
của HS và rèn luyện được các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết. BTTN có tác dụng toàn diện
về cả 3 mặt: giáo dưỡng, giáo dục kỹ thuật tổng hợp, đáp ứng được yêu cầu đổi mới
phương pháp dạy và học hiện nay.
1.1.1.4. Vai trò của bài tập thí nghiệm
BTTN có tác dụng toàn diện trong việc đào tạo, giúp HS nắm vững các kiến
thức, kỹ năng cơ bản về lý thuyết và thực nghiệm của bộ môn. Các bài tập này có thể
sử dụng với nhiều mục đích, vào những thời điểm khác nhau. Thông qua các BTTN,
HS được bồi dưỡng, phát triển năng lực tư duy, năng lực thực nghiệm, năng lực hoạt
động tự lực, sáng tạo, bộc lộ rõ khả năng, sở trường về bộ môn.
Giải BTTN là một hình thức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học tập, tăng
cường hứng thú, gắn học với hành, lý luận với thực tế, kích thích tính tích cực tự lực,
trí thông minh, tài sáng tạo, tháo vát, … của từng HS. Đây cũng là một trong những
biện pháp để phát hiện ra đúng những HS khá, giỏi về bộ môn.

Thông qua BTTN sẽ tạo ra HS khả năng tổng hợp kiến thức lý thuyết và thực
nghiệm, các kĩ năng hoạt động trí óc và thực hành một cách khéo léo, các vốn hiểu biết
về vật lý, kỹ thuật và thực tế đời sống nhằm phát huy tốt nhất khả năng suy luận, tư
duy lôgic. Với BTTN, HS có thể đề xuất các phương án TN khác nhau gây ra không
khí tranh luận sôi nổi [8], [24].
Tóm lại, BTTN vừa là mục đích, vừa là nội dung, vừa là phương pháp dạy học
hiệu nghiệm nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của HS và rèn luyện được các kĩ
năng, kĩ xảo cần thiết. BTTN có tác dụng toàn diện về ba mặt: giáo dục, giáo dưỡng,
giáo dục kĩ thuật tổng hợp, đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy và học
hiện nay.
1.1.2. Kĩ năng học tập của học sinh
1.1.2.1. Kĩ năng học tập
23
Kĩ năng học tập là khả năng của con người thực hiện có kết quả các hành động
học tập phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh nhất định, nhằm đạt tới mục đích, nhiệm
vụ đề ra.
Đối với HS trung học phổ thông, có hệ thống kĩ năng học tập chung như sau:
1. Các kĩ năng học tập phục vụ chức năng nhận thức liên quan đến việc thu
thập, xử lí, sử dụng thông tin: kĩ năng làm việc với SGK, kĩ năng quan sát, kĩ năng tiến
hành TN, kĩ năng phân tích - tổng hợp, kĩ năng so sánh, kĩ năng phán đoán - suy luận,
kĩ năng khái quát hóa, kĩ năng vận dụng các kiến thức đã học
2. Các kĩ năng học tập phục vụ chức năng tự tổ chức, tự điều chỉnh quá trình
học tập liên quan đến việc quản lí phương tiện học tập, thời gian, sự hỗ trợ từ bên
ngoài và chất lượng: kĩ năng tự kiểm tra, kĩ năng tự đánh giá, kĩ năng tự điều chỉnh
3. Các kĩ năng phục vụ chức năng tương tác trong học tập hợp tác: kĩ năng hợp
tác, kĩ năng học nhóm
Trong hệ thống kĩ năng trên, chúng tôi quan tâm đến việc xây dựng và thiết kế
các BTTN để rèn luyện một số kĩ năng tư duy thực nghiệm trong nhóm hệ thống kĩ
năng nhận thức [15].
1.1.2.2. Một số kĩ năng nhận thức

a. Kĩ năng phân tích - tổng hợp
Phân tích và tổng hợp là hai mặt của một quá trình thống nhất. Phân tích là cơ
sở của tổng hợp, được tiến hành theo hướng dẫn đến sự tổng hợp. Sự tổng hợp diễn ra
trên cơ sở của sự phân tích. Phân tích và tổng hợp nhiều khi xen kẽ nhau. Phân tích
càng sâu bao nhiêu thì sự tổng hợp càng đầy đủ bấy nhiêu, tri thức, sự vật, hiện tượng
càng phong phú bấy nhiêu.
Phân tích - tổng hợp trong Sinh học thường được dùng để phân tích cấu tạo, cơ
quan , phân tích TN, phân tích cơ chế, quá trình. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi
chỉ chú ý kĩ năng phân tích kết quả TN Sinh học. Kĩ năng phân tích kết quả TN là kĩ
năng phân tích các yếu tố cấu thành nên TN để tạo ra kết quả TN, qua đó rút ra được
kết luận phù hợp, giải thích được các kết quả TN.
b. Kĩ năng so sánh
So sánh là sự phân tích những điểm giống và khác nhau giữa các đối tượng,
nhằm phân loại sự vật hiện tượng thành các loại khác nhau.
24
Tùy mục đích mà phương pháp so sánh có thể nặng về tìm sự giống nhau hay
khác nhau. So sánh điểm khác nhau chủ yếu dùng trong phân tích, so sánh điểm giống
nhau chủ yếu dùng trong tổng hợp .
Trong thực nghiệm về Sinh học người ta thường dùng cách so sánh có đối
chứng, nghĩa là so sánh kết quả của hai đối tượng cùng loại, có đặc điểm hoặc sự tác
động trái ngược nhau.
Qua so sánh giúp HS phân biệt, hệ thống hóa và củng cố các khái niệm.
c. Kĩ năng phán đoán - suy luận
Kĩ năng phán đoán là năng lực sử dụng các dữ kiện, các tri thức hay các khái
niệm thuộc lĩnh vực chuyên môn đã có; năng lực vận dụng chúng để phát hiện ra các
thuộc tính bản chất của các sự vật hiện tượng; đưa ra những xét đoán hay nhận định để
giải quyết các nhiệm vụ lí luận hay thực hành xác định.
Suy luận cũng là một hình thức của tư duy. Từ một hay nhiều phán đoán đã có,
rút ra được một phán đoán mới theo các quy tắc logic xác định.
Căn cứ vào cách thức lập luận, suy luận được chia thành suy luận diễn dịch và

suy luận quy nạp. Suy luận diễn dịch là suy luận lập từ cái chung đến cái riêng, cái đơn
nhất. Suy luận quy nạp là suy luận trong đó lập từ cái riêng, cái đơn nhất đến cái
chung.
Trong dạy học bằng phương pháp TN, cần phải chú ý rèn luyện tư duy thực
nghiệm bằng phương pháp suy luận quy nạp.
d. Kĩ năng thiết kế thí nghiệm
Khi thiết kế TN, HS có thể dựa vào các dụng cụ, thiết bị TN đã cho sẵn, hoặc
có thể tự nghĩ ra dụng cụ, thiết bị để thiết kế một TN nhằm kiểm tra một phán đoán,
một mệnh đề nào đó. Trong dạy học Sinh học, việc rèn luyện cho HS tự mình đề ra các
phương án TN, tự bố trí TN và tự giải thích TN là một vấn đề rất quan trọng. Qua đó
giúp các em phát huy được tính sáng tạo, tính tự lập trong học tập và nghiên cứu khoa
học [3], [23].
1.1.2.3. Các yêu cầu khi sử dụng BTTN trong dạy học Sinh học
- Phải phù hợp với nội dung chương trình, bài học.
- Gần gũi với đời sống thực tiễn của HS.
25
- Phải phù hợp với trình độ của HS.
- Các dụng cụ, thiết bị TN đơn giản, dễ tìm, các thao tác TN không quá khó.
- Tạo khả năng để HS đưa ra nhiều giải pháp khi giải bài tập.
- Rèn luyện được một kĩ năng nào đó.
- Khắc sâu một kiến thức lí thuyết nhất định.
Khi xây dựng BTTN cần chú ý:
- Xác định được chủ đề của BTTN.
- Xác định được mục đích dạy học thông qua BTTN.
- Nội dung của BTTN cần phải đầy đủ thông tin, dữ kiện, yếu tố cấu thành TN
để phân tích và giải bài tập.
- Nhiệm vụ HS cần giải quyết [7], [20].
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu, cấu trúc và nội dung chương trình Sinh học 11, trung học
phổ thông.

1.2.1.1. Mục tiêu chương trình Sinh học 11, trung học phổ thông
a. Kiến thức
- HS có những hiểu biết phổ thông, cơ bản, hiện đại, thực tiễn về cấp độ tổ chức
cơ thể thực vật và động vật.
- HS có được những tri thức về các quá trình Sinh học cơ bản chủ yếu ở cơ thể
thực vật và động vật như: chuyển hóa vật chất và năng lượng, tính cảm ứng, sinh
trưởng và phát triển cũng như sinh sản (hiểu bản chất của hiện tượng, giải thích được
cơ chế của quá trình, nêu được ảnh hưởng của môi trường, biết nguyên tắc ứng dụng
vào thực tiễn sản xuất và cuộc sống).
b. Kỹ năng
- Kỹ năng thực hành: tiếp tục rèn luyện kỹ năng quan sát, TN qua bài thực
hành.
- Kỹ năng tư duy: tiếp tục kỹ năng tư duy phân tích – quy nạp, chú trọng phát
triển tư duy lý luận (phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, đặc biệt kỹ năng
nhận biết, đặt ra và giải quyết các vấn đề gặp phải trong học tập và thực tiễn cuộc
sống).

×