Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đánh giá rủi ro môi trường của thuốc bảo vệ thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (801.08 KB, 22 trang )

Mục lục:
Trang | 1
DANH MỤC BẢNG
Trang | 2
I. TÓM TẮT
Bài viết này mô tả các kết quả của việc đánh giá rủi ro môi trường của thuốc bảo vệ
thực vật được sử dụng trong nông nghiệp ở Xiamen, Trung Quốc. Mục đích là để đánh
giá tác động đối với tài nguyên nước, đặc biệt là đối với nghề cá và nuôi trồng hải sản.
Dữ liệu về thuộc tính nghiên cứu độc học sinh thái của thuốc bảo vệ thực vật và tính
chất vật lý - hóa học của nó đã được thu thập. Sự mô phỏng các hành vi môi trường
của thuốc bảo vệ thực vật liên quan đến tải trọng để áp dụng vào các lĩnh vực nông
nghiệp được thực hiện bằng cách sử dụng mô hình SoilFug. Đánh giá rủi ro được tiến
hành, thuốc bảo vệ thực vật nồng độ gần đúng đã được tính toán, hóa chất có nguy cơ
cao nhất đã được xác định, và các biện pháp quản lý rủi ro đã được chỉ ra. © 2002
Elsevier Science Ireland Ltd. All rights reserved.
Từ khóa: Đánh giá rủi ro; Nghiên cứu độc học sinh thái; Ảnh hưởng của thuốc bảo
vệ thực vật, độc chất trong thủy sản
II. GIỚI THIỆU
Trong vài năm qua, sự phù hợp của các mô hình phân phối môi trường và số phận
của các chất hóa học đã tăng lên theo cấp số nhân trong cộng đồng khoa học và một số
mô hình đã được đề xuất tiến hành. Trong khi đó, cộng đồng quản lý, đánh giá và kiểm
soát các chất hóa học đã chuyển từ giới hạn chấp nhận được trong nước thải và hoặc
các tiêu chí chất lượng trong các phương tiện truyền thông khác nhau về môi trường
đối với các thủ tục đánh giá rủi ro.
Đánh giá rủi ro là một quá trình liên quan đến việc xác định nguy cơ, đánh giá các
ảnh hưởng, đánh giá sự phơi nhiễm và tính chất đặc thù của các rủi ro (Van Leeuwen
và Hermens, năm 1995). Bài viết này mô tả một ứng dụng thực tế của các mô hình và
mô hình chiến lược trong quá trình đánh giá rủi ro do các loại thuốc bảo vệ thực vật
gây ra. Môi trường toàn cầu - Chương trình Phát triển Liên hợp quốc - Tổ chức Hàng
hải quốc tế (GEF / UNDP / IMO, 1995) đã thành lập một Chương trình khu vực về
Trang | 3


Phòng chống và quản lý ô nhiễm biển tại vùng biển Đông Á (MPP-EAS), có 3 Dự án
được tiến hảnh ở Vịnh Batangas (Philippine), Hạ Môn (Trung Quốc) và Malaca.
Báo cáo này cho chúng ta kết quả của việc Đánh giá rủi ro của việc sử dụng thuốc
bảo vệ thực vật ở Hạ Môn, Trung Quốc.
Mục tiêu là:
(1) Đánh giá tác động của của thuốc bảo vệ thực vật đối với nghề cá và nuôi trồng
thủy sản.
(2) Ứơc lượng gần đúng các thông tin về độc học sinh thái (ecotoxicological) của
các loại thuốc bảo vệ thực vật, bao gồm số lượng và tần suất sử dụng các loại
thuốc đó trên các cánh đồng nông nghiệp trong 1 năm
(3) Đề xuất các cách đo và hành động phù hợp để xác định rõ các tác động tiềm
năng khác của thuốc bảo vệ thực vật
III. ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ CHẤT HÓA HỌC TRONG BÀI
1. Thuốc diệt nấm Carbendazim
Carbendazim là chất bột có màu xám trắng.
Công thức hóa học C9H9N3O2
Trọng lượng phân tử 191.187 g/mol
Nhiệt độ nóng chảy 302-307 °C
Những tên gọi khác Methyl (1H-benzimidazol-2-yl)carbamate,
Carbendazol (ZMAF), methyl-2-
benzimidazole carbamate (MBC, MCB,
BCM, BMC)
Trang | 4
Sản xuất và ứng dụng Vào năm 1988, sản lượng carbendazim toàn
cầu xấp xỉ 3600 tấn. Nó là một chất thuộc
nhóm thuốc diệt nấm benzimidazole được
dùng rộng rãi nhất. Carbandazim thường
được dùng như chất ngăn ngừa các bệnh thực
vật ở cây ăn trái, rau quả, ngũ cốc
Tác động - Đối với môi trường: Carbendazim là chất

gây hại cho các sinh vật sống dưới đất và
dưới nước.
- Đối với con người: Được đánh giá là có độc
tính thấp đối với con người. Làm bỏng rát khi
tiếp xúc với da và mắt. Theo các nghiên cứu
trên động vật, tiếp xúc thường xuyên và lâu
dài với carbendazim có thể tác động xấu đến
quá trình sinh sản và phát triển ở người.
2. Thuốc trừ cỏ Butachlor
Tên chung: Butachlor
Tên hóa học:
2-chloro-N-(2-ethyl-6-methylphenyl)-
acetamide
Công thức hóa học: C17H26ClNO2
Loại thuốc: Thuốc trừ cỏ
Thành phẩm: 93% TC. / 60% EC
Cơ chế tác động:
Thuốc cỏ chọn lọc với tác động thấm sâu, chủ
yếu ngấm vào các chồi non. Ngăn sự phân chia
tế bào
Trang | 5
Ứng dụng:
Là loại cỏ tiền nảy mầm để diệt các loại cỏ mọc
quanh năm và một số loại cỏ lá rộng trên lúa, cả
lúa sạ và lúa cấy. Cũng dùng như một loại cỏ
chọn lọc trên lúa mạch, bông vải, đậu phộng, củ
cải đường, lúa mì và một số rau màu thuộc họ
cải bắp. Liều dùng khoảng 1-4.5Kg/ha. Hoạt
động phụ thuộc vào các khu vực có hệ thống
thủy lợi tốt, nhiều mưa.

3. Dicofol
Dicofol là hợp chất clorua hữu cơ, là sản phẩm trung gian của quá trình sản xuất
DDT.
Công thức hoá học của Dicofol tương tự như DDT.
Dicofol dùng để diệt con mạt sống trên cây hoặc quả. Đây là một chất độc tiếp xúc giết
côn trùng sau khi ăn hay bám trên mùa màng.
Dicofol là độc thần kinh, ở động vật có vú, Dicofol gây kích thích cao độ dẫn truyền
dọc theo trục của tế bào thần kinh, do ức chế một số enzym trong hệ thần kinh trung
ương.
4. Carbofuran
Tên IUPAC 2,3-dihydro-2,2-dimethylbenzofuran-7-yl
methylcarbamate.
Công thức hóa học C12H15NO3.
Tên gọi khác Furadan, Curaterr, Yaltox, Carbofurane,
Trang | 6
Pillarfuran, Crisfuran, Kenofuran, Chinufur,
Furacarb
Khối lượng phân tử 221,2524 g/mol.
Cấu trúc hóa học
Độc tính
LD50: 11 mg/kg.
PHI: 14 ngày.
Thuốc rất độc đối với người và động vật
máu nóng, nhưng an toàn đối với cây trồng.
Tính chất khác thuốc ở dạng hạt có màu tím hay trắng xám,
mùi nồng nhẹ, ít tan trong nước, tan nhiều
trong các dung môi hữu cơ. Thuốc dễ bị
phân hủy ở nhiệt độ cao và trong môi
trường kiềm.
Lưu ý: do Carbofuran rất độc nên cần phải hết sức thận trọng trong khi sử dụng và bảo

quản.
5. Dichlorvos
Tên IUPAC
2,2-dichlorovinyl dimethyl phosphate.
Công thức hóa học
C
4
H
7
Cl
2
O
4
P.
Tên gọi khác
DDVP, Nuvan, Vapona, Nogos, Desvap
Khối lượng phân tử
220,975741 g/mol.
Cấu trúc hóa học
Độc tính LD50: 80 mg/kg (chuột cống đực).
Tránh dùng trên các loại họ Bầu Bí Dưa có
lá mỏng, dây yếu. Thuốc rất độc nên được
xếp vào danh mục hạn chế sử dụng.
Tính chất khác Dichlorvos là một chất lỏng không màu,
mùi tương đối dễ chịu, tan tốt trong hầu hết
các dung môi hữu cơ nhưng ít tan trong
Trang | 7
nước (khoảng 1% ở nhiệt độ thường), độ
bay hơi cao thích hợp cho việc xông hơi. Là
chất kị ẩm, kiềm, bị thủy phân chậm trong

môi trường acid và trung tính, nhanh hơn
trong môi trường kiềm. Dichlorvos kết hợp
với các chất halogen tạo thành những hợp
chất khác có tính độc đối với dịch hại, như
khi kết hợp Dichlorvos với hỗn hợp C12Br2
sẽ thu được hợp chất Dibrom.
IV. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Tài liệu chính cung cấp thông tin về đặc điểm địa lý, khí hậu và lượng mưa, hiện
trạng sử dụng đất nông nghiệp, các đặc tính của đất là quyển “ Thông tin môi trường
bờ biển của Hạ Môn” (MPP – EAS, GEF/UNDP/IMO, 1995). Các dữ liệu thuốc
BVTV (năm 1996) được cung cấp bởi Công ty Cung cấp Vật liệu Sản xuất Nông
nghiệp Thành phố Hạ Môn.
Thông tin về các ảnh hưởng độc học sinh thái và đặc trưng hóa – lý của các loại
thuốc BVTV được cung cấp bởi Tomlin (1994) và Howard (1991). Một nửa các mô
hình này đã được sử dụng để tính nhiệt độ trung bình hàng năm ở Hạ Môn.
Các mô hình chiến lược được đề xuất trong các báo cáo của Mackay và cộng sự
(1996). Mô hình này được sử dụng để tính toán chỉ số Nồng độ Môi trường Dự kiến
(Predicted environmental concentration) (PEC) là Soil – Fug (Di Guardo và cộng sự,
1994).
1. Đặc điểm địa lý, khí hậu và phân bố lượng mưa.
Diện tích tổng cộng của thành phố Hạ Môn, các vùng đã được thừa nhận chủ
quyền, bao gồm cả các đảo khoảng 1516 km
2
, nằm ở bờ biển phía Nam của tỉnh Phúc
Kiến. Vịnh này có cấu trúc phức tạp gồm các đảo và vùng biển khác nhau như Cảng
Tây Hạ Môn, vịnh Maulan, cửa sông Jiu-longgjiang, vùng biển phía Nam và phía
Đông.
Trang | 8
Thuốc BVTV ở Hạ Môn theo dòng nước đổ trực tiếp ra vùng biển phía Tây, phía
Đông, Vịnh Ton – g’an , nơi có các hoạt động nuôi trồng thủy sản.

Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Hạ Môn là 20.9
o
C , trong đó tháng 7 có nhiệt độ
cao nhất 28.4
o
C và lạnh nhất vào các tháng Một/Hai với 12.6
o
C. Lượng mưa trung
bình hàng năm là 1143 mm. Sự phân bố lượng mưa năm 1996 được cung cấp bởi
Trung tâm khí tượng thuỷ văn địa phương.
Bảng 1: Dữ liệu lượng mưa từ cuối tháng 4 đến tháng 12 năm 1996
Đợt mưa Ngày mưa
(ngày)
Khoảng thời
gian (ngày)
Lượng mưa
(mm)
Lượng dòng chảy
(mm)
1 1 2 75 37.5
2 9 11 35 17.5
3 14 7 139 69.5
4 19 5 56 28.0
5 31 15 453 226.5
6 12 3 22 11.0
7 3 9 80 40.0
8 19 3 22 11.0
9 44 3 30 15.0
2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp, các đặc tính đất , tải lượng thuốc bảo vệ thực
vật trong đất.

Trong những năm qua, Hạ Môn đã có sự phát triển nhanh chóng nền kinh tế - xã hội,
cơ sở hạ tầng như cầu – cảng, sự phát triển về thủy sản, công nghiệp và tăng lên về
thương mại . Diện tích đất trồng trọt ở Hạ Môn hiện khoảng 427 km
2
. Thuốc BVTV
chỉ được dùng trên các diện tích cây trồng chính: lúa (29.8 km
2
), họ đậu (12.6 km
2
),
rau (22.2 km
2
), cây ăn quả ( 32km
2
), các loại cây trồng khác thì có sự giới hạn về việc
sử dụng số lượng thuốc BVTV.Các đặc điểm của lớp đất được sử dụng mô phỏng
trong quá trình nghiên cứu: độ sâu 0.3 m, độ rỗng 0.3, độ xốp 0.5, Cacbon hữu cơ
chứa 0.02 %, tổng diện tích 1405 km
2
(GEF/UNDP/IMO, 1995). Thuốc diệt cỏ chỉ
được dùng cho lúa, còn thuốc diệt nấm và Carbamate được sử dụng cho bất kì loại cây
Trang | 9
trồng nào, Photphat hữu cơ chủ yếu dành cho lúa, còn Clo hữu cơ dành cho cây hoa
quả và rau củ. Các ứng dụng này sẽ đánh giá tiêu chuẩn “hóa nông nghiệp” sử dụng
trong nhiều sản phẩm khác nhau.Bảng 2 sẽ liệt kệ các loại thuốc bảo vệ thực vật được
sử dụng nhiều nhất ở Hạ Môn, gồm số lượng, % thành phần hoạt động, thành phần
hoạt động mỗi năm trong 1 tấn, tỉ lệ sử dụng kg/ha trong sản phẩm và thành phần hoạt
động kg/ha. Trong đó, chất Dichlorvos có tổng nồng độ sử dụng rất cao đến 8 lần mỗi
năm với tỉ lệ 2.4 kg/ha.
Bảng 2: Thuốc bảo vệ thực vật tiêu thụ ở Hạ Môn

Thuốc bảo vệ thực
vật
Số lượng
(t/y)
% a.i. Số lượng
a.i. (t / y)
Ứng dụng
(kg / ha)
Ứng dụng
a.i. (kg / ha)
Thuốc diệt nấm tổng
số
50
Carbendazim 15 50 7.5 1.5 0.75
Đồng sunfat 10 96 9.6 0.75–1.125 0.72–1.08
Thiophanate–methyl 15 70 10.5 1.5 1.05
Thuốc diệt cỏ tổng số 100
Butachlor 20 60 12.0 1.5–1.85 0.9–1.11
Glyphosate 60 10 6 15.0 1.5
Thuốc bảo vệ thực
vật tổng số
1000
Organochlorines
Dicofol 20 20 4 1.5 0.3
Organophosphates
Dichlorvos 225 80 180 3.0 2.4*8
Dimethoate 85 40 34.0 1.5–3.0 0.6–1.2
Methamidophos 100 50 50 1.5 0.75
Omethoate 40 40 16 1.5–3.0 0.6–1.2
Parathion–methyl 40 1.5 0.6 22.5–37.5 0.34–0.56

Carbamates
Carbofuran 215 3 6.5 3.0–4.5 0.09–0.135
3. Kết quả nghiên cứu
 Mô phỏng phương pháp xử lý và tải lượng các loại thuốc bảo vệ thực vật.
Trang | 10
Quyết định chỉ mô phỏng những hóa chất có liên quan nhiều nhất, như một vài
thuốc BVTV đưa ra trong bảng 2 đã được áp dụng với lượng đáng kể. Tiếp tục xem
xét những hóa chất thuộc cùng một nhóm có phương thức hoạt động giống nhau có thể
cân nhắc đến độc tố thêm vào môi trường thủy sinh khi nó có mặt trong hợp chất
(Vighi và Calamari, 1996).
Vì vậy, một đơn chất trong bối cảnh này có thể đại diện cho một nhóm hóa chất,
mặc dù có sự khác biệt trong mức độ độc tính cấp tính.
Trong số các thuốc diệt nấm, methyl-thiophanate được sử dụng nhiều nhất (10,5
tấn / năm). Tuy nhiên, việc mô phỏng thì chọn carbendazim (7,5 t / năm) vì độc tính
cao của carbendazim với cá và Daphnia. Sulphate đồng đã được loại trừ khỏi đánh giá
chỉ nếu nó không được thêm trực tiếp vào nước, điều này hạn chế rủi ro do sự hấp thụ
kim loại lên đất.
Butachlor được sử dụng 12 tấn / năm đã được xem như là đại diện cho thuốc diệt
cỏ. Glyphosate không được quan tâm mặc dù độc tính cao trên nhiều loài thực vật, bởi
vì nó là một phân tử có thời gian sống ngắn và khả năng linh động thấp do tính phân ly
của nó (Grossbard Atkinson, 1985).
Dicofol acaricide đã được bao gồm trong mô phỏng là đại diện duy nhất của những
hợp chất clo hữu cơ và do tương tự DDT, mà từ đó nó được chuẩn bị. Có thể được
nhận thấy chu kì phân rã của nó ngắn hơn của DDT.
Dichlorvos đã được đưa vào như Phospho hữu cơ được sử dụng phổ biến nhất, 180
tấn / năm của thành phần hoạt tính và kết hợp với methamidophos cùng loại (50 tấn /
năm), từ đó dẫn đến tổng tải lượng P hữu cơ là 230 tấn / năm.
Các loại cây trồng, số lượng áp dụng cho mỗi ha, số phương pháp điều trị và các
khu vực được điều trị được tóm tắt trong Bảng 3. Lượng mưa mô phỏng này đã được
xem xét các dữ liệu từ cuối tháng Tư đến tháng 12 năm 1996 (Bảng 1). Bảng 4 tóm tắt

Trang | 11
đặc tính lý hoá của thuốc bảo vệ thực vật sử dụng cho mô hình đánh giá rủi ro ở người
đàn ông khu vực Xia- với mô hình SoilFug.
Một đánh giá tổng quát ban đầu về một chất hóa học được đề xuất trong một chuỗi
các tiêu chí cân bằng (Equilibrium Criteria) trong các bài báo (Mackay et al, 1996a, b,
c).
Những giai đoạn đánh giá dưới đây đòi hỏi những mô hình có vị trí rất rõ ràng,
giống như SoilFug, ở đây điều kiện địa phương đã được đưa vào tính toán. Tuy nhiên,
cần tuyên bố rằng những kịch bản chính xác cho việc mô phỏng có thể được xây dựng
cực kỳ khó khăn, như là số biến cố hữu với mô hình không cho phép kịch bản chính
xác (ví dụ như một người nông dân đang xử lý một ngày, một vài ngày khác sau đó,
đất địa phương khác nhau, vv…).
Bảng 3. Mô tả các phương pháp xử lý và tải lượng các loại thuốc
bảo vệ thực vật.
Bảng 4. Đặc tính của các thuốc bảo vệ thực vật.
Trang | 12
- Application: lượng sử dụng.
- Herbicides: thuốc diệt cỏ
- Fungicides: thuốc diệt nấm
- MW: phân tử khối
- Kow: hệ số octanol-nước
- Soil persistence: thời gian lưu( độ bền) trong đất
 Mô hình SoilFug và ứng dụng mô hình trong việc ước lượng dòng chảy của
thuốc bảo vệ thực vật:
SoilFug là mô hình dự báo tiềm năng ô nhiễm nước mặt bắt nguồn từ việc sử dụng
thuốc BVTV trên những cánh đồng. Trong một số trường hợp mô hình này được công
nhận trong các nghiên cứu, xem bài báo của Di Guardo et al. (1994 a,b) và Barra et al
(1995).
Mô hình này đã mô phỏng theo quy mô của một lưu vực sông và tính toán sự phân
bố của hóa chất đã áp dụng trong những pha đất và khả năng gây ô nhiễm nước mặt

của nó trong suốt những đợt mưa. Một đợt mưa được định nghĩa là khoảng thời gian
bắt đầu với một trận mưa rào và kết thúc với việc trở về mực nước nền trong dòng suối
kế cận.
Mô hình yêu cầu một lượng hóa chất giới hạn, dữ liệu môi trường và mô hình cung
cấp một nồng độ thuốc bảo vệ thực vật trung bình trong những dòng chảy ra.
Bản chất SoilFug là trạng thái không ổn định nhưng biến cố của mô hình ở trạng
thái cân bằng. Điều này bởi vì nó cần đưa vào tính toán sự biến mất của hóa chất thông
Trang | 13
qua những hiện tượng khác nhau (suy thoái, bốc hơi, dòng chảy), tiếp sau đó sự tính
toán phân bố giữa những pha khác nhau trong đất, thông qua sự tính toán mức pha
loãng (Mackay, 1991) trong đợt mưa. Tóm lại, mô hình xét đến 4 phần trong đất:
không khí trong đất, nước trong đất, hợp chất hữu cơ và hợp chất vô cơ. Cho mỗi phần
này một khả năng thu nhận (dung tích) (Z) có thể tính toán được, vì vậy độ pha loãng
có thể được thực hiện khi thể tích và hóa chất đầu vào được biết. Từ độ pha loãng,
nồng độ và lượng hóa chất trong mỗi phần có thể được tính toán.
Dữ liệu đầu vào cần thiết cho kịch bản mô tả đất của mô hình là nhiệt độ, độ sâu,
phân thể tích của không khí trong đất và nước trong đất tại dung tích của cánh đồng,
hàm lượng carbon hữu cơ, diện tích lưu vực, con số mô phỏng (cụ thể: số giai đoạn
mưa).
Cân bằng khối lượng của nước được tính trong những đợt mưa cơ bản và lượng
nước chảy ra. Dữ liệu cơ bản cho sự tính toán nước đầu vào là số đợt mưa, khoảng thời
gian của đợt mưa, lượng mưa. Mỗi giai đoạn mưa phải đủ để tạo ra một lượng nước ra
có thể đo lường được, bởi vì mô hình cần để ước lượng số lượng thuốc BVTV trong
nước bình lưu di chuyển ra khỏi lưu vực. Tỉ lệ 50% được ước lượng để mô tả hợp lý
cho lưu vực.
Những tham số khác cần cho việc chạy mô hình là những giai đoạn và thuốc bảo vệ
thực vật được sử dụng, liều lượng thuốc bảo vệ thực vật, số ngày từ lúc phun thuốc
đến khi có mưa, khu vực nghiên cứu và chu kỳ bán rã của thuốc BVTV.
Tập hợp những giá trị này cho mô hình SoilFug, thừa nhận để mô phỏng trường
hợp nghiêm trọng nhất. Vì vậy, tất cả được thực hiện trong mùa mưa, với dòng chảy

lớn nhất và tải trọng thuốc BVTV lớn nhất. Trường hợp đặc biệt về dichlovos (lên đến
8 lần xử lý trong một năm ở những điều kiện bình thường) một mô hình đặc biệt đã
được thực hiện với việc cân nhắc 3 lần xử lý trong khoảng 2 tuần. Từ những bộ dữ liệu
đã mô tả ở trên, mô hình có thể tính toán nồng độ trung bình của những loại thuốc
BVTV khác nhau trong nước trong suốt mỗi đợt mưa, đưa vào tính toán không chỉ
Trang | 14
hiện tượng phân chia giữa đất và nước, mà còn ước lượng độ lưu (lượng dư) của mỗi
phân tử (cụ thể là chu kỳ bán rã của nó). Dữ liệu cuối cùng là một loạt các biểu đồ đưa
ra dự đoán nồng độ của những loại thuốc BVTV khác nhau ở cửa của lưu vực, trong
trường hợp này, nó đại diện bằng điểm tiếp xúc giữa nước ngọt và nước mặn của biển
Xiamen. Những đồ thị này đã được đưa ra trong hình 1-3 và thảo luận bên dưới, cùng
với độc học sinh thái đáng kể của nồng độ được ước lượng. Đối với thời gian chính
xác của mỗi đợt mưa tham khảo trong bảng 1.
 Đánh giá rủi ro cho môi trường sống dưới nước
Kết quả của mô hình tính toán Soilfug đã chứng minh rằng số lượng nhất định các
loại thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng phổ biến nhất có thể đã có mặt trong các cửa
sông của các con sông chính vào biển Hạ Môn ở mức độ nhất định. Các chất đang
nghiên cứu có tiềm năng tích lũy sinh học giới hạn, theo giá trị Kow, ngoại trừ
dicofol(một loại thuốc bảo vệ thực vật dùng cho các cây trồng họ cam quýt). Việc tính
toán mức độ của các độc chất sinh thái được đại diện bởi 5 chất hóa học riêng biệt.
Thuốc diệt nấm Carbendazim, có nồng độ tính toán tại cửa sông có nồng độ khoảng
45µg/l, độc cấp tính Daphnia khoảng 130µg/l, phát tán do xói mòn đất và một phần do
dòng chảy.Butachlor được tính toán ở nồng độ 8µg/l trong khi độc cấp tính đối với các
loài sinh vật dưới nước lên đến hàng trăm µg/l.
Dicofol tồn tại (lưu) trong đất khoảng 1 năm nhưng do ái lực của nó với đất nên
việc rửa trôi bị hạn chế; nồng độ trong nước là 0.04µl/l thấp hơn nhiều so với những
cấp độ độc. Một lượng tích tụ sinh học nào đó có thể được dự đoán(Log Kow 4.3),
nhưng nó đã được chứng minh rằng nó có thể được chuyển hóa bởi động vật hữu nhũ
và chim, chưa có dữ liệu nào được tìm thấy là do cá.
Carbofuran được phát tán bởi xới mòn và dòng chảy. Nồng độ của nước tính toán

được có đỉnh ở 15µg/l bằng với độc cấp tính Daphnia. Trong điều kiện này, tỉ lệ rủi ro
nguy hiểm đối với sinh vật trong nước là rất cao.
Trang | 15
Nếu như đánh giá rủi ro được thực hiện đơn giản bằng cách kiểm tra tỉ lệ giữa PEC
và 4 chất đại diện, chỉ có carbonfuran là thấy được rủi ro trực tiếp đối với động vật
dưới nước, kết quả này không phải là nguyên nhân gây ra mối quan tâm cho các hợp
chất khác.Tuy nhiên, một tiêu chuẩn nghiêm khắc đã từng được sử dụng để đánh giá
mô hình dự báo này,e.g. bằng cách áp dụng mức độ không quan sát thấy hiệu ứng, chỉ
tính toán đơn giản là giả định một cấp số nhân của 10 liên quan đến độc cấp tính, một
hệ số rủi ro có thể được suy đoán cho carbendazi. Vì vậy, có thể kết luận rằng,trên cơ
cở của tiêu chuẩn độc cấp tính thì ảnh hưởng của carbofuran có nguy cơ gây thiệt hại
cấp tính. Trên cơ sở của một giả định không có mức độ ảnh hưởng của một hệ số 0,1
áp dụng cho dữ liệu độc tính cấp tính, carbendazim cũng rơi vào nhóm các hợp chất
mà có thể gây nguy cơ trên các loài động vật thủy sinh.
Ở khu vực Hạ Môn, sông ngắn và đổ ra biển rất nhanh, nơi mà nuôi trồng thủy sản
được thực hiện; nguy cơ tử vong hàng loạt, đặc biệt là ấu trùng của động vật thân
mềm, do đó có thể dự đoán rằng ấu trùng cũng có độ nhạy tương tự với thuốc bảo vệ
thực vật Daphina.
Một trường hợp đặc biệt của dichlorvos nơi mà nhiều ứng dụng được thực hiện cho
một nền nông nghiệp bình thường. mô phỏng 3 ứng dụng tuần tự được thực hiện. Kết
quả của 3 phương pháp được thể hiện ở Fig.3.Dichlorvos, mặc dù có 1 nửa vòng đời
ngắn, nhưng nó được thể hiện trong nước với đỉnh từ 40-20µg/l; trong thời gian vài
ngày. Xem xét số lượng cao hơn tổng số ứng dụng (230t/năm), tỉ lệ áp dụng là
2.4kg/ha và phương pháp xử lí được lặp lại lên đến 8 lần mỗi năm, chất này có thể gây
ra và sẽ tiếp tục ảnh hưởng lớn đến tỉ lệ tử vong của sinh vật nước.Độc cấp tính của nó
được báo cáo bởi Tomlin(1994) là 0.19µg/l cho Daphina.
Bởi vì con số này là rất thấp, một cuộc khảo sát đã được thực hiện và giá trị thấp
nhất đã được xác định. Thực tế, Vighi et al.(1991) đã báo cáo là 0.22µg/l trong khi số
liệu cũ hơn thì cho là 0.05 µg/l(Mayer and Ellersieck, 1986).
Trang | 16

Trang | 17
Trang | 18
Trang | 19
V.
KẾT LUẬN
Thông qua khảo sát hiện tại, đánh giá rủi ro đầu tiên về ảnh hưởng của thuốc bảo vệ
thực vật trong nông nghiệp đã được hoàn thành. Nghiên cứu này có thể đại diện cho
phương pháp phân tích chi phí lợi ích có thể được sử dụng trước khi tiến hành những
chương trình quan trắc tốn kém. Nghiên cứu này có thể hữu dụng cho sự phát triển bền
vững trong nông nghiệp và đánh giá rủi ro đối với việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở
các nước đang phát triển, những nơi đang thiếu điều kiện phân tích.
Cho tới nay, những hệ số dự đoán sự phân bố môi trường/ liều lượng gây ra ảnh
hưởng không quan sát được hoặc mục tiêu về chất lượng nước vẫn chưa được tính toán.
Theo ý kiến của chúng tôi, tỉ lệ này nên được tính toán chỉ khi biên độ không chắc chắn
được giảm xuống tới mức thấp nhất có thể.
Trong quy trình mô tả, nhiều hệ số không chắc chắn được đưa ra. Sự ước tính tải
lượng thuốc bảo vệ thực vật, thời gian sử dụng trên đồng ruộng, sự cân bằng nước (đầu
vào/ đầu ra), sự biến đổi của đất, vv chỉ là một vài ví dụ về ảnh hưởng của những biến
số môi trường lên mô hình. Sự bền vững của môi trường, sự chính xác của những dữ liệu
Trang | 20
hóa lý, cũng như những giới hạn sẵn có và sự lựa chọn dữ liệu độc học sinh thái là những
ví dụ không chắc chắn liên quan đến những tính chất phân tử.
Tuy nhiên, khẳng định rằng ngay cả khi thiếu sự chính xác, thì rủi ro cao nhất do
thuốc bảo vệ thực vật, những xu hướng và nồng độ xấp xỉ của thuốc bảo vệ thực vật vẫn
có thể được xác định chắc chắn, do đó biện pháp quản lý rủi ro nên được thực hiện. Tình
hình sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại những vùng nông nghiệp ở Xiamen đang là mối
quan tâm chính. Tổng lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất nông nghiệp trung bình là 27
kg/ha. Nếu việc tính toán được thực hiện trên toàn vùng khảo sát, khối lượng vẫn cao 7.6
kg/ha. Những dữ liệu này rất cao ngay cả khi so sánh với những vùng nông nghiệp đã
được khai thác mạnh mẽ.

Thị trường thuốc bảo vệ thực vật đa số là loại có chứa photphat hữu cơ, chất rất độc
đối với hệ động vật trong nước và rất linh động (mặc dù thời gian tồn tại ngắn). Cái chết
của cá và những sinh vật sống dưới nước được trình bày (GEF/UNDP/IMO, 1995), ngay
cả khi những nguyên nhân của vấn đề này không được xác định. Một vài chất hóa học dễ
bay hơi gây ra rủi ro tiềm tàng đối với sức khỏe con người. Một quy hoạch tổng thể đề
cải thiện và thay đổi hoạt động nông nghiệp hiện nay nên được chuẩn bị. Những vấn đề
chính có thể xoay quanh việc xử lý thuốc trừ sâu (ví dụ thay thế photphat hữu cơ bằng
pyrethroids), sự lựa chọn những sản phẩm ít tác động và ít linh động (ví dụ những loại
photphat hữu cơ khác, pyrethroids tổng hợp, pseudo- pyrethroids) và việc đưa vào sử
dụng hệ thống luân canh và việc kết hợp quản lý sâu dịch hại.
Nhìn chung, tình trạng hiện tại của việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở vùng Xiamen
là một rủi ro rất lớn đối với môi trường thủy sinh và gây ra xung đột trong việc khai thác
tài nguyên nước. Để phát triển bền vững khu vực này, những biện pháp liên quan đến
việc khắc phục hậu quả nên nhanh chóng được thực hiện.
VI. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
Một số giải pháp về quản lí dịch hại tổng hợp:
Trang | 21
Quản lí dịch hại tổng hợp là một hệ thống các biện pháp phòng trừ bao gồm các biện
pháp sinh học, nông học và hoá học, đuợc kết hợp với nhau nhằm hạn chế đến mức thấp
nhất sự phát triển của sâu bệnh và cỏ dại, mang lại hiệu quả cao về kinh tế và môi trường.
 Biện pháp sinh học:
- Lai tạo những giống cây trồng chống chịu một loài sâu hại nhất định bằng công
nghệ gen. Viện IRRI đã thành công tạo giống lúa chịu rầy nâu.
- Sử dụng kí sinh trùng bắt mồi
- Sử dụng các loài vi sinh vật trừ sâu hại
- Sử dụng các chất sinh học
 Biện pháp trồng trọt:
- Luân canh, xen canh cây trồng nhằm vào việc
thay đổi thói quen chỉ ăn hại một loài cây
nhất định của sâu hại. Đây là phân quan trọng

của những phương pháp nông nghiêp mới
- Gieo trồng theo phương thức nông lâm kết
hợp tạo tính đa dạng sinh học cao và bằng
việc cây này đứng cạnh cây kia để phát triển
các loài thiên địch
 Biện pháp hoá học:
- Sử dụng chất bảo vệ thực vật hợp lý, liều lưọng vừa phải, phun đúng nồng độ quy
định, quy trình
- Sử dụng các loại hoá chất thảo mộc,
đựoc chiết rút từ những cây trồng như
xoan
Trang | 22

×