Liên hệ: Nguyễn Văn Hùng ĐT:0946734736; Mail:
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY GIÚP CÁC EM
HỌC SINH LỚP 7 VIẾT TỐT CÁC BÀI VĂN BIỂU CẢM
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Lê Quý Đôn
SKKN thuộc môn: Ngữ văn
THANH HOÁ, NĂM 2013
PHẦN A - ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư
duy của con người .
Là một môn học thuộc nhóm khoa học và xã hội, môn Ngữ văn có tầm
quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh.
Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ
mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực
tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt
môn Ngữ văn.
Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn : Văn
học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Trong thực tế dạy và học, phân môn Tập làm văn
là phân môn được coi là khó nhất. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói
“ Dạy làm văn là chủ yếu dạy cho học sinh diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình
bày tỏ một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác làm nổi bật điều mình muốn
nói” (Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, nghiên cứu giáo dục số 28,
11/ 1973)
Năm học 2012-2013, tôi được phân công dạy môn Ngữ văn 7, tôi nhận
thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là nhu cầu thiết yếu của con người nhưng
học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “ khơi gợi lòng đồng cảm
nơi người đọc’’. Khi hành văn các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi giữa
văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế điểm kiểm tra bài văn biểu
cảm chưa cao. Chính vì lý do này tôi muốn đưa ra “MỘT SỐ KINH
NGHIỆM GIẢNG DẠY GIÚP CÁC EM HỌC SINH LỚP 7
VIẾT TỐT CÁC BÀI VĂN BIỂU CẢM”.
2
PHẦN B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ:
Văn biểu cảm là tiếng nói tình cảm hết sức phong phú của con người. Đối
tượng của phương thức biểu đạt này không phải là phong cảnh, đồ vật hay bức
tranh về cuộc sống con người như ở văn miêu tả, cũng không phải là những số
phận, những cảnh đời, những sự việc như ở văn tự sự mà là thế giới tinh thần
muôn hình, muôn vẻ với những tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người trước
cuộc đời. Hay nói đúng hơn, tư tưởng, cảm xúc, nỗi niềm là đối tượng phản ánh
trực tiếp của phương thức biểu cảm.
II. THỰC TRẠNG VIẾT VĂN BIỂU CẢM CỦA HỌC SINH:
Qua thực tế dạy chương trình Ngữ văn 7, tôi nhận thấy kĩ năng vận dụng
các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài
tập làm văn của nhiều học sinh chưa cao.
Trong những năm trước, khi viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “ Loài
cây em yêu”, học sinh đã học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm
nhưng nhiều em không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên bài viết
không phải viết về thái độ, tình cảm của mình đối với một loại cây cụ thể mà tả
về loài cây đó. Hoặc viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “ Cảm nghĩ về người
thân của em”, học sinh sa vào kể lại người thân. Mặc dù biết rằng trong văn biểu
cảm có sử dụng yếu tố miêu tả và tự sự. Song miêu tả và tự sự chỉ nhằm bộc lộ
cảm xúc, chứ không phảI phương thức biểu đạt chính.
III. CÁC GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN :
1. Củng cố những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần nắm vững khi làm
văn biểu cảm.
Đây là khâu quan trọng đầu tiên, không phải chỉ riêng văn biểu cảm mà là
ở tất cả các kiểu văn bản được học ở THCS . Việc cung cấp tri thức, kĩ năng về
văn biểu cảm được tiến hành ở nhiều tiết, xen kẽ: Từ tiết 20 : “ Tìm hiểu chung
về văn biểu cảm”, đến tiết 62 : “ Ôn tập văn biểu cảm” . Do vậy việc củng cố
3
kiến thức, kĩ năng làm văn biểu cảm theo một hệ thống là rất cần thiết . Sau đây
là những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần cung cấp cho học sinh.
1.1. Giúp học sinh nắm được khái niệm văn biểu cảm
Văn biểu cảm là văn bản viết ra nhằm biểu đạt tình cảm, cảm xúc, sự đánh
giá của con người đối với thế giới xung quanh và khêu gợi lòng đồng cảm nơi
người đọc. (SGK Ngữ văn 7- Tập I).
Thường thì những bài văn biểu cảm tập trung biểu đạt một tình cảm chủ
yếu. Tình cảm ấy được bộc lộ trực tiếp thông qua những suy nghĩ, những nỗi
niềm, những cảm xúc trong lòng người. Tuy nhiên trong thực tế, khi viết văn
biểu cảm (dù ở dạng thơ hay văn xuôi), người ta vẫn thường hay kết hợp sử
dụng những phương thức khác như miêu tả, tự sự để bộc lộ thái độ, tình cảm
gián tiếp thông qua những đối tượng, những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ.
Tuy nhiên, khi vận dụng phương thức miêu tả và tự sự vào văn biểu cảm
thì cũng cần lưu ý: có tả thì cũng không tả một cách cụ thể, hoàn chỉnh; có kể thì
cũng không kể một cách chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Người viết văn biểu cảm chỉ
chọn những đặc điểm, những sự việc, những thuộc tính nào đó có khả năng gợi
cảm để biểu hiện tư tưởng, tình cảm của mình.
Về bố cục, bài văn biểu cảm cũng được tổ chức theo mạch cảm xúc của
người viết. Do vậy, trình tự các ý, các phần trong văn biểu cảm thường được sắp
xếp rất tự nhiên, không gò bó cứng nhắc. Về thái độ, tình cảm, phải đảm bảo
tính chân thực, trong sáng, rõ ràng, có nghĩa là không được giả dối, sáo rỗng. Có
như vậy, văn biểu cảm mới đi vào lòng người.
1.2. Giúp học sinh nắm được cách làm bài văn biểu cảm:
Bước 1: Xác định yêu cầu của đề và tìm ý: Phải căn cứ vào các từ ngữ và
cấu trúc của đề bài để xác định nội dung, tư tưởng, tình cảm mà văn bản sẽ viết
cần phải hướng tới. Từ đó đặt câu hỏi để tìm ý (nội dung văn bản sẽ nói về điều
gì? Qua đó cần bộc lộ thái độ, tình cảm gì?)
Bước 2 : Xây dựng bố cục (dàn bài).
Bố cục của văn biểu cảm cũng bao gồm ba phần: Mở bài – Thơ bài – kết
bài. Tuy nhiên việc sắp xếp ý để tạo thành một bố cục hoàn chỉnh phụ thuộc vào
4
mạch cảm xúc của người viết, không hề máy móc áp đặt một kiểu nào. Nhưng
dù sao thì phần mở bài và kết bài thường là những câu văn nêu cảm nhận chung
hoặc nâng lên thành tư tưởng, tình cảm khái quát. Các ý lớn nhỏ trong phần thân
bài phải được sắp xếp hợp với diễn biến tâm lý của con người trước từng sự
việc, đối tượng.
Mở bài: Có thể giới thiệu sự vật, cảnh vật trong thời gian và không gian.
Cảm xúc ban đầu của mình.
Thân bài: Qua miêu tả, tự sự mà biểu lộ cảm xúc, ý nghĩ một cách cụ thể,
chi tiết, sâu sắc.
Kết bài: kết đọng cảm xúc, ý nghĩ hoặc nâng lên bài học tư tưởng.
Bước 3: Hoàn thành văn bản: Đây là bước quan trọng. Trên cơ sở là dàn
bài đã xây dựng, người viết triển khai thành bài văn hoàn chỉnh. Cần lưu ý là
trong quá trình diễn đạt phải biết kết hợp với các phương thức biểu đạt khác
(miêu tả, tự sự, nghị luận); đồng thời phải biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật
đặc sắc (so sánh, nhân hoá, ẩn dụ, điệp ngữ, nói quá…). Câu văn có sự biến hoá
linh hoạt (có câu trần thuật, câu cảm, câu nghi vấn, câu cầu khiến; câu dài, câu
ngắn; có câu tỉnh lược, câu câu tồn tại…). Lời văn phải có cảm xúc với vốn từ
ngữ giàu hình ảnh, giàu sức gợi cảm.
Bước 4: Kiểm tra lại bài : Ngoài việc kiểm tra cách diễn đạt, sửa lỗi cần
phải kiểm tra lại xem văn bản đã toát lên tư tưởng, tình cảm chính chưa, hoặc đã
tạo được sự xúc động cho người đọc chưa.
1.3. Giúp học sinh nắm được cách lập ý trong văn biểu cảm:
a.Liên hệ hiện tại với tương lai: Là hình thức dùng trí tưởng tượng để liên
tưởng tới tương lai, mượn hình ảnh tương lai để khơi gợi cảm xúc về đối tượng
biểu cảm trong hiện tại. Cách biểu cảm này tạo nên mối liên hệ và tương lai.
b.Hồi tưởng quá khứ và suy nghĩ hiện tại : là hình thức liên tưởng tới
những kí ức trong quá khứ, gợi sống dậy những kỉ niệm để từ đó suy nghĩ về
hiện tại . Đây cũng là hình thức lấy quá khứ soi cho hiện tại khiến cho cảm xúc
của con người trở nên sâu lắng hơn. Cách biểu cảm này sẽ tạo nên mối liên hệ
gắn kết rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa hiện tại và quá khứ.
5
c.Tưởng tượng tình huống, hứa hẹn, mong ước: Là hình thức liên tưởng
phong phú, từ những hình ảnh thực đang hiện hữu để đặt ra các tình huống và
gửi gắm vào đó những suy nghĩ và cảm xúc về đối tượng biểu cảm cũng như
những ước mơ hi vọng. Cách biểu cảm này đòi hỏi người viết văn biểu cảm phải
có trí tưởng tượng phong phú.
d. Quan sát, suy ngẫm: Là hình thức liên tưởng dựa trên sự quan sát
những hình ảnh đang hiện hữu trước mắt để có những suy ngẫm về đối tượng
biểu cảm . Cách lập ý thường tạo nên những cảm xúc chân thực, sâu sắc.
Ví dụ : Lập ý cho đề bài :
Cây bàng già ở góc sân trường trong kí ức tuổi thơ của em.
Một số cách lập ý cho đề bài :
- Hồi tưởng qúa khứ, nhắc lại những kỉ niệm về cây bàng trong kí ức tuổi
thơ em.
- Quan sát để suy ngẫm.
- Liên hệ hiện tại và tương lai.
Từ các cách lập ý này để triển khai thành những nội dung cụ thể cho bài
văn biểu cảm.
1.4. Giúp học sinh đưa yếu tố miêu tả và tự sự trong văn biểu cảm:
A - Đối tượng biểu cảm trong một bài văn biểu cảm là cảnh vật, con
người và sự việc. Không có sự biểu cảm chung chung. Cái gì, vật gì, việc gì…
làm ta xúc động? Vì thế muốn bày tỏ tình cảm, muốn bộc lộ cảm xúc người viết
phải thông qua miêu tả và tự sự.
Ví dụ: Bài tập trang 89- SGK Ngữ văn 7- tập I:
“ …Tuổi thơ tôi đã hằn sâu trong kí ức những ngọn núi trông xa lấp lánh
như kim cương, lúc xanh mờ, khi xanh thẫm, lúc tím lơ, khi rực rỡ như núi ngọc
màu xanh. Những năm tháng xa quê, dông tố cuộc đời tưởng chừng cuốn bay tất
cả, nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông quê mênh mông vẫn cuồn cuộn
chảy, những dòng kinh biêng biếc vẫn lặng lờ trôi. Tôi yêu những cánh đồng
bao la vàng rực ngày mùa, mù mù khói rạ, thơm vị mía lùi và trắng xóa sương
mù sau tết. Yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm thẳm canh khuya. Tôi yêu ánh
6
nắng chiều tà trải màu vàng tái trên rẫy khoai mì, nghiêng nghiêng bên triền
núi.”… ( Theo Tản văn Mai Văn Tạo)
Đọc đoạn văn trên ta thấy, Mai Văn Tạo nhớ An Giang, nhớ quê mẹ là
nhớ ngọn núi, nhớ dòng sông, những cánh đồng, tiếng chuông chùa, ánh nắng
chiều tà…. Tác giả vừa miêu tả, vừa bộc lộ cảm xúc. Có thể nói, cảnh sắc An
giang được nhắc tới là xương thịt của bài văn; tình yêu, nỗi nhớ niềm tự hào quê
mẹ là linh hồn bài văn. Như vậy, để biểu cảm về quê hương An Giang, nhà văn
đã sử dụng phương thức tự sự và miêu tả.
B - Trong bài văn biểu cảm, tự sự và miêu tả chỉ là phương tiện, là yếu tố
để qua đó, người viết gửi gắm cảm xúc và ý nghĩ.
Cảm xúc, ý nghĩ là chất trữ tình của bài văn.
Ví dụ: Biểu cảm về loài cây em yêu.
Đưa yếu tố tự sự và miêu tả như thế nào khi làm đề văn trên?
- Miêu tả vẻ đẹp của cây để gợi cảm xúc của con người.
- Khi bộc lộ cảm xúc về vai trò, ý nghĩa của loài cây cần xen miêu tả và
kể kỉ niệm gắn bó với loài cây.
1.5. Giúp học sinh nắm được cách biểu cảm về tác phẩm văn học:
A Thế nào gọi là biểu cảm về tác phẩm văn học?
Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học (bài văn, bài thơ) là trình
bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, suy ngẫm của mình về nội dung và
hình thức của tác phẩm đó.
Tác phẩm văn học có thể là một bài ca dao, một bài thơ, một bài văn.
B- Các bước làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học:
B.1. Phần chuẩn bị:
- Đọc bài văn, bài thơ …một vài lần, rút ra ấn tượng ban đầu. Đọc lần nữa
để để phát hiện ra giọng điệu, chủ đề, những tư tưởng, tình cảm cao đẹp, ngôn
ngữ nghệ thuật… mà tác giả đã diễn tả rất hay, gây cho mình nhiều ấn tượng.
- Gạch chân, đánh dấu các chi tiết nghệ thuật, các hình ảnh, các câu thơ,
câu văn hay nhất mà mình yêu thích nhất.
- Làm dàn bài, dựng đoạn.
7
- Viết bài và chỉnh sửa.
B.2. Bố cục bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học:
* Phần mở đầu: Có thể giới thiệu một vài nét về tác phẩm; nêu lên ấn
tượng sâu sắc nhất, khái quát nhất của mình khi đọc, khi xem tác phẩm ấy. Mở
bài hay nhất được hai yêu cầu: Tính khái quát và tính định hướng.
* Phần thân bài: lần lượt nêu lên những cảm nghĩ của riêng mình về
những khía cạnh của tác phẩm. Không lan man dàn đều mà nên xoáy sâu vào
các trọng tâm, trọng điểm. Phải đi từ “a” qua “b,c”…. nhớ liên kết đoạn.
* Phần kết bài: Nêu lên cảm nghĩ chung, có thể đánh giá và liên hệ. Tránh
dài dòng, trùng lặp và đơn điệu.
B.3- Thao tác cơ bản:
Phát biểu cảm nghĩ không thể nói chung chung mà phải rất cụ thể, phải
chỉ ra được yêu thích, thú vị ở chỗ nào. Nghĩa là phải phân tích và trích dẫn.
Vì vậy, phân tích và trích dẫn là thao tác cơ bản nhất lúc phát biểu cảm
nghĩ.
Có lúc phải khen, chê. Khen, chê chính là phải viết lời bình. Khen, chê
trên cơ sở yếu tố nghệ thuật chứ không phải tùy tiện. Giáo viên qua các bài
giảng cụ thể, qua việc hướng dẫn đọc sách… sẽ giúp các em dần bình văn, biến
thành kĩ năng, kĩ xảo. Lúc nào viết được lời bình hay, sâu sắc thì bài phát biểu
cảm nghĩ mới thực sự mang vẻ đẹp trí tuệ.
Có lúc phải biết liên tưởng, so sánh. Từ hiện tượng này mà nghĩ, mà nhớ
đến hiện tượng văn học khác. Có thể liên tưởng, so sánh về hình ảnh, chi tiết
nghệ thuật, sử dụng từ, biện pháp tu từ, hình tượng nhân vật… trong cùng một
tác giả hoặc giữa các tác giả có mối liên hệ với nhau. Khi học sinh phát biểu
cảm nghĩ về cụm từ “ta với ta” trong bài thơ “ Qua Đèo Ngang” ( Bà huyện
Thanh Quan” thì có thể so sánh tới cụm từ “ ta với ta” trong tác phẩm “ Bạn đến
chơi nhà” ( Nguyễn Khuyến ). Hoặc phát biểu cảm nghĩ về âm thanh tiếng suối
trong bài thơ “ Cảnh khuya” ( Hồ Chí Minh) thì nên so sánh với âm thanh tiếng
suối của bài thơ “ Bài ca Côn Sơn” ( Nguyễn Trãi). Từ việc so sánh này để
người đọc thấy được cái hay của mỗi tác phẩm.
8
Viết lời bình, liên tưởng, so sánh là thao tác nên có. Với bài văn thi học
sinh giỏi phải được coi trọng thao tác bình, liên tưởng, so sánh.
2. Luyện tập về văn biểu cảm:
Để nắm vững và củng cố tri thức, kĩ năng về văn biểu cảm, không phải
chỉ biết, hiểu, học thuộc lòng mà quan trọng hơn là phải biết làm – biết thực
hành – biết sáng tạo. Chân Hy (Trung Quốc) đã từng khuyên:
“Học rộng điều gì không bằng hiểu rành điều ấy. Hiểu rành điều ấy
không bằng thực hành điều ấy”. Mặt khác chúng ta đều biết Tập làm văn là phân
môn thực hành tổng hợp – thực sự là thực hành. Việc thực hành cũng cần theo
qui trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến tổng hợp; từ việc làm dàn bài, viết ngắn
đến viết dài – thành văn hoàn chỉnh. Đối tượng biểu cảm cũng mở rộng.
Việc thực hành- luyện tập phải được thường xuyên, liên tục; phải được
kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm; phải có yêu cầu, nghiêm túc song cũng cần
phải động viên, khích lệ.
Sau đây là một số bài tập thực hành mà tôi đã thực hiện trong thời gian
qua:
2.1. Biểu cảm về một loài cây
Bài tập 1: Phát biểu cảm nghĩ về loài cây em yêu.
Giải: - Mở bài: Giới thiệu về loài hoa hoặc loài cây em yêu và giới thiệu cảm
xúc ban đầu của người viết.
- Thân bài: Phát biểu cảm nghĩ của em về loài cây, hoặc loài hoa đó.
+ Những đặc điểm gợi cảm ở cây hoặc hoa mà em thích thú.
+ Những kỉ niệm gắn bó của em với loài hoa, loài cây đó.
+Nêu ý nghĩa của loài hoa, loài cây đó trong cuộc sống của em và của mọi
người. (ngoài ra có thể nêu ý nghĩa biểu tượng của nó ).
- Kết bài : Nêu tình cảm của em về loài hoa, cây đó.
2.2. Biểu cảm về một sự vật
Bài tập 1 : Phát biểu cảm nghĩ của em về món quà tuổi thơ.
Giải :
- Mở bài : - Giới thiệu về món quà tuổi thơ.
9
- Thân bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về món quà tuổi thơ đó.
+ Những đặc điểm gợi cảm ở món quà khiến em thích thú.
+ Những kỉ niệm gắn bó của em với món quà đó.
+ Nêu ý nghĩa của món quà đó trong cuộc sống của em và của mọi người. (ngoài
ra có thể nêu ý nghĩa biểu tượng của nó ).
- Kết bài : Nêu tình cảm của em về món quà đó.
2.3: Biểu cảm về con người
Bài tập 1 : Phát biểu cảm nghĩ của em về người em thương yêu nhất.
- Mở bài : Giới thiệu người mà em yêu mến.
- Thân bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về người mà em yêu mến đó.
+ Những đặc điểm ( về hình thức và tính tình ) của người đó làm em yêu mến.
+ Những kỉ niệm yêu thương, gắn bó của em với người đó.
+ Tưởng tượng ra tình huống để bộc lộ tình cảm với người đó.
- Kết bài : Nêu tình cảm của em với người đó.
2.4. Bài tập cảm thụ ca dao, thơ
Bài tập 1: Phát biểu cảm nghĩ của em về bài ca dao sau :
Râu tôm nấu với ruột bầu.
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.
a. Tìm hiểu:
- Râu tôm, ruột bầu là 2 thứ bỏ đi.
- Bát canh ngon:Từ “ngon” có giá trị gợi cảm.
- Cảm nghĩ của em về cuộc sống nghèo về vật chất nhưng đầm ấm về tinh
thần.
b. Tập viết:
* Gợi ý: Râu tôm- ruột bầu là hai thứ bỏ đi.Thế mà ở đây hai thứ ấy được
nấu thành một bát canh “ngon” mới tuyệt và đáng nói chứ. Đó là cái ngon và cái
hạnh phúc có thực của đôi vợ chồng nghèo thương yêu nhau. Câu ca dao vừa
nói được sự khó khăn thiếu thốn cùng cực, đáng thương vừa nói được niềm vui,
niềm hạnh phúc gia đình đầm ấm, tuy bé nhỏ đơn sơ, nhưng có thực và rất đáng
10
tự hào của đôi vợ chồng nghèo khổ khi xa. Cái cảnh chồng chan, vợ húp thật
sinh động và hấp dẫn. Cái cảnh ấy còn được nói ở những bài ca dao khác cũng
rất hay :
Lấy anh thì sướng hơn vua.
Anh ra ngoài ruộng bắt cua kềnh càng.
Đem về nấu nấu, rang rang.
Chồng chan, vợ húp lại càng hơn vua.
Hai câu ở bài ca dao trên chỉ nói được cái vui khi ăn, còn bốn câu này
nói được cả một quá trình vui khá dài (từ khi bắt cua ngoài đồng đến lúc ăn
canh cua ở nhà, nhất là cái cảnh nấu nấu, rang rang).
Bài tập 2: Hãy trình bày cảm nghĩ của em về tình yêu quê hương đất nước
và nhân dân qua bài ca dao sau:
Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát.
Đứng bên tê đồng , ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông.
Thân em như chẽn lúa đòng đòng.
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
a.Tìm hiểu:
- Hình ảnh cánh đồng đẹp mênh mông, bát ngát.
- Hình ảnh cô gái.
Biện pháp so sánh: Em như chẽn lúa đòng đòng.
Phất phơ dưới ngọn nắng hồng ban mai.
b. Luyện viết:
* Gợi ý: Cái hay của bài ca dao là miêu tả được 2 cái đẹp: cái đẹp của cánh
đồng lúa và cái đẹp của cô gái thăm đồng mà không thấy ở bất kì một bài ca dao
nào khác.
Dù đứng ở vị trí nào, “đứng bên ni” hay “đứng bên tê”để ngó cánh đồng
quê nhà, vẫn cảm thấy “mênh mông bát ngát . bát ngát mênh mông”.
11
Hình ảnh cô gái thăm đồng xuất hiện giữa khung cảnh mênh mông bát ngát
của cánh đồng lúa và hình ảnh ấy hiện lên với tất cả dáng điệu trẻ trung, xinh
tươi, rạo rực, tràn đầy sức sống. Một con người năng nổ, tích cực muốn thâu
tóm, nắm bắt cảm nhận cho thật rõ tất cả cái mênh mông bát ngát của cánh đồng
lúa quê hương .
Hai câu đầu cô gái phóng tầm mắt nhìn bao quát toàn bộ cánh đồng để
chiêm ngưỡng cái mênh mông bát ngát của nó thì hai câu cuối cô gái lại tập
trung ngắm nhìn quan sát và đặc tả riêng một chẽn lúa đòng đòng và liên hệ với
bản thân một cách hồn nhiên. Hình ảnh chẽn lúa đòng đòng đang phất phơ trong
gió nhẹ dưới nắng hồng buổi mai mới đẹp làm sao!
Hình ảnh ấy tượng trưng cho cô gái đang tuổi dậy thì căng đầy sức sống.
Hình ảnh ngọn nắng thật độc đáo. Có người cho rằng đã có ngọn nắng thì cũng
phải có gốc nắng và gốc nắng là mặt trời vậy.
Bài ca dao quả là một bức tranh tuyệt đẹp và giàu ý nghĩa.
3. Bài làm của học sinh về văn biểu cảm:
Đề bài : Phát biểu cảm nghĩ của em về loài cây em yêu .
Bài làm :
Ai cũng vậy khi xa quê hương, người ta đều nhớ đến quê, nhớ đến cảnh vật
gần gũi, gắn bó với họ. Có thể là bờ tre, là con sông hay đầm sen ngát hương,
hay luỹ tre xanh rì rào. Riêng tôi, khi nói đến quê hương, hình ảnh cây đa cổ thụ
vẫn không thể phai mờ, vẫn sâu lắng trong lòng tôi thuở nào.
Tôi luôn nhớ hình ảnh cây đa ấy- một hình ảnh đồ sộ, hùng vĩ như toà lâu
đài cổ kính, nguy nga. Cành cây to như cột đình, đỉnh chót vót giữa trời xanh .
Gốc cây lớn đến nỗi chín, mười người ôm không xuể. Tôi nhớ cái dáng cao lớn
của nó. Tôi nhớ bộ rễ nổi xù xì mà nhăn nheo. Nhớ cả từng chiếc lá vàng rơi
trong chiều thu tĩnh lặng . Và tuổi thơ tôi đã in đậm những ngày hè bên gốc đa.
Đó là những buổi trèo cây bắt chim sẻ, ngồi dưới gốc đa hóng mát, kể chuyện…
Tôi cứ tưởng rằng những năm tháng theo mẹ xa quê đã cuốn những kỉ niệm xưa
vào dĩ vãng. Nhưng thời gian càng lâu thì chúng càng khắc sâu trong tâm trí,
tâm hồn tôi.
12
Cây đa ấy làm tôi thêm yêu đời, yêu người dân quê hương tôi. Nghĩ đến cây
đa lòng tôi vui khôn tả. Trong trái tim bé bỏng này, tôi luôn nghĩ về quê hương –
nghĩ về cây đa.
(Bài làm của em Nguyễn Phương Dung – học sinh lớp 7B – Trường THCS
Lê Quý Đôn)
Đề bài : Viết đoạn văn : Em hãy phát biểu cảm nghĩ của em về bức tranh
quê trong “Thiên Trường vãn vọng”(Trần Nhân Tông).
Bài làm :
Bài tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là bức tranh quê đậm nhạt, mờ
sáng rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một
tâm hồn thanh cao yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được
thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi
hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua hành trình trên
bảy trăm năm, đọc nên nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò
trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê và còn
chấp chới trong hồn ta. Tình quê và hồn quê chan hòa dào dạt.
( Bài làm của em Nguyễn Hồng Minh- học sinh lớp 7B– Trường THCS
Lê Quý Đôn )
IV. KIỂM NGHIỆM:
Qua việc vận dụng “ Các giải pháp dạy học sinh lớp 7 viết văn biểu cảm”,
tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm lớp 7 đã nâng cao. Bản thân
tôi cảm thấy tự tin, yêu nghề hơn. Còn đối với học sinh không còn bỡ ngỡ với
kiểu văn bản này. Kết quả môn Ngữ văn 7 học kì I năm học 2012-2013 đã có
nhiều bài viết tốt.
Cụ thể :
Lớp Sĩ số
Trung bình Khá Giỏi
Số lượng % Số lượng % Số lượng %
7C
(không vận
42 11 26.2 28 66.7 3 7.1
13
dụng)
7B
(vận dụng )
43 2 4.6 28 67.5 12 27.9
14
PHẦN C - KẾT LUẬN
Thật vậy, trong nhà trường không có môn nào có thể thay thế được môn
Ngữ văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách, vừa hình thành tâm hồn.
Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ văn sẽ
giữ lại tâm hồn con người, giữ lại cảm giác nhân văn để con người tìm đến con
người, trái tim hoà cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, bản thân người
dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và
học văn biểu cảm. Từ đó rất hi vọng kết quả Ngữ văn của các em tốt hơn.
Thanh Hóa, ngày 8 tháng 4 năm 2013
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
: Người viết
Nguyễn Thị Hương
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn 7- tập I.
- Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III (2004-
2007) môn Ngữ văn 7- quyển 1 và 2- NXB Giáo dục.
- Dạy học tập làm văn ở THCS – Nguyễn Trí – NXB Giáo dục.
- Văn biểu cảm trong chương trình Ngữ văn THCS – Nguyễn Trí, Nguyễn
Hoàn – NXB Giáo dục.
16
MỤC LỤC
TT NỘI DUNG TRANG
1 Đặt vấn đề 2
2 Giải quyết vấn đề 3
3 Cơ sử lý luận của vấn đề 3
4 Thực trạng viết văn biểu cảm của học sinh 3
5 Các giải pháp và tổ chức thực hiện 3
6 Củng cố những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần nắm vững khi
làm văn biểu cảm
3
7 Luyện tập về văn biểu cảm 7
8 Bài làm của học sinh về văn biểu cảm 11
9 Kiểm nghiệm 12
10 Kết luận và đề xuất 13
11 Tài liệu tham khảo 14
17
18