Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu ôn tập kinh tế vĩ mô bẫy thanh khoản và giảm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.1 KB, 10 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP KINH TẾ VĨ MÔ
CHUYÊN ĐỀ BẪY THANH KHOẢN VÀ LẠM PHÁT
Câu 1: Theo lý thuyết, nền kinh tế của một quốc gia rơi vào bẫy thanh khoản, làm thế
nào để thoát khỏi tình trạng dó?
Trả lời :
Dựa vào mô hình IS-LM có thể giải thích hiện tượng bẫy thanh khoản bằng đồ thị
trên:
- Y chính là GDP của một nền kinh tế, Y= C+I+G ( C: tiêu dùng, I : đầu tư, G: chi
tiêu chính phủ ).
- i: Interest, lãi suất
Trong thời kỳ nới lỏng chính sách tiền tệ làm cho LM di chuyển sang phải thành
LM'. Điểm cân bằng của nền kinh tế trước đây là Y*, và cũng không thay đổi khi LM
thành LM'. Hay nói cách khác, mọi nỗ lực từ nới lỏng chỉnh sách tiền tệ đều thất bại trong
việc thúc đẩy nền kinh tế.
Do đó nếu lựa chọn chính sách tài khóa mở rộng. Một sự dịch chuyển đường IS qua
IS’’, sẽ thúc đẩy nền kinh tế, Y sẽ chạy từ Y* qua Y'', mà không cần làm cho lãi suất thay
đổi.
Câu 2: Từ năm 2011 trở lại đây, tỷ lệ lạm phát có xu hướng giảm (năm 2014 là
2,8%). Tốc độ tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng trong giai đoạn này cũng
thấp, dân chúng ngại gửi tiền vào ngân hàng do lãi suất tiền gửi thấp. Giả sử bạn có
1
khả năng điều hành chính sách vĩ mô nền kinh tế Việt Nam, bạn nhận định như thế
nào về thực trạng trên và sẽ thực hiện chính sách gì để cứu vãn nền kinh tế?
Trả lời:
- Tỷ lệ lạm phát từ năm 2011 trở lại đây có xu hướng giảm mạnh, nếu tình trạng
trên còn tiếp diễn, tỷ lệ lạm phát trong những năm tới có thể âm và Việt Nam có thể rơi
vào tình trạng giảm phát, nặng hơn nữa sẽ rơi vào vẫy thanh khoản.
- Thực tế cho thấy, lãi suất tiền gửi ở Việt Nam hiện nay xuống thấp, dân chúng
có xu hướng giữ tiền mặt/ngoại tệ/vàng hơn là gửi tiết kiệm trong các ngân hàng. Các
ngân hàng hiện tại lại đang tập trung xử lý nợ xấu, nguồn vốn bị đọng trong các khoản tín
dụng không thu hồi được khá nhiều, trong khi nguồn huy động từ dân chúng lại tăng


chậm.
Do vậy, việc tiếp tục hạ lãi suất để kích thích đầu tư không mang lại hiệu quả
cao. Do vậy, chính sách tiền tệ trong tình hình hiện nay là không hiệu quả. Nếu là nhà điều
hành chính sách, cần thực hiện chính sách tài khóa thay vì chính sách tiền tệ. Cần chấp
nhận thâm hụt ngân sách, chi đầu tư chính phủ vào những dự án trọng điểm để kích cầu
nền kinh tế, đưa nền kính tế phục hồi, thoát khỏi tình trạng giảm phát.
Câu 3: Bẫy thanh khoản là gì ?Việt Nam dính “bẫy tiền” hay “bẫy thanh
khoản” ?
Trả lời:
Lãi suất danh nghĩa tiến gần tới mức bằng 0 nên khi NHTW chủ ý tăng cung tiền,
tăng thanh khoản để giảm lãi suất thực nhằm tăng tín dụng cho nền kinh tế qua đó tăng
nhu cầu đầu tư, tiêu dùng và cuối cùng là tăng GDP, mở rộng sản xuất và giảm thất
nghiệp, nhưng mục tiêu cuối cùng (GDP, việc làm) không tăng, mục tiêu trung gian (M),
số nhân tiền tệ giảm mạnh và tiền quay vào lại tài khoản NHTW. Lãi suất tiền gửi ở
NHTW quá cao trong khi lãi suất thị trường không giảm xuống mức mục tiêu, số nhân tiền
2
tệ giảm mạnh, tức là cung tiền cơ sở tăng nhưng tín dụng hay và M2 không tăng hoặc điều
chỉnh giảm.
Trong cả hai trường hợp, chính sách tiền tệ đóng vai trò kích thích nền kinh tế đều
mất tác dụng.
Bẫy thanh khoản sẽ dẫn tới suy thoái vì:
- Nếu lãi suất thấp nó sẽ làm:
(1) Giảm phát kỳ vọng làm tăng giá trị thực của các khoản nợ
(2) Khả năng trả nợ của người vay yếu đi do mức tiêu dùng và đầu tư giảm sâu hơn
(3) Ngân hàng gia tăng các khoản nợ xấu và do vậy họ phải cắt giảm tín dụng kéo
thu chu trình giảm đầu tư và tiêu dùng.
- Nếu lãi suất cao nó sẽ làm tăng việc nắm giữ các tài sản tài chính và qua đó làm tăng rủi
ro của hệ thống tài chính.
Việt Nam: Trong những tháng đầu năm 2012 các NHTM nhóm G12 hiện tại cũng
dư thanh khoản và họ cũng quay trở lại mua trái phiếu chính phủ và gửi vượt dữ trự bắt

buộc tại NHNN hay mua tín phiếu của NHNN phát hành. Tín dụng vì thế vẫn tăng trưởng
âm và gần đây nhiều lo ngại cho rằng Việt Nam đang dính bẫy thanh khoản.
Có một vài điểm khác biệt ở Việt Nam:
(1)Việt Nam trong giai đoạn vừa qua không có định hướng tăng cung tiền để tăng GDP
và việc làm mà mục tiêu chính của giai đoạn vừa qua chủ yếu là để đảm bảo thanh khoản
cho các NHTM. Do vậy không thể gọi là dính bẫy được vì thiếu yếu tố đầu tiên.
(2)Nền kinh tế các nước Phương Tây phụ thuộc chủ yếu vào tiêu dùng đặc biệt là tiêu
dùng tư nhân do năng lực sản xuất dư thừa. Người dân các nước Phương Tây chủ yếu tiêu
dùng bằng tín dụng (Tiêu dùng trước trả nợ sau), do vậy khi nền kinh tế suy thoái, nguy cơ
thất nghiệp tăng cao thì người dân tại các nước này có xu hướng phòng thủ chứ không
3
tăng tiêu dùng. Trong khi đó, vấn đề của Việt Nam phải đối mặt là các khoản đầu tư công
không hiệu quả, việc chi tiêu quá mức vào các hàng hóa xa xỉ, hàng lâu bền được trả góp
và điều này đã đẩy lạm phát tăng cao trong khi lãi suất danh nghĩa lại không tăng tương
ứng khiến lãi suất thực là số âm. Lãi suất thực âm làm cho các tài sản tài chính, tài sản
thực trở nên kém hấp dẫn khiến các nhà đầu tư chuyển sang nắm giữ các tài sản như vàng,
bất động sản, ngoại tệ mạnh. Với việc thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ thặt chặt trong
hơn 1 năm qua vừa qua đã giúp lạm phát quay trở lại mức 1 con số và lãi suất thực đã
dương trở lại. Việc lạm phát giảm là do sự cắt giảm tổng cầu: (i) Lãi suất danh nghĩa cao
đã cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả. (ii) Cắt giảm chi tiêu hàng hóa xa xỉ. (iii) Cắt giảm
hoạt động đầu cơ vào các lĩnh vực bất động sản, vàng, ngoại tệ… Vì vậy, việc tăng trưởng
giảm trong ngắn hạn do mức cầu giảm chứ không phải do tổng cung suy sụp. Như vậy, với
việc lạm phát ổn định ở mặt bằng thấp như thời gian qua và lãi suất giảm xuống thấp hơn
chỉ số ROIC thì lúc đó sức tăng trưởng sẽ bắt đầu hồi phục sẽ phục hồi trở lại khi đầu tư tư
nhân sẽ được mở rộng.
Tóm lại, các biểu hiện của nền kinh tế Việt Nam rõ ràng không phải là một quốc gia
rơi vào tình trạng bẫy thanh khoản.
Câu 4: Tại sao nói ưu tiên tiết kiệm là nguyên nhân của bẫy thanh khoản? Giải
thích?
Trả lời:

Vì Bẫy thanh khoản xảy ra trong thời kỳ suy thoái và triển vọng về kinh tế ảm đạm.
Người dân/doanh nghiệp/ngân hàng đang rất bi quan về tương lai vì vậy đề phòng rủi ro
bằng cách tăng cường tiết kiệm hơn là mang tiền ra chi tiêu, đầu tư. Sự gia tăng trong tiết
kiệm này đồng nghĩa với tiêu dùng sẽ giảm sút. Do đó ưu tiên tiết kiệm càng dẫn đến bẫy
thanh khoản.
Câu 5: Nguyên nhân dẫn đến suy kiệt tín dụng ?
Trả lời:
4
Suy kiệt tín dụng do các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, nguồn vốn để cho vay của các ngân hàng thương mại giảm mạnh và đột
ngột, khiến đường cung tín dụng dịch chuyển sang trái
- Hai là, rủi ro tín dụng tăng mạnh và sự không chắc chắn gia tăng, dẫn đến việc các
ngân hàng TMCP thận trọng quá mức khiến NHTM hoặc là điều chỉnh tăng quá cao mức
lãi suất cho vay, hoặc là thu hẹp cho vay, hoặc là thực hiện đồng thời cả hai
- Ba là, chi phí tài trợ vốn vay tăng cao đột biến khiến NHTM cũng phải điều chỉnh
tăng mạnh lãi suất cho vay tương ứng
- Bốn là sự mất cân đối cung cầu tín dụng đột ngột và không được điều chỉnh kịp
thời
Câu 6: Nguyên nhân nào đưa Nhật Bản đến cuộc suy thoái kinh tế kéo dài trên
10 năm (1990 – 2000) còn gọi là “Một thập kỷ mất mát” của Nhật Bản ?
Trả lời:
* Nguyên nhân : Tháng 9/1985, Hiệp định Plaza được ký kết tại New York giữa các nước
thành viên nhóm G-5, gồm Mỹ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Anh và Pháp. Nội
dung của hiệp định nêu trên, trước hết liên quan đến các vấn đề tỉ giá hối đoái và mục tiêu
của hiệp định là sự can thiệp của G-5 vào thị trường hối đoái để làm giảm giá đồng USD
so với đồng mác của Đức và đồng yên Nhật Bản. Trên thực tế, sau khi chấm dứt Hiệp định
Bretton Woods năm 1973, các nước G-5 đã đánh giá rằng cần phải can thiệp vào thị
trường để bình ổn các tỉ giá hối đoái và như vậy sẽ giúp được Mỹ chống lại bong bóng đầu
cơ đồng USD.
Tuy nhiên, hiệp định ký kết tại New York đã gây tai họa thực sự cho Nhật Bản bởi vì đồng

yên tăng giá đã giáng mạnh vào xuất khẩu hàng hóa, kết quả là tăng trưởng kinh tế của đất
nước Mặt Trời mọc đã tụt dốc từ 4,4% xuống còn 2,9% trong chưa đầy một năm. Nhật
Bản đã bị đẩy vào thế kẹt gọng kìm bởi nước này có thói quen gửi tín dụng ngoại tệ ở
nước ngoài chủ yếu bằng đồng USD. Năm 1986, Nhật Bản quyết định thu hồi khoản dự
trữ này về nước để tránh tổn thất thêm trong bối cảnh đồng USD tiếp tục sụt giá. Đồng
5
thời, Chính phủ Nhật Bản đã thông qua một chính sách tiền tệ dựa vào tín dụng dễ dãi, với
lãi suất giảm từ 5% xuống còn 2,5%. Nhưng bong bóng đầu cơ khổng lồ được khuyến
khích nhanh chóng bởi lãi suất thấp đã khiến chính phủ lo sợ, dẫn đến quyết định tăng lãi
suất trở lại từ 2,5% lên 6% năm 1990. Nỗ lực ngăn chặn được đưa ra quá muộn khiến
bong bóng đầu cơ nổ tung cùng với thị trường.
* Hậu quả : Trong vòng chưa đầy 3 năm, chỉ số Nikkei được đánh giá 40.000 điểm năm
1989 đã lao dốc, chỉ còn 15.000 điểm năm 1992, tức là mất giá tới hơn 63%. Lĩnh vực bị
động chạm nhiều nhất là bất động sản, xuất phát điểm của bong bóng đầu cơ, nơi ghi nhận
sự sụt giảm giá trị tới hơn 80% trong thời gian đầu và cuối những năm 1990. Con số báo
động nhất đương nhiên thuộc về tỉ lệ thất nghiệp, từ 2,1% tăng đến 4,7% quá cao ở một
đất nước như Nhật bản. Có thể đây là con số bình thường đối với nhiều nước phương Tây,
nhưng cần phải đặt mình vào văn hóa Nhật Bản, nơi có truyền thống các lao động luôn giữ
vị trí công việc cho tới khi nghỉ hưu. Cũng cần biết rằng trước đó, tỉ lệ thất nghiệp tại nước
này chưa bao giờ vượt qua ngưỡng 3%.
Sự sụt giảm các giá trị chứng khoán dẫn đến sụt giảm giá trị của chỉ số Nikkei đã khiến
các thể chế tài chính cho vay, chẳng hạn các ngân hàng, phải tìm cách thu hồi nợ và trong
điều kiện rất nhiều doanh nghiệp không đủ khả năng chi trả. Vấn đề là ở chỗ thay vì buộc
các doanh nghiệp này phải tiến hành thủ tục pháp lý để tuyên bố phá sản, các thể chế tài
chính đã chọn cách cho vay tiếp để các đối tượng này có thể trả lãi suất cho các khoản vay
trước đó. Rất khó để thoát khỏi vòng luẩn quẩn với biện pháp phản tác dụng này.
Tóm lại, Nhật Bản đã chấm dứt nhiều thập kỷ kinh tế thịnh vượng chỉ trong vòng 10 năm
mất mát. Kinh tế Nhật Bản không còn vận hành trơn tru, Chính phủ Nhật không thể tìm
được một phương thuốc hữu hiệu và người Nhật Bản đã mất niềm tin đối với giới lãnh đạo
được cho là che giấu sự thật trong cái lợi ích riêng.

Câu 7: Bằng cách nào tạo ra kỳ vọng lạm phát để giúp nền kinh tế thoát khỏi
“bẩy thanh khoản”?
Trả lời
6
Khi nền kinh tế rơi vào bẩy thanh khoản: Lãi suất danh nghĩa tiến gần hoặc thậm chí
là bằng 0%, cho nên việc tăng cung tiền không chuyển thành nguồn cho đâu tư và khi đó
chính sách tiền tệ trở nên mất tác dụng, dẫn đến tổng cầu giảm. Tổng cầu giảm làm cho
sản lượng nền kinh tế giảm theo.
Ta có hàm sản lượng: Y = C + I + G + X –M
Một trong những cách giúp nền kinh tế tăng sản lượng vượt qua bẩy thanh khoản theo Paul
Krugman là Chính phủ tạo ra kỳ vọng lạm phát bằng cách:
Phá giá đồng nội tệ: Khi phá giá đồng nội tệ thì sẽ kích thích xuất khẩu, xuất khẩu tăng
(X) dẫn đến xuất khẩu ròng (NX), dẫn đến đầu tư tăng (I), dẫn đến lãi suất tăng
(r), dẫn đến tổng cầu tăng (AD), dẫn đến sản lượng nền kinh tế tăng theo (Y), dẫn
đến đường IS dịch chuyển sang phải, nền kinh tế thoát khỏi bẩy thanh khoản.
Giảm thuế thu nhập kích thích tiêu dùng: C -> I -> r -> AD -> Y -> Đường IS
dịch chuyển sang phải, nền kinh tế thoát khỏi bẩy thanh khoản.
Ngoài ra Chính phủ còn thực hiện bằng các theo đuổi mục tiêu lạm phát, chính sách truyền
thông – cam kết chính sách và mục tiêu (ví dụ như mục tiêu lãi suất trong dài hạn.
YL: sản lượng khi xảy ra bẩy thanh khoản
Y*: sản lượng sau khi thực hiện các biện pháp tạo ra kỳ vọng lạm phát.
7
0
r*
Y*
Y
L
+l
r
LM

IS*
Y
IS
S
Câu 8: Theo thông tư số 36/2014/TT-NHNN ngày 20/11/2014 về việc quy định các
giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD , CN ngân hàng nước ngoài có
quy định NHTM được phép sử dụng 60%vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn đối với
nội tệ nhưng không đối với ngoại tệ thì không. Như vậy theo nhóm bạn thì có cần thiết áp
dụng quy định này đối với cho vay ngoại tệ không? Nếu có thì tỷ lệ áp dụng đối với cho
vay ngoại tệ là bao nhiêu
Trả lời : Không cần thiết áp dụng tỷ lệ vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn đối
với ngoại tệ vì rủi ro tỷ giá rất cao và ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối của Việt Nam.
Tương lai hình thức cho vay bằng ngoại tệ có thể chấm dứt
Câu 9: Trong phần trình bày của nhóm 6, nhóm phản biện thấy có một số nội dung
cần chỉnh lại. Cụ thể, nhóm trình bày rằng:
- Hiện nay Việt Nam có áp dụng một số chính sách thận trong như: chỉ cấp tín dụng
tối đa 80% giá trị tài sản đảm bảo → Thực tế Việt Nam vẫn cấp tín dụng không đảm bảo
bằng tài sản nếu khách hàng đáp ứng các điều kiện vay tín chấp.
- Việt Nam thực hiện chính sách thận trọng vĩ mô bằng hệ số an toàn vốn, CAR tính
bằng Tổng tài sản có/Tổng tài sản có rủi ro quy đổi → Cần chỉnh lại vì CAR tính bằng
Tổng vốn tự (tức vốn cấp 1 + vốn cấp 2)/Tài sản có rủi ro quy đổi.
Trả lời: Nhóm 6 đồng ý với ý kiến của nhóm phản biện và sẽ chỉnh lại nội dung
Câu 10: Hiện nay, một trong những chính sách thận trọng vĩ mô của Ngân hàng nhà
nước là hạn chế cho vay USD. Chỉ cho vay USD đối với những doanh nghiệp có hoạt
động xuất khẩu, có nguồn thu USD. Nhóm bạn đánh giá thế nào về chính sách thận trọng
này của ngân hàng nhà nước? Và vì sao lại chỉ quy định đối với đồng USD mà không quy
định với các ngoại tệ khác?
Trả lời:
- Việc quy định giới hạn cho vay đồng USD hiện nay của Ngân hàng nhà nước là
phù hợp với thực trạng kinh tế của Việt Nam. Nếu Ngân hàng Nhà nước không áp dụng

8
chính sách thận trọng này thì khả năng nền kinh tế Việt Nam bị đô la hóa là rất lớn. Mặt
khác Việt Nam đang là nước nhập siêu, nhu cầu USD để thanh toán hiện tại đã là rất lớn,
nếu để các doanh nghiệp vay vốn bằng USD mà không có nguồn thu để trả, cấu USD tăng
mạnh gây áp lực lên tỷ giá, ảnh hưởng đến tình hình vĩ mô nền kinh tế
- Hiện tại, đồng tiền thanh toán nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu là USD, nên Ngân
hàng nhà nước mới chỉ quy định với USD. Dần dần ngân hàng nhà nước sẽ hoàn thiện
hành lang pháp lý với các ngoại tệ khác.
Câu 11: Thực tế, mặc dù Nhà nước đưa ra các chính sách thận trọng vĩ mô như: hạn
chế cho vay không có tài sản đảm bảo, hạn chế cho vay USD với các doanh nghiệp không
có nguồn thu USD…Tuy nhiên, các doanh nghiệp, kể cả những tổ chức như các ngân hàng
thương mại vẫn thiết kế ra những sản phẩm tín dụng đặc biệt để lách các các quy định
này. Nhóm bạn đánh giá thế nào về thực trạng trên? Liệu chính sách thận trọng vĩ mô có
hiệu quả không?
Trả lời: Chính sách thận trọng vĩ mô là một khái niệm còn khá mới ở Việt Nam. Do
vậy, Nhóm nhận thấy các cơ quan nhà nước hiện nay chưa có hành lang pháp lý cụ thể để
đảm bảo chính sách vĩ mô được thực thi. Tuy nhiên, ít hay nhiều, chính sách thận trọng vĩ
mô đã đưa ra ít nhiều có hiệu quả, hạn chế rủi ro cho nền kinh tế.
Câu 12: Mối quan hệ giửa bẫy thanh khoản và giảm phát
Trả lời:
Bẫy thanh khoản dẫn tới giảm phát:
Khi nền kinh tế suy thoái, ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ bằng
việc giảm lãi suất để kích thích tiêu dùng và kích thích đầu tư tư nhân dẫn tới tăng tổng
cầu, thoát khỏi suy thoái. Tuy nhiên, việc giảm lãi suất là liên tục và xuống thấp quá mức
thì theo lý thuyết ưa chuộng tính thanh khoản (lãi suất chính là cái giá để người ta hy sinh
sự ưa chuộng tính thanh khoản của tiền mặt), mọi người sẽ giữ tiền mặt chứ không gửi vào
9
ngân hàng hay đầu tư vào các tài sản tài chính. Hậu quả là đầu tư tư nhân khó có thể được
thúc đẩy vì ngân hàng không huy động được tiền gửi thì cũng không thể nào cho xí nghiệp
vay và chứng khoán không bán được thì xí nghiệp cũng không huy động được vốn. Chính

sách tiền tệ trở nên bất lực trong việc thúc đẩy đầu tư tư nhân và do đó là bất lực trong
kích thích tổng cầu. Tổng cầu tiếp tục giảm dẫn đến giảm phát.
Giảm phát dẫn tới bẫy thanh khoản:
Giảm phát trong hầu hết các trường hợp đều xuất phát từ sự sụt giảm của tổng cầu.
Giảm phát làm tổng chi tiêu giảm dẫn đến nền kinh tế bị suy thoái. Để giải quyết vần đề
trên, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện nới rộng kinh tế để kích thích đầu tư tư nhân, kích
thích sản xuất cung ứng hàng hóa cho nền kinh tế. Một trong những biện pháp đầu tiên và
ưu tiên là giảm lãi suất để kích cầu. Tuy nhiên, khi thực hiện chính sách kích cầu bằng
việc giảm lãi suất quá nhanh và liên tục đến mức quá thấp làm cho chi phí cơ hội giữa việc
giữ tiền và gửi tiết kiệm là như nhau. Trong trường hợp này, người dân có xu hướng giữ
tiền nhiều hơn. Như vậy chính sách tiền tệ một lần nữa không thực hiện được vai trò của
mình, trong khi trông đợi của người dân là càng ngày lãi suất và giá cả càng giảm thì nhà
đầu tư tư nhân lại khó có thể tiếp cận nguồi vốn dù lãi suất đã giảm. Kết quả là nền kinh tế
lại rơi vào bẫy thanh khoản khi chính sách tiền tệ lại trở nên bất lực.
Cuối cùng cái vòng luẩn quẩn chống giảm phát lại phát sinh bẫy thanh khoản, chống
bẫy thanh khoản lại phát sinh giảm phát cứ bám lấy nền kinh tế nếu ngân hàng trung ương
cũng như những nhà hoạch định chính sách không có một biện pháp thích hợp và hữu
hiệu. Trên thế giới trong nhiều năm qua cũng đã có không ít quốc gia đã phải vất vả để
giải quyết bài toán giảm phát và bẫy thanh khoản.
10

×