Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Triết học dành cho học viên cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.39 KB, 18 trang )

1
1. Đức Phật khẳng định: “ta chỉ dạy cho các ngươi một điều: khổ và diệt khổ”. Từ triết lí
nhân sinh của Phật giáo anh/chị hãy làm rõ nhận định trên
2. Lý luận và thực tiễn của việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
3. Phân tích quan điểm của Khổng Tử về “nhân” và “chính danh”, từ đó rút ra ý nghĩa
của 2 quan niệm trên đối với vị trí công tác mà anh/chị đang đảm nhận.
4. Lý luận và thực tiễn của quá độ đi lên CNXH bỏ qua TBCN ở Việt Nam.
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự vật
duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô thường, vô
ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo Phật về vấn đề
nhân sinh quan.
1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp đầu
tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước kia đi
theo Phật.
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của các
thuyết khác trong giáo lý Phật.Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao mà
khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ toàn là
khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một cách khách
quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và cũng không làm
cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc sống. Phật chỉ cho
chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của nó và chỉ dẫn cho chúng
ta đi đến giải thoát.
2
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết nghĩa nên
mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ. Như


vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch sinh ra khổ
thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể làm cho người ta
vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không phủ nhận những cảm
giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra nhiều hình thức vui. Nhưng
những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều bao gồm trong danh từ Dukkha,
vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì những
lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa thoát khỏi
tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái Dukkha
ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu, thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
+ Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô thường
chi phối nên khổ.
+ Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn cứ
đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào da,
xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì suy yếu
đến ấy làm cho người ta phiền não.
+ Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già yếu,
thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
+ Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái thân
nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi chết thì
phiền não vô cùng.
+ Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu được
rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
3
+ Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
+ Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên mình.
+Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức

ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng kiếp.
b. Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những
nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta. Nguyên
nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
- Tham lam.
- Giận dữ.
- Si mê.
- Kiêu mạn.
- Nghi ngờ.
- Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
- Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
- Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
- Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
- Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn gốc của
mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được thể hiện
trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
4
+ Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh yêu
thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên rong ruổi
theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
+ Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô minh
che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng tâm, làm
ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta, không quan
tâm đến người sống quanh ta.

+ Nghiệp: là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của ta
cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi, thì không gây
nghiệp báo.
* Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
+Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình.
+ Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người đã
gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân duyên để
thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. Thập nhị nhân duyên là sợi dây
liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
- Vô minh: là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ
- Hành: là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái
nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có Thức ấy, là hành làm quả cho Vô minh và là
nhân cho Thức.
- Thức: là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành
và làm nhân cho Danh sắc.
5
- Danh sắc: là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta.
Do Danh sắc mà có Lục nhập, ấy là Danh sắc làm quả cho Thức và làm nhân cho
Lục nhập.
- Lục nhập hay Lục xứ: là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri
thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà
có xúc – tiếp xúc ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xác.
- Xúc: là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng
xúc, cảm giác. Do xúc mà có Thụ ấy là Xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho
Thụ.
- Thụ: là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do
thụ mà có Ái ấy là Thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho Ái.

- Ái: là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ ấy là Ái làm quả cho
Thụ và làm nhân cho Thủ.
- Thủ: là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do Thủ mà có Hữu ấy vậy mà Thủ làm quả
cho Ái và làm nhân cho Hữu.
- Hữu: là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do
Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân cho Sinh.
- Sinh: Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh.
Do sinh mà có Tử ấy là Sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Lão tử.
- Lão tử: là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng
chết – sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết
nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng Vô minh cho nên lại mang cái nghiệp vào vòng
luân hồi (khổ não).
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ nhân
quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên nhân ấy
quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái khác, như làn
sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau và cứ thế tiếp diễn.
Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên nhân từ xã hội. Đặc biệt
6
là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã hội. Luận điểm này thể hiện rõ
từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức luận Phật giáo.
c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết không
còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn khởi lên,
tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
* Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
+ Thường là thường còn, không biến đổi.
+ Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
+ Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.

+ Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một nơi
nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ sự tu
hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt:
Trạng thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận và
si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó, con
người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để chứng
được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được đề cao
là phương pháp 37 đạo phẩm.
7
Phương pháp này gồm có:
+ Tứ niệm xứ: 4 đạo phẩm.
+ Tứ chính cần: 4 đạo phẩm.
+ Tứ như ý túc: 4 đạo phẩm.
+ Ngũ cân: 5 đạo phẩm.
+ Ngũ lực: 5 đạo phẩm.
+ Bát chính đạo: 8 đạo phẩm.
+ Thất giác : 7 đạo phẩm.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường giúp
người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại, an lạc. Bát
chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.

5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những kiến chấp
mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí tuệ xuất
hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy tiêu biểu
là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một cách
chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
8
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định, tuệ hay
còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ xung cho nhau:
- Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để kiềm chế
rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh
hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo, thích hợp với
đạo, tức là luôn hướng về thiện. Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành
tại gia, tu xuất gia, cho nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu
ngày. Người tu hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ
được tất con người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định
được.
- Định học: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát sinh
những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung tư tưởng,
suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc, tạo điều kiện
cho tuệ phát ra.
- Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng, đã diệt
được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó chỉ nghĩ
đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau là Niết
Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường mê lầm tội
lỗi.
2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.

a. Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai yếu
tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể. Sắc
thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục, dị,
diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng siêu
nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh ra. Khi
9
nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con người chết.
Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ kiếp này sang
kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp trước diệt, nhưng con
người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước nhưng cũng không khác với
con người ở kiếp trước. Con người không phải là một thực thể trường tồn mà chỉ là
một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được
thực hiện. Con người gây nghiệp và tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở
kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một ý
nghĩ, lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại cổ
xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ đối
với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong
dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt cũng mặn như nhau. Mỗi người
sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu
hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình. Phật
thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt sang hèn,
giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã được các đệ tử
khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng phải tỏ lòng kính

mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn đi xa
hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như nhau và đang
cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát, không
có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị ràng buộc bởi
ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những day dứt gây ra bởi
dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao, cường quyền, tham
nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ.
10
Từ đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng
bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với
bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất
công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.
Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho chúng
sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là thủ tiêu
mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất công, áp bức,
tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ bi để chống lại.
Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực, bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi ích
cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích cuối cùng
của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về kinh
tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt tận gốc
mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con người phải tự lực
đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người phải coi sự giải thoát là

cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và cao
quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người thấm
nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội hoà bình,
an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo, độc
ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội của
những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
/>11
(xem thêm ở 2 trang
web này)
1. Những suy nghỉ về xây dựng con người Việt Nam hiện nay.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
phải có con người xã hội chủ nghĩa". Quan điểm, tư tưởng về con người và xây
dựng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn được Đảng Cộng sản Việt Nam vận
dụng trong quá trình xây dựng và phát triển con người, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, rõ
ràng và sâu sắc hơn về nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến
lược phát tiển kinh tế - xã hội, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát
triển. Bởi vì, suy cho cùng mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là
phải hướng tới phục vụ con người, giải phóng con người, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân, tạo cơ hội và điều kiện để nhân dân tham gia làm chủ vào quá
trình trình sáng tạo xã hội. Có thể khẳng định, đổi mới không thể thành công, nếu chúng
ta không tạo ra được môi trường xã hội thuận lợi để khơi dậy hoạt động sáng tạo của con
người. Tính chất và hiệu quả của sự nghiệp đổi mới phụ thuộc vào tính chất và hiệu quả
của việc giải quyết vấn đề con người.
Chính vì lẽ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn đặt công cuộc đổi mới trong mối
quan hệ với việc giải quyết vấn đề con người nói chung, trong xây dựng con người nói
riêng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH thông qua tại

Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) đã xác định vấn đề con người là một trong sáu đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Đó là “con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người tại Đại hội XI tiếp tục được
khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích
của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân chăm lo xây dựng con người
Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức
khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính”.
Với những tư tưởng, quan điểm, biện pháp xây dựng con người trong công cuộc
đổi mới, tư tưởng, đạo đức và lối sống của con người Việt Nam hiện nay đã có những
chuyển biến tích cực, quan trọng. Các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc được đề
cao, kế thừa, phát triển; đồng thời nhiều giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức mới từng
bước được hình thành. Tính năng động và tích cực của mỗi người được phát huy, sở
trường và năng lực sáng tạo cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội
ngày càng được mở rộng và phát triển.
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì sự tha hóa, lối sống xa hoa, phù phiếm, giả dối,
cá nhân, vị kỷ, vô cảm có xu hướng ngày càng phát triển, bệnh thành tích và hình thức
12
ngày càng lan rộng; đạo đức, lối sống, nhân cách của người Việt Nam nhiều nơi, nhiều lúc
đang ở mức báo động.
Từ thực trạng đó, trong thời gian tới cần phải xây dựng, phát triển con người Việt
Nam để đáp ứng sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập
quốc tế.
Trong xây dựng, phát triển con người chúng ta không thể không nghiên cứu luận
điểm nổi tiếng của C.Mác: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội.”
Quan điểm của C.Mác chỉ ra rằng: không có con người trừu tượng, thoát ly mọi

điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những
con người hiện thực. Đó là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện lịch sử
cụ thể, một thời đại cụ thể. Trong điều kiện cụ thể đó con người tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Mặt khác, tất cả các quan hệ xã hội đều góp
phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ này tổng hoà với nhau có nghĩa
là chúng có vai trò, vị trí khác nhau nhưng không tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn
nhau, thâm nhập vào nhau. Qua đó, Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: con người
vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử.
Từ quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta hoàn toàn có thể suy
luận: muốn thay đổi bản chất con người phải thay đổi các quan hệ hiện thực của nó mà cơ
bản là các quan hệ xã hội con người đang sống. Muốn xây dựng môt xã hội tiến bộ vì con
người thì phải xoá bỏ tất cả các quan hệ làm tha hoá con người, phải giải phóng con
người khỏi mọi sự tha hoá, trả lại vị trí làm chủ và sáng tạo cho con người.
Vì vậy, khi nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng con người phải đi sâu phân tích
những quan hệ kinh tế, xã hội đã làm nên con người. Mỗi con người luôn luôn bị chi
phối, quyết định bởi các quan hệ kinh tế - xã hội, đó là quan hệ kinh tế hiện thực, là quan
hệ chính trị, quan hệ đạo đức, quan hệ pháp quyền Và việc xây dựng con người, điều
có ý nghĩa quyết định là biến đổi những quan hệ kinh tế - xã hội.
Từ quan điểm trên, trong những năm tới, để xây dựng, phát triển con người Việt
Nam, theo chúng tôi cần phải giải quyết tốt các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, của dân, do dân, vì dân.
Hiện nay chúng ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó là
nhà nước được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối
cao của Hiến pháp và các luật trong đời sống xã hội; tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Trong đó, pháp luật là ý chí của nhân dân, nó định hướng mọi
công dân và tổ chức xã hội vươn tới cái chân, thiện, mỹ, vươn tới tự do đích thực của con
người. Chỉ khi có một Nhà nước như vậy mới có thể phát huy được quyền dân chủ của
nhân dân, đảm bảo quyền sống, quyền được làm việc, được lao động, được học hành,

được đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội. Nó ảnh hưởng tới sự lành mạnh của nền dân
chủ, tới cuộc sống và số phận của từng người dân, tới chiều hướng phát triển của xã hội.
13
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu tất yếu.
Chính tính hợp quy luật đó đã tạo ra địa bàn thuận lợi cho việc phát huy tính chủ động
sáng tạo của con người, phát huy nhân tố con người trong giai đoạn đổi mới vừa qua. Quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường, với cơ chế thị trường Nhà nước phải sử dụng chính
sách, pháp luật; phải có thể chế phù hợp để điều tiết có định hướng và hạn chế những
hiện tượng tiêu cực, tự phát. Đây là yêu cầu cần thiết phải làm. Đại hội XI đã khẳng định:
"Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Thứ ba, từng bước hoàn thiện và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực.
Đảng Cộng sản Việt Nam một mặt khẳng định vai trò chủ thể của con người, mặt
khác, chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải
có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực. Phương châm "dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", không phải chỉ là hoạt động của những công dân, mà
chính là hoạt động của người chủ xã hội. "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" phải
được thể chế hóa một cách cụ thể trong từng việc, từng hoạt động, cho từng đơn vị, từng
cộng đồng dân cư.
Thứ tư, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo.
Giáo dục, đào tạo nói chung, nhà trường nói riêng là nơi cung cấp những kiến thức
cơ bản nhất về cuộc sống cho mỗi người, góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển
con người. Vì vậy, Đảng ta đã coi giáo dục - đào tạo là “quốc sách hàng đầu" và đã đưa ra
các phương hướng chủ yếu để phát triển trí tuệ con người Việt Nam trên các lĩnh vực
khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo cần đầu tư cơ sở
vật chất kỹ thuật, trường lớp cho giáo dục; xây dựng chiến lược đào tạo giáo viên, cán bộ

quản lý giáo dục có phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực và lòng yêu nghề; có chính
sách hỗ trợ cho học sinh nghèo
Thứ năm, xây dựng môi trường văn hóa.
Muốn xây dựng con người có văn hóa thì phải xây dựng được môi trường văn hóa.
Xây dựng con người có văn hóa phải bắt đầu từ mỗi gia đình, đơn vị sản xuất, công tác,
học tập và cộng đồng dân cư.
Con người Việt Nam chỉ có thể có được những phẩm chất tốt đẹp nếu được sống
trong một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ mỗi gia đình. Gia đình
chính là mạch nguồn, là chiếc nôi ban đầu nuôi dưỡng và hình thành nhân cách con người
Việt Nam, theo những chuẩn mực truyền thống của giống nòi. Mỗi gia đình có trách
nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục con cái, cung cấp cho xã hội những công dân hữu ích. Gia
đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà quan trọng hơn, gia đình phải trở
thành môi trường tốt, môi trường đầu tiên để giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách
cho con người. Như vậy, việc xây dựng gia đình ấm no, thuận hoà, hạnh phúc là điều
kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế hệ sau có chất lượng cả về thể chất
14
lẫn tinh thần nhưng vẫn giữ gìn được bản sắc dân tộc, đồng thời góp phần vào việc xây
dựng, phát triển con người mới.
Xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc là môi trường xã hội đầu
tiên trong việc giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người thì xây dựng đơn
vị sản xuất, công tác, học tập là môi trường thứ hai để rèn luyện phong cách làm việc có
kỷ luật, có kỹ thuật, có năng xuất và hiệu quả. Môi trường làm việc tốt chính là điều
kiện để con người phát huy hết khả năng làm việc; là nơi để con người rèn luyện thể
hiện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả. Môi trường
làm việc tốt sẽ bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội góp phần hình thành nhân cách
con người.
Xây dựng cộng đồng dân cư (thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố) văn hóa góp phần
tăng cường "tình làng, nghĩa xóm", tương trợ giúp nhau cùng tiến bộ; tạo điều kiện cho
nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa, thực hiện tốt nếp sống văn minh, ngăn
chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo, đời sống kinh tế

ổn định và từng bước phát triển. Đây là yếu tố quan trọng, là môi trường hình thành, nuôi
dưỡng và giáo dục nhân cách con người.
Việc thực hiện tốt các vấn đề trên sẽ góp phần vào việc xây dựng, phát triển con
người Việt Nam, trong đó, mỗi người kế thừa tinh hoa trong nhân cách văn hóa Việt Nam
từ ngàn đời để xây dựng nhân cách con người Việt Nam với các giá trị văn minh mới của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ./.
2. Từ những quan điểm về con người và xây dựng con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình xây dựng và phát
triển con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm về con người mang tính
nhân văn sâu sắc. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ hiện thực cuộc
sống với những nhu cầu, lợi ích bình dị nhất. Hồ Chí Minh nhìn nhận con người có vai
trò quyết định đối với sự phát triển của xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
(1)
. Người còn
khẳng định “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”
(2)
.
Và Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng, rất cần thiết”.
Từ những quan điểm về con người và xây dựng con người trong tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình xây dựng và phát triển
con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Chính vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) đã đặt vấn đề con người là một
trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng đó là “con
người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”.
Việc xây dựng con người được Đảng ta xem xét từ nhiều khía cạnh khác nhau,

trước hết là quan tâm tới việc “Phát triển con người toàn diện, có đạo đức, trí tuệ, sức
15
khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội” trong Luật Giáo dục đã được Quốc hội thông qua ngày 11/12/1998.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã bổ sung quan điểm xây dựng con người là
“Đề cao quyền con người và quyền làm chủ của nhân dân”. Đến Đại hội X (tháng 4-
2006), Đảng ta đã đưa việc xây dựng con người vào “Chiến lược quốc gia về nâng cao
sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”.
Để nâng cao thể lực và chăm sóc sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới, Đảng ta đã
nhấn mạnh “sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội, là nhân tố quan
trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để mọi
người được quan tâm chăm sóc sức khoẻ”.
Với những nhận định trên, Đảng ta đã ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, rõ ràng và
sâu sắc hơn về nhân tố con người và đặt con người vào vị trí trung tâm của chiến lược
phát tiển kinh tế - xã hội, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển.
Bởi vì nói cho cùng mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước là phải
hướng tới phục vụ con người, giải phóng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân, tạo cơ hội và điều kiện để nhân dân tham gia làm chủ vào quá trình
trình sáng tạo, sản suất, truyền bá và hưởng thụ các thành quả chung của xã hội.
Trong báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Đảng ta đã nhận định: “Còn có biểu hiện xem
nhẹ yếu tố con người và nguồn nhân lực trong đầu tư và phát triển, vi phạm quyền làm
chủ và lợi ích chính đáng của cá nhân, chưa thấy hết trách nhiệm của gia đình, nhà
trường, xã hội đối với việc xây dựng con người. Có biểu hiện tuyệt đối hoá cá nhân, lợi
ích cá nhân, tự do cá nhân. Chậm cụ thể hoá xây dựng tiêu chí con người cho phù hợp với
từng giai tầng xã hội. Còn lúng túng trong công tác giáo dục, xây dựng con người về tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Điều kiện chăm lo nâng cao chất lượng cuộc sống của con
người (học hành, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí,…) còn nhiều hạn chế…”
(3)
. Vì

vậy, việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ mới là một trong những
chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người tại Đại hội XI (tháng 1-2011)
được khẳng định rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và
lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ
vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng
dân cư trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức
làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp
sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi
trường rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả
cao, bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền
văn hoá Việt Nam”
(4)
.
16
Từ quan điểm trên, trong những năm tới, để xây dựng, phát triển con người Việt
Nam, theo tôi cần phải làm tốt những nội dung chính và mới được thể hiện trong Văn
kiện Đại hội XI của Đảng như sau:
Thứ nhất, khẳng định con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân.
Nội dung này ở Cương lĩnh 1991 chưa được xác định. Tại Cương lĩnh 2011, nội
dung này được đặt lên hàng đầu không những là cần thiết mà còn là bức thiết, phù hợp
với thực tiễn nước ta trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập
kinh tế quốc tế và thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Thực hiện đầy đủ nội
dung của vấn đề này là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội. Đại hội XI đã khẳng định
con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển lên trước

việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với lợi ích quốc gia, dân
tộc vì con người là nguồn lực quyết định, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Trong
bất kỳ thời đại nào, con người vẫn luôn là lực lượng sản xuất cơ bản, hàng đầu của toàn
xã hội, giữ vị trí trung tâm trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Một chiến lược phát triển
xã hội chỉ thành công khi đặt trọng tâm cao nhất là con người xã hội, vấn đề này phù hợp
với ước vọng và bản chất tự nhiên (từ dân), được sự đồng thuận cao (do dân) và phải có
một mục tiêu tối thượng là phục vụ ước vọng chung của xã hội (vì dân). Một điểm mới
trong Cương lĩnh 2011 là Đảng ta một mặt khẳng định vai trò chủ thể của con người, mặt
khác chỉ rõ để con người có điều kiện phát triển toàn diện và thực sự là chủ thể, cần phải
có cơ chế thích hợp. Cơ chế đó là mở rộng dân chủ, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi
cho nhân dân phát huy tối đa quyền làm chủ. Do đó, Chiến lược phát triển xã hội Việt
Nam chỉ thành công khi người dân được tôn trọng, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân. Đây là sự đúc kết của Đảng ta trong chiến lược phát triển xã hội nói chung và
kinh tế - chính trị nói riêng.
Thứ hai, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình;
có tinh thầm quốc tế chân chính.
Tiếp tục cụ thể hoá quan điểm của Đại hội X về sự cần thiết phải “xây dựng và
hoàn thiện giá trị, nhân cách con người Việt Nam”
(5)
thời kỳ mới, tại Đại hội XI, Đảng ta
đã đưa tiêu chí con người Việt Nam giàu lòng yêu nước lên hàng đầu tiên trong các tiêu
chí, những chuẩn mực để xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bởi yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta từ ngàn xưa và đã được phát
huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, truyền thống yêu
nước của dân tộc ta ngày càng được giữ gìn, phát huy và bổ sung thêm những nội dung
mới đó là “không cam chịu đói nghèo”, là “phải xây dựng đất nước phồn vinh”, là “sánh
vai với các cường quốc năm châu” và phải có “tinh thần quốc tế chân chính”. Lịch sử
Việt Nam đã chứng minh rằng yêu nước chính là sức mạnh to lớn, là điểm tương đồng
tạo ra sự đồng thuận trong xã hội, từ đó khơi dậy và phát huy sức mạnh của người Việt

Nam ở trong nước, cũng như ở ngoài nước cùng chung sức, chung lòng phát huy tài năng
và trí tuệ xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh
17
Trong thời đại hiện nay, những hoạt động lao động sản xuất nếu không được đào
tạo mà chỉ bằng kinh nghiệm, bằng vốn sống thì năng suất lao động sẽ rất hạn chế, kém
hiệu quả. Vì vậy, con người Việt Nam trong thời đại mới phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm công dân, không ngừng học tập, trau dồi tri thức; có ý thức và năng lực làm chủ
bản thân, làm chủ xã hội. Hơn nữa, để đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao đó,
với cường độ lao động lớn, đòi hỏi mỗi người phải có ý thức rèn luyện sức khoẻ, nâng
cao thể lực đủ sức khoẻ để lao động trong môi trường cạnh tranh gây gắt.
Con người Việt Nam hiện nay ngoài các tiêu chí như: Lao động giỏi, trình độ cao,
phong cách làm việc chuyên nghiệp , còn phải coi trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức,
sống có nghĩa tình, có văn hóa, có lý tưởng. Đó là những giá trị truyền thống của dân tộc
vẫn còn nguyên giá trị và cần phải được tiếp tục phát huy, nhất là đối với thế hệ trẻ Việt
Nam, bởi vì tương lai của đất nước luôn đặt lên vai thế hệ trẻ.
Thứ ba, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, thất sự là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường trực tiếp, quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách.
Đây là nội dung mà Cương lĩnh 1991 chưa đặt ra. Tại đại hội XI, trong Cương lĩnh
2011 Đảng ta đã chính thức đưa nội dung này vào định hướng xây dựng con người Việt
Nam trong thời kỳ mới.
Như chúng ta đã biết, Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng
định gia đình là tế bào của xã hội. Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh điển, Đảng ta đã
nhận thức sâu sắc về vai trò của gia đình đối với xã hội. Muốn có một xã hội phát triển
lành mạnh thì trước hết từng “tế bào” phải phát triển bền vững. Gia đình không chỉ là tế
bào tự nhiên mà còn là một đơn vị kinh tế của xã hội. Không có gia đình tái tạo ra con
người để xây dựng xã hội thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Nhất là trong
bối cảnh hiện nay, nhiều giá trị mới được tiếp thu, nhưng nhiều giá trị truyền thống của
gia đình Việt Nam cũng đang mất đi. Tình trạng ly hôn, bạo lực gia đình gia tăng; chủ
nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, hưởng thụ có xu hướng tăng lên…Những hạn chế này

đang làm cho nhiều “tế bào” có nguy cơ rơi vào khủng hoảng, làm cho nền tảng xã hội
thiếu vững chắc. Cho nên trong Đại hội XI, Đảng ta đã có sự phát triển nhận thức mới về
gia đình, đó là: Ấm no, tiến bộ và hạnh phúc là những điều kiện cơ bản, quan trọng để gia
đình phát triển lành mạnh. Muốn có một “tế bào lành mạnh”, một “nền tảng vững chắc”
thì phải xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Đảng ta cũng nhận thức rõ rằng, con người Việt Nam chỉ có thể trang bị được
những phẩm chất tốt đẹp nếu có một môi trường xã hội tốt. Môi trường đó trước hết là từ
mỗi gia đình, mỗi tế bào của xã hội. Mỗi gia đình chịu trách nhiệm trước xã hội về sản
phẩm của gia đình mình, phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục con cái, cung cấp cho
xã hội những công dân hữu ích. Gia đình không chỉ dừng lại ở việc duy trì nòi giống, mà
quan trọng hơn gia đình phải trở thành môi trường tốt, môi trường đầu tiên để giáo dục
nếp sống, hình thành nhân cách cho con người. Như vậy, việc xây dựng gia đình ấm no,
bố mẹ thuận hoà, hạnh phúc là điều kiện, môi trường quan trọng, trực tiếp tạo nên các thế
hệ sau có chất lượng cả về thể chất lẫn tinh thần, góp phần đắc lực vào chiến lược phát
triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay.
18
Thứ tư, xây dựng đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường
rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi
đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá
Việt Nam.
Đây cũng là một nội dung mới được Đại hội XI thông qua và bổ sung vào định
hướng xây dựng con người trong Cương lĩnh 2011.
Chúng ta có thể khẳng định rằng xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc là môi trường xã hội đầu tiên trong việc giáo dục nếp sống và hình thành
nhân cách con người thì xây dựng đơn vị sản xuất, công tác, học tập chiến đấu là môi
trường thứ hai để rèn luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng xuất
và hiệu quả. Môi trường làm việc tốt chính là điều kiện để con người phát huy hết khả
năng làm việc. Môi trường làm việc tốt là một trong những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức. Thực tế cho
thấy không ít cơ quan, đơn vị, tổ chức có môi trường làm việc không tốt dẫn đến những

hậu quả có thể nhìn thấy được như: ý thức kỷ luật không cao; chất lượng, năng suất,
hiệu quả làm việc kém, mất đoàn kết…
Để xây dựng môi trường làm việc tốt thì phải có: Cơ sở vật chất đảm bảo các điều
kiện cho con người làm việc; thực hiện đúng các chế độ, chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với con người; xây dựng mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau; xây dựng một
tập thể đoàn kết, thống nhất.
Như vậy, xây dựng môi trường làm việc tốt chính là nơi để con người rèn luyện
thể hiện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả, qua đó bồi
đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội góp phần hình thành nhân cách con người và nền
văn hoá Việt Nam trong thời đại mới.
Thực hiện đầy đủ những nội dung về định hướng xây dựng con người Việt Nam
trong Cương lĩnh 2011 là góp phần vào việc xây dựng nguồn lực con người, đồng thời
cũng là để thực hiện thành công tất cả những mục tiêu về xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH vì con người là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn mới. Với tinh thần và nhận thức đó, để biến tư tưởng của Đảng thành hiện
thực, chúng ta hy vọng trong thời gian tới việc tổ chức và triển khai những quan điểm chỉ
đạo, những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược xây dựng con người sẽ được chú ý thực
hiện toàn diện và mạnh mẽ./.
Phạm Thị Tố Loan, Ban Tuyên giáo - Dân vận Đảng ủy Khối

×