Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

ĐỀ CƯƠNG VĂN 9 HK II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.26 KB, 12 trang )

ÔN ĐỀ VĂN LỚP 9 - HK II
ĐỀ 1
Câu 1.
Trong bài thơ Sang thu nhà thơ Hữu Thỉnh viết:
Bỗng nhận ra hương ổi
a. Chép tiếp các câu thơ để hoàn thành khổ thơ.
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
b. Chỉ ra và phân tích ngắn gọn các biện pháp tu từ ở trong khổ thơ em vừa chép.
. - phép nhân hóa (sương – chùng chình)
- Cảnh màn sương giăng mắc, duyên dáng như con người - tạo nên vẻ đẹp thôn dã,
gần gũi, nên thơ của khoảnh khắc giao mùa giữa hạ sang thu.
c. Trình bày những hiểu biết của em về nhà thơ Hữu Thỉnh.
Nguyễn Hữu Thỉnh sinh năm 1942, quê ở Tam Dương, Vĩnh Phúc, nhập ngũ năm
1963 trở thành cán bộ văn hóa rồi sáng tác thơ, thơ ông viết nhiều và viết hay về
cảnh sắc nông thôn.
Câu 2.
Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ Thanh Hải có thể hiện một lẽ sống. Hãy
viết một đoạn văn phân tích lẽ sống đó theo cách lập luận Tổng hợp – phân tích – tổng
hợp. Trong đoạn văn có sử dụng một câu ghép và một biện pháp liên kết câu (chỉ rõ câu
ghép và phép liên kết câu)
Bài làm
Từ cảm xúc về mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, nhà thơ chuyển sang bày tỏ những
suy ngẫm và tâm niệm về mùa xuân đất nước. Đó là khát vọng được hòa nhập vào cuộc
sống, được cống hiến phần tốt đẹp của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước.
Điều tâm niệm ấy được thể hiện một cách chân thành trong những hình ảnh tự nhiên,
giản dị và đẹp. Nhà thơ đã dùng những hình ảnh đẹp của thiên nhiên để nói lên ước
nguyện của mình : muốn “làm con chim hót”, muốn “làm một cành hoa”. . . Niềm
mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời một lẽ tự nhiên như con chim mang


đến tiếng hót, như bông hoa tỏa hương sắc, mang đến vẻ đẹp cho cuộc đời.
Đoạn thơ gợi cho ta những suy nghĩ sâu sắc về ý nghĩa cuộc sống của mỗi con người.
Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi con người biết sống, biết chăm lo cho cuộc đời chung và
có thể đóng góp những gì tốt đẹp của mình cho cuộc đời chung , cho đất nước.
Câu 3
Đọc truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê em có suy nghĩ như thế
nào về tuổi trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước?(viết không
quá hai trang giấy thi)
BÀI LÀM
Trong kháng chiến chống Mĩ, bà gia nhập thanh niên xung phong và bắt đầu viết văn
vào đầu những năm 70. Bà là cây bút nữ chuyên viết về truyện ngắn. Đề tài của các tác
phẩm của bà:Trước năm 1975, tác phẩm chủ yếu viết về cuộc sống chiến đấu của thanh
niên xung phong, bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Truyện “Những ngôi sao xa xôi
” là một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê, viết năm 1971, trong lúc
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra rất ác liệt.
Truyện kể về một tổ trinh sát nữ phá bom trên cao điểm. Họ gồm có ba người : chị
Thao, Nho và Phương Định. Công việc của họ là theo dõi việc ném bom của địch, đo
khối lượng đất lấp vào hố bom và phá những quả bom chưa nổ. Nơi họ ở rất vắng vẻ và
công việc rất vất vả, cái chết rình rập nhưng họ vẫn yêu đời lạc quan. Đặc biệt Phương
Định có một tâm hồn lãng mạn, mộng mơ, thích hát, làm điệu Một lần, theo sự phân
công của chị Thao, Định ở hang trực máy điện thoại, còn chị Thao và Nho đi trinh sát.
Định lo lắng cho các bạn nhưng rồi họ cũng về. Sau đó, ba chị em cùng đi phá những
quả bom chưa nổ. Định phá một quả bom trên đồi, Nho phá hai quả dưới lòng đường
còn chị Thao phá một quả dưới chân hầm ba-ri-e cũ. Nho bị thương trong lần phá bom
đó do hầm cô nấp bị sập. Cô được Định và Thao đưa về chăm sóc cẩn thận. Không ai
khóc trong hoàn cảnh ấy, họ cố giữ vẻ cứng cỏi để làm yên lòng đồng đội.Một cơn mưa
đá bất ngờ ập xuống, Định chạy ra nhặt những viên đá và đem vào cho Nho mấy viên.
Họ say sưa với những niềm vui thời trẻ con, và trận mưa ấy cũng đem về trong tâm trí
Định bao hình ảnh ở quê nhà. Tất cả những hình ảnh ấy đã làm nổi bật tính cách của
nhân vật Phương Định. Đó là một cô thanh niên xung phong dũng cảm, gan dạ, yêu mến

công việc và có tinh thần trách nhiệm cao. Tính cách của nhân vật Phương Định cũng là
tính cách của những cô gái thanh niên xung phong thời chống Mĩ cứu nước.
Đọc truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, ta thấy thanh niên xung
phong thời chống Mĩ cứu nước là những con người dũng cảm, sẵn sàng đương đầu với
thử thách, hi sinh vì lí tưởng. Đoàn kết, thương yêu, quan tâm chăm sóc nhau như
những thân người trong gia đình. Mặc dù hoàn cảnh sống, chiến đấu vô cùng khắc
nghiệt nhưng những nữ thanh niên xung phong vẫn giữ được tâm hồn trong sáng, trẻ
trung, yêu đời…Họ đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của của thế hệ trẻ Việt Nam thời
chống Mỹ cứu nước
ĐỀ 2
Phần I : Trắc nghiệm 10 câu (3 điểm)
Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bằng cách khoanh tròn chữ cái ở đầu câu
trả lời đúng nhất.( câu đúng là câu in đậm )
“Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa
nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày
mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại
không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn
học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lỗi học chay, học vẹt
nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn
có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không
ngừng”.
(Theo Ngữ văn 9, tập II)
1/ Đoạn văn trên chủ yếu được viết theo phương thức biểu đạt nào ?
A/ Lập luận
B/ Biểu cảm
C/ Miêu tả
D/ Tự sự
2/ Nội dung chính của đoạn văn trên là gì ?
A/ Cái mạnh trong học tập của con người Việt Nam
B/ Cái yếu trong lao động của con người Việt Nam

C/ Cái mạnh và cái yếu của con người Việt Nam
D/ Sự sáng tạo của con người Việt Nam trong lao động
3/ Câu nào sau đây nêu chủ đề của đoạn văn trên ?
A/ Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận
là sự thông minh, nhạy bén với cái mới
B/ Bản chất trời phú ấy rất có ích cho xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu.
C/ Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu
D/ Gồm A và C
4/ Theo tác giả, cái mạnh của con người Việt Nam thể hiện ở mặt nào sau đây ?
A/ Khả năng sáng tạo
B/ Khả năng thích ứng nhanh
C/ Sự thông minh nhạy bén với cái mới
D/ Khả năng vận dụng các kiến thức vào thực tế
5/ Đặc sắc nghệ thuật của đoạn văn trên là gì ?
A/ Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
B/ Nghệ thuật miêu tả sắc nét
C/ Sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng
D/ Lập luận giản dị mà chặt chẽ
6/ Câu văn “Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả
thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới”. Thuộc loại câu nào
xét về cấu tạo ?
A/ Câu đặc biệt
B/ Câu đơn
C/ Câu ghép
D/ Câu rút gọn
7/ Cụm từ những môn học “thời thượng” thuộc loại nào dưới đây ?
A/ Cụm tính từ
B/ Cụm danh từ
C/ Cụm động từ
D/ Cụm C-V

8/ Dấu ngoặc kép ở từ thời thượng có tác dụng gì ?
A/ Đánh dấu lời dẫn trực tiếp
B/ Hàm ý ca ngợi
C/ Hàm ý mỉa mai
D/ Đánh dấu phần được trích dẫn
9/ Câu “Không nhanh chóng lấp những lỗ hỏng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có
và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng”
Rút gọn thành phần nào ?
A/ Vị ngữ
B/ Chủ ngữ
C/ Phụ ngữ
D/ Trạng ngữ
10/ Cụm từ nào dưới đây không có vai trò liên kết trong đoạn văn trên ?
A/ Cái mạnh của con người Việt Nam
B/ Bản chất trời phú ấy
C/ Nhưng bên cạnh cái mạnh đó
D/ Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này
Phần II : Tự luận 7 điểm
Câu 1 :
Đoạn kết thúc một bài thơ có câu : “Trăng cứ tròn vành vạnh”
a/ Hãy chép tiếp các câu còn lại để hoàn chỉnh khổ thơ
Trăng cứ tròn vành vạnh
Kể chi người vô tình
Ánh trăng im phăng phắc
Đủ cho ta giật mình.
b/ Đoạn thơ vừa chép trích trong bài thơ nào ? của ai ?
- Nêu được tên bài thơ “Ánh trăng”
- Tên tác giả bài thơ : Nguyễn Duy
c/ Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ có ý nghĩa gì ? Từ đó em hiểu gì về chủ đề của
bài thơ ?

Giải thích được vầng trăng trong bài thơ mang rất nhiều ý nghĩa tượng trưng
+ Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thời
nhỏ tuổi, rồi thời chiến tranh ở rừng.
+ Vầng trăng là biểu tượng của quá khứ nghĩa tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình
dị, vĩnh hằng của đời sống
+ Ở khổ thơ cuối cùng, trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai
mờ, là người bạn, nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi
chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá
khứ thì luôn tràn đầy, bất diệt
 Chủ đề của bài thơ “Ánh trăng”
+ Bài thơ là tiếng lòng, là những suy ngẫm thấm thía, nhắc nhở ta về thái độ, tình
cảm đối với những năm tháng quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước,
bình dị hiền hậu
+ Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố người đọc thái độ sống “Uống nước nhớ
nguồn” ân nghĩa, thuỷ chung cùng quá khứ
Câu 2 : “……. Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nét trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc…”
(Mùa Xuân nhỏ nhỏ - Thanh Hải)
Hãy phân tích hai khổ thơ trên để làm rõ tâm nguyện cao đẹp của Thanh Hải : Muốn
được cống hiến phần tốt đẹp dù nhỏ bé của cuộc đời mình cho cuộc đời chung – cho đất
nước.
Bài làm
Thanh Hải (1930 – 1980) quê ở huyện Phong Điền, Tỉnh Thừa Thiên Huế. Bài thơ ra
đời năm 1980 trong một hoàn cảnh đặc biệt khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh, ít

lâu sau ông qua đời. Ông sinh ra, lớn lên, hoạt động cách mạng và tham gia công tác văn
nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê
hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống
của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho
đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. đã giải bày những suy ngẫm mà còn mong ước
được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt
Nam.
Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và
hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc
bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất
nước, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời”
chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh
Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước,
cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả
nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông
bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.
Đọc đoạn thơ :
“……. Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca

Một nét trầm xao xuyến
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc…”
Của bài thơ mùa xuân nho nhỏ, một cảm xúc thanh cao, trong sáng tự nhiên dâng ngập
hồn ta. Chúng ta chia sẻ niềm vui với nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và đất nước
lúc vào xuân và mỗi người hãy làm một tiếng chim, một cành hoa góp phần tô điểm cho
cuộc đời thêm đẹp. Hãy giữ cho tâm hồn mình mãi mãi thanh xuân!
ĐỀ 3
I. PHẦN TRẮC NGHIỆM ( 4 ĐIỂM )
Câu 1 : Văn bản “ Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông Ten ” đựoc viết theo kiểu văn bản nào ?
A. Nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống
B. Nghị luận xã hội
C. Nghị luận văn chương
D. Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí
Câu 2 : Văn bản “ Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông Ten ” là của tác giả nào ?
A. La Phông Ten
B. Buy Phông
C. Hi Pô Lit Ten
D. Ru Xô
Câu 3 : Hi Pô Lit Ten là :
A. Nhà thơ nổi tiếng
B. Nhà nghiên cứu văn học
C. Một triết gia
D. Một sử gia
Khoanh tròn vào câu mà em cho là không đúng
Câu 4 : Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh HảI ra đời vào thời gian nào ?
A. Cuộc kháng chiến chống Pháp
B. Cuộc kháng chiến chống Mĩ

C. Khi miền Bắc xây dựng hoà bình
D. Khi đất nước đã thống nhất
Câu 5 : Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” của Thanh Haỉ được làm theo thể thơ nào ?
A. Thể thơ 4 chữ
B. Thể thơ 5 chữ
C. Thể thơ 7 chữ
D. Thể thơ tự do
Câu 6 : Tên thật của nhà thơ Thanh Hải là :
A. Phạm ngọc Hoan
B. Phạm Bá Ngoãn
C. Hoài Thanh
D. Phạm Trí Viễn
Câu 7 : Sự sáng tao dặc sắc nhất của Thanh Hải trong bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” là :
A. Hình ảnh cành hoa
B. Hình ảnh con chim
C. Hình ảnh nốt nhạc trầm
D. Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ
Câu 8 : Xác định phép tu từ trong hai câu thơ
“ Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc ”
A. Ẩn dụ
B. Hoán dụ
C. Điệp ngữ
D. So sánh
Câu 9 : Từ “ lộc ” trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được hiểu theo nghĩa nào ?
A. Lợi lộc
B. May mắn
C. Chồi non
D. Đem mùa xuân đến cho đất nước
Câu 10 :

Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ ” là tiếng lòng tha thiết gắn bó với đất nước , với cuộc đời , là nguyện vọng
cống hiến rất khiêm nhường của tác giả vào mùa xuân lớn của dân tộc . Đúng hay sai ?
A. Đúng B. Sai
Câu 11 : Bài thơ “ Viếng lăng Bác ” được Viễn Phương viết vào năm nào ?
A. 1975
B. 1976
C. 1977
D. 1978
Câu 12 :Bài thơ được in trong tập “ Như mấy mùa xuân ” ( 1978 ) đúng hay sai ?
A. Đúng B. Sai
Câu 13 : Viễn phương tên thật là Phan Thanh Viễn . Đúng hay sai ?
A. Đúng B. Sai
Câu 14 : Giọng điệu bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương :
A. Hoành tráng
B. Buồn bã , đau khổ
C. Trang nghiêm, sâu lắng
D. Thiết tha , đau xót , tự hào
Câu 15 : Nghị luận về một nhân vật văn học là kể là toàn bộ những hoạt động của nhân vật trong tác
phẩm văn học . Đúng hay sai ?
A. Đúng B. Sai
Câu 16 : Nam ai, nam bình là điệu ca ở vùng nào ?
A. Đồng bằng Bắc bộ B. Đồng bằng Nam bộ
C. Huế D. Dân ca xứ Nghệ
II. PHẦN TỰ LUẬN (6 ĐIỂM )
Đề bài : Suy nghĩ của em về câu tục ngữ : “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây ”
Bài làm
Lòng biết ơn đối với người khác từ xưa đến nay vốn là truyền thống của dân tộc ta. Ông cha ta luôn
nhắc nhở, dạy bảo con cháu phải sống ân nghĩa thuỷ chung, đã nhận ơn của ai thì không bao giờ quên.
Truyền thống đạo đức đó được thể hiện rõ nét qua câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây".
Đây là một lời giáo huấn vô cùng sâu sắc. Khi ăn những trái cây chín mọng với hương vị ngọt ngào

ta phải nhớ tới công lao vun xới, chăm bón của người trồng nên cây ấy. Từ hình ảnh ấy, người xưa luôn
nhắc nhở chúng ta một vấn đề đạo đức sâu xa hơn: Người được hưởng thành quả lao động thì phải biết
ơn người tạo ra nó. Hay nói cách khác: Ta phải biết ơn những người mang lại cho ta cuộc sống ấm no
hạnh phúc như hôm nay.Tại sao như vậy? Bởi vì tất cả những thành quả lao động từ của cải vật chất đến
của cải tinh thần mà chúng ta đang hưởng thụ không phải tự nhiên có được. Những thành quả đó là mồ
hôi, nước mắt và cả xương máu của biết bao lớp người đã đổ xuống để tạo nên. Bát cơm ta ăn là do công
lao khó nhọc vất vả "một nắng hai sương" của người nông dân trên đồng ruộng. Tấm áo ta mặc, ngôi
nhà ta ở, cả những vật dụng hàng ngày ta tiêu dùng là do sức lao động cần cù, miệt mài của những người
thợ, những chú công nhân. Cũng như những thành tựu văn hoá nghệ thuật, những di sản của dân tộc còn
để lại cho đời sau hôm nay là do công sức, bàn tay, khối óc của những nghệ nhân lao động sáng tạo
không ngừng Còn rất nhiều, nhiều nữa những công trình vĩ đại mà ông cha ta làm nên nhằm phục vụ
cho con người. Chúng ta là lớp người đi sau, thừa hưởng những thành quả ấy, lẽ nào chúng ta lại lãng
quên, vô tâm không cần biết đến người đã tạo ra chúng ư? Một thời gian đằng đẵng sống trong những
đêm dài nô lệ, chúng ta phải hiểu rằng đã có biết bao lớp người ngã xuống quyết tâm đánh đuổi kẻ thù
để cho ta có được cuộc sống độc lập, tự do như hôm nay. Chính vì vậy, ta không thể nào được quên
những hi sinh to lớn và cao cả ấy.Có lòng biết ơn, sống ân nghĩ thuỷ chung là đạo lí làm người, đó cũng
là bổn phận, nhiêm vụ của chúng ta đối với đời. Tuy nhiên, lòng biết ơn không phải là lời nói suông mà
phải thể hiện bằng hành động cụ thể. Nhà nước ta đã có những phong trào đền ơn đáp nghĩa, xã dựng
những ngôi nhà tình nghĩa cho các bà mẹ anh hùng, các gia đình thương binh liệt sĩ. Việc đền ơn đáp
nghĩa này đã trở thành phong trào, là chính sách lan rộng trên cả nước. Đây không chỉ là sự đền đáp
công ơn đơn thuần mà nó trở thành bài học giáo dục thiết thực về đạo lí làm người của chúng ta. Cho
nên mỗi người ai ai cũng cần phải có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả đạt được ấy ngày càng
tốt đẹp hơn, có nghĩa là ta vừa là "người ăn quả" của hôm nay, vừa là "người trồng cây" cho ngày mai.
Cũng từ đó ta càng thấm thía hiểu được rằng: Cha mẹ, thầy cô cũng chính là người trồng cây, còn ta là
người ăn quả. Vì vậy ta cần phải thực hiện tốt bổn phận làm con trong gia đình, bổn phận người học trò
trong nhà trường. Làm được như vậy tức là ta đã thể hiện được lòng biết ơn sâu sắc của mình đối với
những người đã hi sinh, thương yêu, lo lắng cho ta. Đây là một việc làm không thể thiếu được ở thế hệ
trẻ hôm nay.
"Ăn quả nhớ kẻ trồng cây", câu tục ngữ giúp ta hiểu rõ về đạo lí làm người. Lòng biết ơn là
tình cảm cao quý và cần phải có trong mỗi con người. Vì vậy, chúng ta cần phải luôn trau dồi phẩm chất

cao quý đó, nhất là đối với cha mẹ, thầy cô với những ai đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ. Lòng
biết ơn mãi mãi là bài học quí báu và câu tục ngữ "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" có giá trị và tác dụng vô
cùng to lớn trong cuộc sống của chúng ta.
ĐỀ 4
Phần I: Trắc nghiệm (4 điểm, gồm 10 câu, thời gian 15 phút)
Đọc kỹ đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi bằng cách chọn câu trả lời đúng nhất, ghi chữ cái ở đầu
câu đó vào giấy làm bài (ví dụ: 1A, 2B, )
“Tôi rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than. Bông băng trắng. Vết thương không sâu lắm,
vào phần mềm. Nhưng vì bom nổ gần, Nho bị choáng. Tôi tiêm cho Nho. Nho lim dim mắt, dễ chịu, có
lẽ không đau lắm. Chị Thao luẩn quẩn bên ngoài, lúng túng như chẳng biết làm gì mà lại rất cần được
làm việc. Chị ấy sợ máu.
-Gọi điện về đơn vị nhé !”
(Ngữ Văn 9, tập 2)
1/Đoạn văn trên được trích từ tác phẩm nào?
A-Lặng lẽ Sa Pa B-Những ngôi sao xa xôi C-Cố hương D-Bến quê
2/Nhân vật “Tôi” trong đoạn trích là ai?
A-Nho B-Chị Thao C-Tác giả D-Phương Định
3/Phương thức biểu đạt chính của đoạn văn trên là gì?
A-Tự sự B-Miêu tả C-Biểu cảm D-Nghị luận
4/Có bao nhiêu câu của đoạn trích có sử dụng thành phần phụ chú?
A-Một B-Hai C-Ba D-Bốn
5/Tác giả của tác phẩm có chứa đoạn trích trên?
A-Nguyễn Quang Sáng B-Nguyễn Thành Long C-Lê Minh Khuê D-Nguyễn Minh Châu
6/Từ gạch chân trong câu “Nho lim dim mắt, dễ chịu, có lẽ không đau lắm.” là thành phần gì?
A-Khởi ngữ B-Thành phần biệt lập tình thái
C-Thành phần biệt lập phụ chú D-Thành phần biệt lập cảm thán
7/Từ “lúng túng” thuộc loại từ nào trong các từ sau?
A-Từ ghép B-Từ láy C-Từ đơn D-Từ đơn đa âm tiết
8/Câu: “ Gọi điện về đơn vị nhé!” có thành phần biệt lập nào?
A-Thành phần tình thái B-Thành phần cảm thán

C-Thành phần phụ chú D-Thành phần Gọi - Đáp
9/Nhân vật “Tôi” đã cảm nhận điều gì về chị Thao?
A-Đảm đang, tháo vát C-Lo lắng nhưng không biết hành động, xử trí như thế nào
B-Vất vả, giản dị D-Tần tảo và chịu đựng hi sinh
10/Quan hệ giữa các vế trong câu ghép “Nhưng vì bom nổ gần, Nho bị choáng” là quan hệ gì?
A-Quan hệ nguyên nhân B-Quan hệ điều kiện
C-Quan hệ tương phản D-Quan hệ nhượng bộ
Phần II: Tự luận (6 điểm, thời gian 75 phút)
Cảm nhận của em về bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương.
Bài làm
Bao giờ cũng thế, một tác phảm . đặc sắc phải bao gồm cái . đặc sắc và thành công về cả hai mặt nội
dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong, khơi mãi vẫn không hết cái ngọt
ngào, lắng sâu của tình yêu con người, vẫn không cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Bài
thơ “viếng lăng Bác” của Viễn Phươnng là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ
mang đậm chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hoà vào dòng người
viếng lăng Bác. bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận dân Nam bộ và nhân dân cả nước
dành cho Bác .
Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng . Nhà thơ xưng “con” và gọi
“Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chứa bao tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ
Chí Minh của ông. Điều đó càng cho thấy Bác là một con nguời rất hoà đồng và gần gũi. Chính vậy nhà
thơ Tố hữu có viết “Người là Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc
thái đầy xúc động. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xôi mà Bác không nguôi ngóng chờ, cho đến
những ngày trước lúc lâm chung thì trái tim người vẫn luôn huớng về miền Nam ruột thịt. Nơi đó có biết
bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy sinh vì một ngày mai nước nhà thống nhất.
Nhưng… Bác đã không chờ được đến ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn
vàn niềm thương tiếc cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao
tình cảm xúc động, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc. Và trong cái mênh mang
sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi nhân của Viễn Phươnng, ta chợt tìm thấy một
“hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái
nhà tranh âm vang lời ru của bà, của mẹ; đến với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao!

Hình ảnh nhân hoá hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt của con người
Việt Nam kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu xanh của sức sống Việt Nam,
màu xanh của hy vọng, hạnh phúc và hoà bình. Đây quả là một tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Cũng là “mặt trời” nhưng “mặt trời” ở câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên vũ trụ, ngày ngày
tỏ sáng, đem sự sống cho muôn loài, vạn vật, nó cũng có lúc quạnh quẽo, u ám. Còn “mặt trời” của nhận
dân VN. “mặt trời” trong lăng thì vẫn luôn chiếu ánh sáng vĩnh hằng, đỏ mãi. Bác chính là vầng mặt trời
hồng toả tia sáng soi rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân
ta chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã ra đi mãi mãi
nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn trường tồn, soi đường dẫn lối cho dân tộc ta
đứng lên. Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân Việt Nam, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới,
Viễn Phươnng bùi ngùi xúc động bước vào lăng :
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng lên người.
“Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín năm cống hiến, hy sinh hết
mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật, Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã
làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa. Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa
thể hiện một qui luật trình tự của dòng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên
của tạo hoá. Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vô thức bị dòng thơ cuốn và trong lăng lúc
nào không hay:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vãn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng “dịu hiền”, mát
mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này
mà Người đang ngủ đấy thôi. Lí trí thì nói Bác đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn còn sống mãi với đất nước,
với dân tộc ta như trời xanh còn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy
Bác. Bác không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự việc mà
chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế nhưng sao tim ta vẫn “đau
nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã không còn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi
các hình ảnh vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của
Bác; đồng thời thể hiện lòng tôn kíh vô hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính yêu của dân
tộc. Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc bằng chi tiết
“Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạng nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương
xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt” :
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Múon làm đóa hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con chin” để dâng lên
tiếng hót vui, “muốn là đoá hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn làm cây tre trung hiếu” canh gác chi
giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba
lần và các hình ảnh liên tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần
Bác mãi mãi.
Bằng tất cả tình cảm chan thành, Viễn Phươnng đã làm “viếng lăng Bác” trở thành một bản tình
ca bất tận để lại ấn tượng sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ hay không chỉ vì các nghệ thuật,
kĩ sảo độc đáo mà quan trọng hơn, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cái “tâm” của một nguời con yêu
nước và cái “tài” của người nghệ sĩ. Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọc lại “viếng lăng
Bác” đều đón nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời cũng
thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái tim Bác Hồ .
ĐỀ 5 phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải .
Thanh Hải (1930-1980),người con của xứ Huế mộng mơ. Ông sinh ra, lớn lên, hoạt

động cách mạng và tham gia công tác văn nghệ suốt hai thời kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ ngay chính trên quê hương ruột thịt của mình. Ở địa diểm nào, hoàn
cảnh nào ông cũng thể hiện được lẽ sống của mình. Đó là sự giản dị, chân thành, yêu
người và khát vọng dâng hiến sức mạnh cho đời như chính cuộc sống và tâm hồn ông. đã
giải bày những suy ngẫm mà còn mong ước được dâng hiến một mùa xuân nho nhỏ của
mình cho mùa xuân vĩ đại của đất nước Việt Nam.
Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, tác giả đã chuyển cảm nhận về mùa xuân
của cuộc sống, nhân dân và đất nước. Với hình ảnh “người cầm súng” và “người ra
đồng”, biểu tượng của hai nhiệm vụ: chiến đấu bảo vệ tổ quốc và lao động tăng gia để
xây dựng đất nước với những câu thơ giàu hình ảnh và mang tính gợi cảm:
“Mùa xuân người cầm súng,
Lộc giắt đầy trên lưng.
Mùa xuân người ra đồng,
Lộc trải dài nương mạ.
Tất cả như hối hả,
Tất cả như xôn xao…”
Hình ảnh mùa xuân của đất trời đọng lại trong lộc non đã theo người cầm súng và
người ra đồng, hay chính họ đã đem mùa xuân đến cho mọi miền của tổ quốc thân
yêu.Tác giả đã sử dụng biện pháp điệp từ, điệp ngữ như nhấn mạnh và kết thúc một khổ
thơ bằng dấu ba chấm. Phải chăng dấu ba chấm như còn muốn thể hiện rằng: đất nước sẽ
còn đi lên, sẽ phát triển, sẽ đến với một tầm cao mới mà không có sự dừng chân ngơi
nghỉ. Sức sống của “mùa xuân đất nước” còn được cảm nhận qua nhịp điệu hối hả, những
âm thanh xôn xao của đất nước bốn ngàn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để
vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy,
được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:
“Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước”
Đó chính là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của Thanh Hải đối với đất nước, dân tộc.

Những giọng thơ ấy rất giàu sức suy tưởng và làm say đắm lòng người.Từ cảm xúc của
thiên nhiên, đất nước, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bày tỏ suy ngẫm và
tâm niệm của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước. Mùa xuân của thiên nhiên, đất nước
thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hi vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây
chính là thời điểm mà ông nhìn lại cuộc đời và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà
cách mạng, một nhà thơ đã gắn bó trọn đời với đất nước, quê hương với một khát vọng
cân thành và tha thiết:
“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”
Lời thơ như ngân lên thành lời ca. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời”
chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai. Thanh
Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho đất nước,
cho cuộc đời, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, chân thành của tác giả
nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.
“Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông
bước vào thế giới cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ
Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca đất nước, biểu hiện
niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, đất nước, một câu chân tình
thắm thiết
”Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non ngàn dặm tình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Đọc bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, một cảm xúc thanh cao, trong sáng tự nhiên dâng
ngập hồn ta. Chúng ta chia sẻ niềm vui với nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên và đất
nước lúc vào xuân và mỗi người hãy làm một tiếng chim, một cành hoa góp phần tô điểm
cho cuộc đời thêm đẹp. Hãy giữ cho tâm hồn mình mãi mãi thanh xuân!

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×