Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

bài thảo luận Phân tích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.64 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống không có ai là có thể sống độc lập mà họ luôn phải có các mối
liên hệ với những người khác trong xã hội, trong mỗi quan hệ họ lại có những cách
ứng xử khác nhau. Từ đó mà dần dần hình thành nên những chuẩn mực của mỗi cá
nhân. Nhân rộng ra xã hội mỗi cá nhân lại có cách ứng xử riêng với từng quan hệ
xã hội, dần dần xã hội hình thành nên hệ thống các chuẩn mực xã hội. Sau đây em
xin trình bày về đề tài: “Phân tích khái niệm chuẩn mực xã hội, các đặc trưng cơ
bản của chuẩn mực xã hội? Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội
và pháp luật?”.
1
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về chuẩn mực xã hội
1. Khái niệm.
Con người chung sống với nhau tạo thành xã hội, mỗi cá nhân là một thực thế
cấu thành nên xã hội. Mỗi cá nhân đó luôn có mối liên hệ với nhau chứ không thể
sống độc lập được (ví dụ như một người bình thường thì luôn có cha mẹ, anh chị
em, bạn bè… và giữa họ và những người thân đó luôn có mối liên hệ với nhau) từ
những mối liên hệ đó mà nền tảng của xã hội được tạo nên. Trong cái cấu trúc xã
hội phức tạp đó mỗi cá nhân thường xuyên phải thực hiện các hành vi xã hội nhằm
thỏa mãn những nhu cầu hay lợi ích của mình. Ở mỗi quan hệ thì cá nhân phải có
những hành vi ứng xử khác nhau, tức họ phải tuân theo những quy tắc, yêu cầu và
những đòi hỏi của quan hệ đó. Mặc dù con người luôn có xu hướng mong muốn
thực hiện những hành vi theo ý muốn cá nhân nhưng họ luôn phải đặt mình trong
các nhóm hay xã hội nói chung. Chính vì vậy mà những hành vi mà họ thực hiện
luôn phải phù hợp với những người xung quanh hay rộng hơn là cộng đồng xã hội.
Ví dụ những hành động mà cộng đồng xung quanh luôn mong đợi ở một cá nhân
như: ăn mặc gọn gàng, lịch sự; kính trên nhường dưới; tôn trọng pháp luật; không
xả rác bừa bãi… Như vậy chính con người bằng ý chí chung của các nhóm, giai
cấp, tầng lớp… đã tạo nên một hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối với hành
vi của mỗi cá nhân hay nhóm xã hội. Đó chính là cơ sở khiến cho xã hội hình thành
và xuất hiện một hệ thống các chuẩn mực. Từ những căn cứ nêu ở trên có thể rút ra


định nghĩa về chuẩn mực xã hội như sau:
“Chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội đối với
mỗi cá nhân hay nhóm xã hội, trong đó xác định ít nhiều sự chính xác về tính chất,
mức độ, phạm vi, giới hạn của cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay
2
cái bắt buộc phải thực hiện trong hành vi xã hội của mỗi người, nhằm củng cố, đảm
bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội”.
1
∗ Nội dung của định nghĩa “chuẩn mực xã hội” nêu trên đề cập đến những điểm cơ
bản sau:
− Thứ nhất, chuẩn mực xã hội là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của xã hội,
do chính các thành viên của xã hội đặt ra nhằm định hướng cho hành vi của mỗi cá
nhân. Như vậy, nguồn gốc của chuẩn mực xã hội được hình thành từ chính nhu cầu
điều tiết các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp của con người trong đời sống
hàng ngày. Chuẩn mực xã hội đối với các thành viên trong cộng đồng được coi là
một giá trị chi phối rộng rãi và được tuân theo một cách phổ biến.
− Thứ hai, chuẩn mực xã hội không phải là một cái gì đó chung chung, trừu tượng,
mà nó luôn được xác định một cách cụ thể, rõ ràng ở mức độ ít hay nhiều về tính
chất, mức độ, phạm vi, giới hạn của những khía cạnh, chỉ báo liên quan đến hành vi
xã hội của mỗi người; bao gồm: cái có thể, cái được phép, cái không được phép hay
cái bắt buộc phải thực hiện.
“Cái có thể” là khái niệm dùng để chỉ khả năng thực hiện hay không thực hiện
một hành vi xã hội của cá nhân khi tham gia hoặc ở trong một tình huống, sự kiện
hay một quan hệ xã hội nhất định. Chẳng hạn như một người nhìn thấy một người
khác đang có nguy cơ chết đuối nếu không được cứu kịp thời. Trong tình huống
này, người phát hiện nhảy xuống hay không nhảy xuống nước cứu người bị nạn phụ
thuộc vào việc anh ta biết bơi hay không biết bơi; cùng với đó là cơ chế thúc đẩy
hành vi của anh ta đó là sự tự nguyện, tự giác của người này. Đây chính là khả năng
hành động hay không hành động.
“Cái được phép” dùng để chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà các cá nhân đã

và đang được phép thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, phù hợp với các quy tắc,
yêu cầu của chuẩn mực xã hội khi họ tham gia vào các sự kiện, quan hệ xã hội đó.
1 Trang 190-Xã hội học pháp luật, TS.Ngọ Văn Nhân; Trang 167-Tập bài giảng Xã hội học, Nxb. CAND
3
“Cái không được phép” là khái niệm chỉ tất cả những hành vi, hoạt động mà
chuẩn mực xã hội cấm các cá nhân thực hiện, vì chúng gây ra hoặc có thể gây ra
trạng thái nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến các quan hệ xã hội. Thông thường,
“cái không được phép” được nêu và quy định trong các chuẩn mực pháp luật. Ví
dụ: không được phép điều khiển xe gắn máy, ô tô lạng lách đánh võng khi tham gia
giao thông, vì hành vi này có thể đe dọa đến tính mạng, tài sản của người tham gia
giao thông khác.
“Cái bắt buộc phải thực hiện” là khái niệm chỉ những hành vi, hoạt động mỗi cá
nhân phải thực hiện, dù muốn hay không muốn khi tham gia hay đang ở trong một
tình huống, sự kiện, quan hệ xã hội nhất định. Khía cạnh này của hành vi thường
được quy định trong pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Ví dụ, theo quy định
của Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1999,
người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, tuy
có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết thì phải chịu trách
nhiệm hình sự theo Điều 102, “Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng”.
2
Trong trường hợp này, cái bắt buộc phải thực hiện
chính là phải cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.
− Thứ ba, với hệ thống các quy tắc, yêu cầu được đưa ra nhằm định hướng và điều
chỉnh hành vi xã hội của con người, chuẩn mực xã hội hướng tới thực hiện các
chức năng xã hội: giảm bớt tính hỗn tạp trong các ý kiến, quan điểm đánh giá hành
vi; gạt đi các bất đồng, mâu thuẫn trong các tranh luận; tránh được những xung đột
không cần thiết; tạo cơ sở, “khuôn mẫu” cho các quá trình hòa giải, thương lượng
giữa các cá nhân để đi đến chấp nhận “mẫu số chung” nhỏ nhất của mọi hành vi.
Trên cơ sở thực hiện các chức năng đó chuẩn mực xã hội góp phần tạo ra sự đồng

thuận, đảm bảo sự ổn định xã hội, giữ gìn và bảo vệ trật tự, kỷ cương, an toàn xã
hội.
2 Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, Điều 102,
tr.68-69
4
2. Các hình thức biểu hiện.
Chuẩn mực xã hội có những hình thức biểu hiện khác nhau tùy thuộc vào các
tiêu chí phân loại cũng như mục đích khảo sát, nghiên cứu. Thông thường, chuẩn
mực xã hội được phân loại theo hai tiêu chí sau đây:
∗ Theo tính chất phổ biến rộng rãi hay bó hẹp thì chuẩn mực xã hội được chia
thành: chuẩn mực xã hội công khai và chuẩn mực xã hội ngầm ẩn.
− Chuẩn mực xã hội công khai: là những loại chuẩn mực xã hội được phổ biến rộng
rãi, công khai trong xã hội, được đa số các thành viên trong xã hội, cộng đồng biết
đến, thừa nhận và tuân theo. Chẳng hạn, chuẩn mực pháp luật là chuẩn mực xã hội
công khai, bởi nó vừa được nhà nước xây dựng, ban hành, đảm bảo thực hiện; lại
vừa được công bố, phổ biến rộng rãi trong xã hội để mọi công dân biết, tôn trọng
và thực hiện.
− Chuẩn mực xã hội ngầm ẩn: là những loại chuẩn mực xã hội chỉ được công bố và
áp dụng trong một phạm vi hẹp, mang tính chất nội bộ hay trong những nhóm xã
hội nhất định nhằm điều chỉnh hành vi của số ít người có trách nhiệm, nghĩa vụ
phải tuân theo. “Ví dụ, luật omerta (im lặng hay là chết) lưu hành trong giới maphia
ở Italia là một loại chuẩn mực ngầm ẩn, điều chỉnh hành vi của những kẻ tội phạm
có tổ chức trong lĩnh vực buôn lậu ma túy xuyên quốc gia, bảo kê, rửa tiền, thủ
tiêu, ám sát các quan chức, chính khách… Khi bị cảnh sát bắt giữ, điều tra, khai
thác, các thành viên băng nhóm maphia buộc phải tuân thủ luật omerta, nghĩa là
hoặc im lặng, không hợp tác, khai báo với cơ quan cảnh sát; hoặc là chết bởi bàn
tay của trùm maphia do đã hợp tác và khai báo với cảnh sát”.
3
∗ Theo đặc điểm được ghi chép hay không được ghi chép lại thì chuẩn mực xã hội
được biểu hiện dưới hai hình thức là: chuẩn mực xã hội thành văn và chuẩn mực xã

hội bất thành văn.
3 Trang 193-Xã hội học pháp luật, TS.Ngọ Văn Nhân
5
− Chuẩn mực xã hội thành văn là những loại chuẩn mực xã hội mà các nguyên tắc,
quy định của chúng thường được ghi chép lại thành văn bản dưới những hình thức
nhất định.
Trong chuẩn mực xã hội thành văn có ba loại: chuẩn mực pháp luật, chuẩn mực
chính trị và chuẩn mực tôn giáo. Tính chất thành văn của chuẩn mực pháp luật thể
hiện ở những điều khoản, những quy phạm pháp luật cụ thể, được ghi chép và thể
hiện trong các bộ luật, các đạo luật hoặc các hình thức văn bản quy phạm pháp luật
khác như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình… Mỗi điều
khoản, quy phạm pháp luật đó đều thể hiện tính chất thành văn của chuẩn mực
pháp luật.
− Chuẩn mực xã hội bất thành văn cụ thể là chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong
tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ. Ví dụ, chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực
xã hội bất thành văn, thể hiện dưới hình thức là những giá trị đạo đức, những bài
học về luân thường đạo lý, phép đối nhân xử thế giữa người với người trong đời
sống xã hội. Chúng không được tập hợp, ghi chép trong một “bộ luật đạo đức” cụ
thể nào.
II. Các đặc trưng cơ bản của chuẩn mực xã hội
1. Tính tất yếu xã hội.
Các chuẩn mực xã hội có nguồn gốc từ thực tiễn đời sống xã hội; nó được hình
thành, nảy sinh từ chính nhu cầu thiết yếu của xã hội. Nguyên nhân của việc hình
thành các chuẩn mực này là do cộng đồng xã hội muốn điều chỉnh các quan hệ
trong xã hội và định hướng những hành vi của con người. Chuẩn mực xã hội được
tạo thành từ ý chí chung của các thành viên, các nhóm, các giai cấp trong xã hội
nhằm củng cố, bảo vệ hay phục vụ cho các nhu cầu, lợi ích của họ. Nội dung chuẩn
mực xã hội phản ánh bản chất bên trong của các quan hệ xã hội, nó chứa đựng
những quy tắc, yêu cầu đối với hành vi của con người. Chính vì vậy, sự xuất hiện,
tồn tại của các chuẩn mực xã hội trong đời sống đã mang lại những vai trò to lớn và

6
nó được coi như tính khách quan, tính tất yếu xã hội. Điều đó nói lên bản chất xã
hội của các chuẩn mực này; nó không chỉ thể hiện ở nguồn gốc xã hội mà còn thể
hiện ở sức sống sau đó của các chuẩn mực xã hội trong thực tiễn cuộc sống. Chẳng
hạn, chuẩn mực đạo đức nảy sinh từ quan hệ xã hội, thể hiện ra không chỉ ở các
quy tắc đạo đức, mà còn ở hành vi thực tế của con người. Chừng nào mà chuẩn
mực đạo đức không thể hiện ra trong xã hội hoặc trong một bộ phận của xã hội như
một hành vi mà việc tuân theo và thực hiện nó chỉ mang tính chất thúc đẩy thì
chuẩn mực đó không phải là chuẩn mực hành vi; nó chỉ là một cách nhìn được xem
là đúng đối với một bộ phận lớn hay nhỏ trong xã hội mà thôi.
Bên cạnh đó, các chuẩn mực xã hội còn mang tính lợi ích và tính bắt buộc thực
hiện, nghĩa là mọi thành viên của cộng đồng xã hội, dù muốn hay không muốn, đều
phải tuân theo các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội. Sự tuân thủ và thực
hiện các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội trong hành vi của mỗi người được
coi là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của người đó. Nếu đi lệch ra khỏi quỹ đạo
chung này, hành vi của họ sẽ bị coi là bất bình thường, sai lệch hay là tội ác… Khi
đó họ sẽ bị xã hội phê phán, lên án hoặc áp dụng các biện pháp trừng phạt tùy theo
tính chất, mức độ của hành vi.
2. Tính định hướng của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian và đối
tượng.
Khái niệm “định hướng” là khái niệm chủ yếu được sử dụng trong các lĩnh vực
hoạt động, trong đó có hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Trong hoạt
động quản lý, định hướng là hoạt động có căn cứ, có mục đích của chủ thể quản lý
nhằm tác động vào đối tượng quản lý, hướng sự chú ý của đối tượng tới những nội
dung, những vấn đề trọng tâm của sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống theo
mong muốn của chủ thể. Sự định hướng của chủ thể đối với một vấn đề xã hội luôn
luôn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, nó giúp cho chủ thể quản lý
nắm bắt được tình hình của một vấn đề, một sự kiện xã hội; từ đó chủ động can
7
thiệp, hướng dẫn quá trình vận động, phát triển của vấn đề, sự kiện phù hợp với lợi

ích của xã hội nói chung, của công tác quản lý nói riêng; qua đó tránh được những
“sự cố” đáng tiếc có thể xảy ra.
∗ Chuẩn mực xã hội thường được định hướng theo không gian, thời gian và đối
tượng. Điều đó có nghĩa là, tùy thuộc vào các đặc điểm, tính chất của đối tượng;
phạm vi không gian; thời điểm, giai đoạn lịch sử mà các chuẩn mực xã hội thường
được định hướng thay đổi, sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tế hoặc phù
hợp với lợi ích của nhóm đối tượng này hay nhóm đối tượng khác, của giai cấp này
hay giai cấp khác.
− Theo không gian: các chuẩn mực xã hội được xác định có thể chỉ có giá trị, hiệu
lực trong một phạm vi không gian, một khu vực địa lý nhất định; vượt ra ngoài
phạm vi không gian đó chúng sẽ không còn vai trò, tác dụng nữa. Vì vậy, cần định
hướng chuẩn mực xã hội sao cho phù hợp với các lợi ích chung của xã hội, với các
đặc điểm về lịch sử, kinh tế, văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán của từng vùng
lãnh thổ hay khu vực địa lý nhất định.
− Theo thời gian: vai trò, hiệu lực của các chuẩn mực xã hội có thể biểu hiện khác
nhau qua từng giai đoạn, thời kỳ phát triển của xã hội. Sự định hướng chuẩn mực
xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi và bám sát thực tiễn trong tiến trình phát
triển của xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết.
− Theo đối tượng: có nhiều loại chuẩn mực xã hội phản ánh lợi ích vật chất, tinh
thần của các đối tượng xã hội khác nhau. Có những chuẩn mực xã hội phổ biến, chi
phối hành vi của tất cả các thành viên trong xã hội; nhưng cũng có những chuẩn
mực xã hội đặc thù, chỉ có giá trị trong một nhóm xã hội nào đó. Sự định hướng
chuẩn mực xã hội theo đối tượng đòi hỏi phải chú ý đến lợi ích của cộng đồng hay
của các nhóm xã hội khác nhau.
3. Tính vận động, biến đổi của chuẩn mực xã hội theo không gian, thời gian, giai
cấp, dân tộc.
8
Các chuẩn mực xã hội không mang tính bất biến mà thường ở trong trạng thái
động. Chúng thường xuyên vận động, biến đổi và phát triển cùng với sự phát triển
của lịch sử xã hội loài người, của cộng đồng và của các nhóm xã hội. Trong quá

trình vận động, biến đổi đó, có những quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực xã hội sau
khi hình thành, đã phát huy được vai trò, tác dụng của chúng trong việc điều chỉnh
các quan hệ xã hội, điều chỉnh các hành vi của con người; song cùng với thời gian
trôi đi chúng lại dần trở nên lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp với thực tế xã hội
ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đó, chúng sẽ tự mất đi, bị loại bỏ hoặc được
thay thế bằng những chuẩn mực xã hội mới phù hợp hơn, tiến bộ hơn tùy theo từng
thời kì lịch sử nhất định. Như vậy, bản thân các chuẩn mực xã hội cũng vận động,
biến đổi và thay đổi, có những chuẩn mực xã hội bị lãng quên, lùi vào dĩ vãng và
có những chuẩn mực xã hội mới ra đời, bắt đầu thể hiện vai trò, tác dụng ở hiện tại
và tương lai.
Mỗi chế độ, mỗi nhà nước, mỗi nhóm xã hội lại có hệ thống các chuẩn mực xã
hội riêng của mình tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của quan hệ xã hội trong xã
hội đó và ở tại thời điểm lịch sử nhất định. Chẳng hạn, trong xã hội chiếm hữu nô
lệ, các chuẩn mực xã hội của nó hình thành xuất phát từ đặc điểm, tính chất của
mối quan hệ xã hội phổ biến, điển hình là quan hệ giữa chủ nô và nô lệ. Với đặc
điểm đó thì chuẩn mực xã hội thời kỳ này hướng tới bảo vệ, phục vụ cho lợi ích của
chủ nô, đàn áp sự phản kháng của nô lệ.
Các chuẩn mực xã hội không phải bao giờ cũng có ý nghĩa tuyệt đối, vì trong xã
hội, cộng đồng con người thường có những cá nhân không tuân theo chuẩn mực.
Có những chuẩn mực xã hội được phổ biến, tuân thủ ở một giai cấp, dân tộc này,
nhưng lại không thừa nhận ở một giai cấp hay dân tộc khác. Đồng thời, có những
chuẩn mực xã hội mà tầng lớp xã hội này phải tuân thủ trong khi tầng lớp xã hội
khác lại không phải tuân thủ. Ví dụ, mỗi cộng đồng dân tộc thường có những chuẩn
mực phong tục, tập quán riêng của mình xuất phát từ những đặc trưng về lịch sử,
9
địa lý, văn hóa và lối sống. Cho nên, phong tục, tập quán của dân tộc này có thể
không được thừa nhận ở một dân tộc khác vì nó không phù hợp với truyền thống
văn hóa, lối sống của họ.
III. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống xã hội và pháp luật
1. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với đời sống.

− Chuẩn mực xã hội được hình thành từ chính các quan hệ trong xã hội, tùy vào
tính chất của từng quan hệ mà mỗi cá nhân trong quan hệ đó phải thực hiện những
chuẩn mực nhất định. Chuẩn mực xã hội thực hiện chức năng hợp nhất quá trình
hoạt động; đóng vai trò như một hệ thống tương tác giữa cá nhân với các nhóm xã
hội. Không những thế nó còn góp phần điều tiết các quan hệ xã hội, tạo khuôn mẫu
cho hành vi của con người, duy trì sự ổn định, hài hòa trong xã hội, bảo vệ trật tự,
kỷ cương và an toàn xã hội.
− Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động quản lý các lĩnh vực
của đời sống. Nó là phương tiện định hướng, điều chỉnh các hành vi của cá nhân
trong các nhóm xã hội ở những điều kiện nhất định; đồng thời là phương tiện kiểm
tra xã hội đối với các hành vi của họ. Nhờ có các chuẩn mực xã hội mà các cá nhân
luôn phải xem xét, suy nghĩ, kiểm nghiệm trước khi thực hiện một hành vi nào đó;
qua đó góp phần ngăn chặn, phòng ngừa những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật
và tội phạm.
− Ngoài ra nhiều chuẩn mực còn được coi là những giá trị xã hội chi phối rộng rãi
và được tuân theo một cách phổ biến như: giá trị pháp luật, giá trị đạo đức, giá trị
thẩm mỹ…
2. Tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với pháp luật
Để hiểu được tác dụng của chuẩn mực xã hội đối với pháp luật ta phải xét tác
dụng của từng loại chuẩn mực đối với pháp luật. Sau đây xem xin trình bày tác
dụng của năm loại chuẩn mực xã hội tiêu biểu như: chuẩn mực chính trị, chuẩn
10
mực tôn giáo, chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong tục tập quán và chuẩn mực
thẩm mỹ.
∗ Tác dụng của chuẩn mực chính trị: pháp luật là cái phản ánh chuẩn mực này dưới
góc độ pháp luật mà nếu không có nó thì sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cầm
quyền khó có thể được chấp nhận và phục tùng trong xã hội có giai cấp. Chuẩn
mực chính trị được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng và được ghi nhận
trong Hiến pháp cũng như các đạo luật khác. Như vậy chuẩn mực chính trị là nguồn
cơ bản góp phần xây dựng và phát triển hệ thống của một quốc gia. Trong mối quan

hệ giữa quốc gia với nhau chuẩn mực chính trị còn được thể hiện trong các quy tắc
giao tiếp, ứng xử quốc tế, hiệp ước, hiệp định… như vậy trong mối quan hệ này
chuẩn mực chính trị đóng vai trò là nguồn quan trọng để hình thành và phát triển hệ
thống pháp luật quốc tế.
∗ Tác dụng của chuẩn mực tôn giáo: những chuẩn mực tôn giáo tốt đẹp, phù hợp
với thuần phong mĩ tục và các giá trị đạo đức đem lại tác dụng tích cực đối với việc
thực hiện pháp luật của công dân.
∗ Tác dụng của chuẩn mực đạo đức: cần khẳng định rằng chuẩn mực đạo đức là
nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của pháp luật. Một cá nhân khi có đạo
đức tốt thì sẽ tuân thủ tối đa các quy định của pháp luật và ngược lại khi đạo đức
tồi thì sẽ không dễ dàng để họ tuân thủ các quy định của pháp luật.
∗ Tác dụng của chuẩn mực phong tục, tập quán: phong tục, tập quán là những thói
quen đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người. Vì vậy những phong tục, tập quán tốt
đẹp, phù hợp thì việc nâng lên thành pháp luật sẽ giúp cho việc thực hiện pháp luật
dễ dàng, tự giác. Có thể thấy trong trường hợp này chuẩn mực phong tục, tập quán
đóng vai trò là nguồn quan trọng để hình thành pháp luật. Bên cạnh đó chuẩn mực
phong tục, tập quán còn thể hiện ý chí chung của cộng đồng xã hội mà đặc biệt là
khi nó trùng khớp với pháp luật thì nó sẽ có tác dụng vô cùng quan trọng trong việc
đưa pháp luật vào đời sống xã hội.
11
∗ Tác dụng của chuẩn mực thẩm mỹ: chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng điều chỉnh
hành vi thẩm mỹ của con người phù hợp với các quan niệm, quan điểm trong xã hội
về cái đẹp, cái xấu… khi pháp luật ban hành phù hợp với chuẩn mực thẩm mỹ thì
sẽ được nhân dân tự giác tuân thủ và thực hiện.
12
KẾT LUẬN
Các chuẩn mực xã hội có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống, nó không chỉ
giúp định hướng hành vi của mỗi cá nhân mà nó còn có tác dụng rất lớn để hình
thành nên các quy tắc xử sự chung để điều chỉnh xã hội như pháp luật. Chính vì
vậy việc nghiên cứu về các chuẩn mực xã hội là điều thực sự cần thiết. Qua đó có

thể phát huy được vai trò, tác dụng của chuẩn mực xã hội một cách tối đa giúp cho
Nhà nước có được những phương pháp điều chỉnh hợp lý để pháp luật được thực
thi một cách nghiêm chỉnh, tuyệt đối. Bài làm còn nhiều thiếu sót mong thầy, cô bổ
sung để bài làm được hoàn chỉnh. Em xin chân thành cảm ơn!
13

×