Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT HỌC TỐT GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 22 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
I. TÊN ĐỀ TÀI:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP MỘT
HỌC TỐT GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN
II. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Ở bậc tiểu học, môn Toán có vị trí đặc biệt quan trọng, học Toán học sinh
sẽ có cơ sở để tiếp thu và diễn đạt các môn học khác. Môn Toán thiết thực góp
phần thực hiện mục tiêu giáo dục tiểu học theo đặc trưng và khả năng của môn
Toán, cụ thể là chuẩn bị cho học sinh những tri thức, kĩ năng toán học cơ bản,
cần thiết cho việc học tập hoặc bước vào cuộc sống lao động.

Nắm vững kiến thức toán và luyện tập thành thạo các thao tác kỹ năng
tính toán các em sẽ áp dụng vào thao tác tính toán trong cuộc sống hằng ngày.
Đối với môn Toán lớp Một, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất
phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế
giới kì diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên, nhiều em trở thành anh
hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ,… trở thành những người lao động sáng
tạo trên mọi lĩnh vực lao động, đời sống,… nhưng không bao giờ các em quên
được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết các số 1, 2, 3,… học
các phép tính cộng, trừ,… vì đó là kỉ niệm đẹp nhất của đời người và hơn thế
nữa, những con số, những phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời.
Đối với mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn”, là mạch kiến thức cơ bản
xuyên suốt chương trình Toán cấp Tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các
em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kĩ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt,
trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch
kiến thức toán học, giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số
học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là
chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học
khác. Chính những yếu tố trên nên tôi đã chọn và đưa ra: Một số biện pháp giúp
học sinh lớp Một học tốt giải toán có lời văn.
Giáo viên: Phan Thị Thu 1


Sáng kiến kinh nghiệm
III. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Trong tuyến kiến thức toán ở chương trình Toán tiểu học thì tuyến kiến
thức: “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh,
và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: ngôn
ngữ nói chưa mạch lạc, nhiều học sinh đọc còn ê a, vốn từ, vốn hiểu biết, khả
năng đọc hiểu, khả năng tư duy lô - gíc của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi
bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách học, chưa học tập một cách
tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng
phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có
được phép tính như vậy.
IV. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có
lời văn. Một số em chưa có thói quen đọc kỹ đề, chưa biết tóm tắt bài toán, chưa
biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày
bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lô - gíc. Ngôn ngữ toán học càng hạn chế, kĩ
năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp,
phương pháp học toán; các em học toán và giải toán một cách máy móc, nặng về
rập khuôn, bắt chước.
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, trực quan hình ảnh, để học
tốt “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy
học để minh họa.
Mặc dù, hằng năm qua nhà trường cũng đã được cung cấp khá nhiều trang
thiết bị và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học nhưng theo thống kê
danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có
lời văn”.
Phụ huynh còn coi nhẹ kiến thức toán của lớp Một, chưa quan tâm đúng
mức đến việc hình thành các phương pháp giải cho học sinh mà chỉ hướng dẫn
một cách áp đặt, thậm chí còn giải giúp cho học sinh.
Giáo viên: Phan Thị Thu 2

Sáng kiến kinh nghiệm
V. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Chúng ta biết rằng khả năng giải toán phản ánh năng lực vận dụng kiến
thức Toán của học sinh. Giải toán có lời văn là cách giải quyết vấn đề trong môn
toán. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa về các phép tính, kèm
theo lời giải và cuối cùng ra đưa ra đáp số của bài toán. Giải toán có lời văn góp
phần củng cố kiến thức Toán, rèn luyện khả năng diễn đạt, tích cực phát triển tư
duy cho học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một. Vì thế tôi xin đưa ra một
số biện pháp sau:
1. Biện pháp 1: Nắm bắt nội dung chương trình:
Để dạy tốt môn Toán lớp Một nói chung, “Giải bài toán có lời văn” nói
riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm bắt hệ thống hóa nội dung chương
trình sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán
lớp Một thì ai mà chả dạy được. Đôi khi giáo viên đang trực tiếp giảng dạy cũng
rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Nhiều khi giáo viên
dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan
giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói: “Biết 10 dạy 1” chứ không
thể “ Biết 1 dạy 1” vì kết quả thu được sẽ không còn là một nữa.
a) Trong chương trình Toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang học
chữ nên chưa thể đưa ngay “Bài toán có lời văn”. Mặc dù đến tận tuần 21, học
sinh mới được chính thức học về “ Bài toán có lời văn” song chúng ta đã ngầm
chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài “Phép cộng trong phạm vi 3”
(Luyện tập/tr. 46) ở tuần 7.
Và nó có thể chia thành các mức độ như sau:
* Mức độ 1:
Bắt đầu từ tuần 7 đến tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ
trong phạm vi 10 đều có các dạng bài tập thuộc dạng “Nhìn tranh vẽ viết phép
tính thích hợp”, ở đây học sinh được làm quen với việc:
- Quan sát tranh vẽ.
- Tập nêu bài toán bằng lời.

- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Bài tập 5a trang 46 (SGK)
Giáo viên: Phan Thị Thu 3
Sáng kiến kinh nghiệm
- Sau khi quan sát tranh học sinh tập nêu bằng lời: “Có 1 quả bóng, thêm
2 quả bóng. Hỏi có tất cả bao nhiêu quả bóng?”, rồi học sinh tập nêu miệng bằng
lời: “Có tất cả 3 quả bóng”, sau đó viết vào dãy 5 ô trống để có phép tính đúng:

Với bài toán này khi học sinh trả lời các câu hỏi và nêu phép tính: 1 + 2 =
3 thì giáo viên hỏi ngay học sinh là em còn có phép tính nào khác nữa? Nhiều
em sẽ trả lời được là phép tính: 2 + 1 = 3
Hoặc:
* Mức độ 2:
Tiếp theo đó kể từ tuần 16, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt
rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số cùng phép tính thích
hợp vào dãy 5 ô trống để có phép tính đúng mà không nhìn vào tranh vẽ nữa.
Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn bị
cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các
bài tập “Nhìn tranh viết phép tính thích hợp” giáo viên cần phải chịu khó đặt câu
hỏi để các em trả lời miệng.
Hoặc ví dụ: Bài tập 4 trang 47
Từ bức tranh học sinh có thể nêu được đề toán: “Có 3 con chim ở trên
cành, 1 con chim nữa bay đến. Hỏi có tất cả bao nhiêu con chim?” Giáo viên hỏi
tiếp: Vậy “Có tất cả mấy con chim?” để học sinh trả lời miệng: “Có tất cả 4 con
chim”. Hoặc “Số con chim có tất cả là bao nhiêu?” (Số con chim có tất cả là 4),

Cứ như vậy học sinh sẽ quen dần với trả lời miệng và nêu lời giải bằng
miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
Giáo viên: Phan Thị Thu 4

1 + 2 = 3
2 + 1 = 3
Sáng kiến kinh nghiệm
*Mức độ 3:
Trước khi chính thức học “Giải toán có lời văn” học sinh được học bài nói
về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai phần chính là những cái đã cho
(đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). Vì khó có thể giải thích cho học sinh
“Bài toán là gì?” nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ
phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện);
+ Và cái phải tìm (câu hỏi).
Bài toán này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của “Bài toán có lời
văn”.
Ví dụ: Bài 1 trang 115 SGK Toán Một:
Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài toán: Có … bạn, có thêm … bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu
bạn?
- Giáo viên cho học sinh nêu yêu cầu của bài toán: Viết số thích hợp vào
chỗ chấm để có bài toán.
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh và trả lời câu hỏi:
+ Có bao nhiêu bạn đang đứng?
+ Có bao nhiêu bạn nữa đang đi tới?
+ Bài toán hỏi gì?
- Dựa vào phần phân tích đề toán vừa nêu giáo viên yêu cầu học sinh tự
điền các dữ kiện còn thiếu trong đề bài đã cho để có một bài toán hoàn chỉnh
“Có 1 bạn, có thêm 3 bạn đang đi tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?”.
Giáo viên chốt lại đề bài một lần nữa để học sinh nắm.
Giáo viên: Phan Thị Thu 5
Sáng kiến kinh nghiệm
Ví dụ: Bài 3 trang 116 SGK Toán Một

Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:
Bài toán: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi …………………………………?
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài toán theo các bước sau:
- Cho học sinh nêu yêu cầu của bài toán: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán.
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh và hướng dẫn học sinh phân tích đề:
+ Có mấy con gà mẹ?
+ Có mấy con gà con?
- Dựa vào phần cho đã biết giáo viên cho học sinh tự nêu câu hỏi của bài
toán “Hỏi có tất cả bao nhiêu con gà?”
Rồi cao hơn nữa sang bài 4 trang 116 SGK Toán Một các em quan sát
hình vẽ rồi điền dữ kiện vào chỗ chấm và viết tiếp câu hỏi.
Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán:
Giáo viên hướng dẫn học làm bài toán theo các bước sau:
- Cho học sinh nêu yêu cầu của bài toán: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ
chấm để có bài toán:
Giáo viên: Phan Thị Thu 6
Sáng kiến kinh nghiệm
- Yêu cầu học sinh quan sát tranh và hướng dẫn học sinh phân tích đề:
+ Trên cành có bao nhiêu con chim?
+ Có bao nhiêu con chim đang bay đến?
- Học sinh có thể tự viết tiếp các dữ kiện còn thiếu vào chỗ chấm ở phần
biết và phần hỏi của bài toán.
- Yêu cầu học sinh đọc lại đề bài hoàn chỉnh để nắm vững.
b) Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán
“thêm – bớt” thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán “thêm” thành bài toán gộp, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng,
Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu quả bóng?” (Bài 1/trang 117),
đây là dạng khá phổ biến.
Bài toán “bớt” thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: “Tổ em có 9 bạn,

trong đó có 5 bạn nữ. Hỏi tổ em có mấy bạn nam?” (Bài 2/trang 151 SGK toán
Một), dạng này ít gặp vì dạng này hơi khó đối với lớp Một (trước đây dạy ở lớp
Hai).
* Mức độ 4:
Mức độ này đòi hỏi cao hơn là các em phải biết tư duy ngược, tập phát
triển ngôn ngữ, tập ứng dụng kiến thức vào các tình huống thực tiễn.
- Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải theo quy
định thống nhất từ lớp Một đến lớp Năm:
+ Câu lời giải.
+ Phép tính giải.
+ Đáp số.
Giáo viên: Phan Thị Thu 7
Sáng kiến kinh nghiệm
Ví dụ: Bài toán trang 117 SGK Toán Một
Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy
con gà?
Đối với bài này học sinh lớp Một cũ chỉ cần giải bài toán trên như sau:
Bài giải:
5 + 4 = 9 (con gà)
Nhưng đối với học sinh hiện nay các em phải trình bày bài giải đầy đủ các
bước theo quy định thống nhất trên.
Bài giải:
Gà nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà.
Chính vì thế giáo viên cần lưu ý cho học sinh phải nắm vững đề toán
thông qua việc tóm tắt đề toán. Biết tóm tắt đề toán là yêu cầu đầu tiên để giải
bài toán có lời văn. Phần tóm tắt cần được rèn luyện kĩ để học sinh nắm được
bài toán đầy đủ, chính xác.
- Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt để dành thời gian

cho học sinh viết câu lời giải. Chẳng hạn, trước đây trong một tiết “Bài toán
nhiều hơn” học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4 bài luyện tập), thì bây giờ
trong tiết “Giải toán có lời văn (thêm)” học sinh phải giải 4 bài (1 bài mẫu, 3 bài
luyện tập).
- Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi “Giải
bài toán có lời văn”, chương trình toán Một đã có những giải pháp như:
+ Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như: thuyền,
quyển, Quỳnh,… mà tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc, dễ viết như: quả
cam, con gà, Lan,… trong các đề toán.
+ Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa một
chút xíu thôi là được ngay câu lời giải.
+ Cài sẵn “cốt câu” lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt
mà viết câu lời giải.
Giáo viên: Phan Thị Thu 8
Sáng kiến kinh nghiệm
- Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời
giải khác nhau chứ không phải theo mẫu. Chẳng hạn, với bài toán: “An có 4 quả
bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?” (bài 1 trang 117
SGK Toán Một.
Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách:
+ Cả hai bạn có:
+ Hai bạn có:
+ Có tất cả:
+ An và Bình có:
+ Số quả bóng có tất cả là:
2. Biện pháp 2: Sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học:
Nhìn chung ta đã biết con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: “Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực
tiễn”. Đồ dùng phương tiện dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu
hình cực kì cần thiết khi dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một. Cũng

như trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để
hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không có hiệu quả và
sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ thiết bị, tranh ảnh, vật thật để minh
họa. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử đồ dùng thiết bị dạy học để dạy học sinh
“Giải bài toán có lời văn”.
Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến các lớp đã khá nhiều nhưng thực sự vẫn
chưa đủ, đặc biệt là đối với dạy “Giải toán có lời văn” thì về đồ dùng tranh ảnh
chưa có một cái nào cả. Vì vậy giáo viên cần sưu tầm thêm vật thật, tranh ảnh,
làm đồ dùng chung trong tổ khối và dùng riêng cho từng lớp.
Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng
sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và khi dạy “Giải toán có lời
văn” nói riêng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử
dụng đồ dùng dạy học trước khi lên lớp.
Giáo viên: Phan Thị Thu 9
Sáng kiến kinh nghiệm
3. Biện pháp 3: Dạy “Giải bài toán có lời văn” ở lớp Một:
a) Quy trình: “Giải bài toán có lời văn” ở lớp Một:
Để giúp học sinh có một phương pháp giải chính xác, trình bày bài toán
đúng theo yêu cầu, khi dạy học sinh giải toán có lời văn giáo viên hướng dẫn
học sinh thực hiện các bước sau:
+ Đọc và tìm hiểu đề toán: Đề toán cho biết những gì? Yêu cầu làm gì?
+ Tóm tắt đề toán.
+ Tìm đường lối giải bài toán.
+ Trình bày bài giải.
+ Kiểm tra lại bài giải.
a.1) Đọc và tìm hiểu đề toán:
Muốn học sinh hiểu và giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là
phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho
các em đọc kĩ đề toán, hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như “thêm, và, tất cả,
…” hoặc “bớt, bay đi, cho, bán, trong đó, còn lại,…”. Giáo viên nên kết hợp cho

học sinh quan sát tranh vẽ để hỗ trợ thêm cho các em hiểu đề. Để học sinh dễ
hiểu đề bài, khi hướng dẫn tìm hiểu đề giáo viên nên gạch chân dưới các từ ngữ
chính trong đề bài và nên dùng phấn màu khác để cho dễ nhìn.
Trong thời kì đầu, giáo viên giúp học sinh tóm tắt bằng cách đàm thoại
“Bài toán cho biết gì? Yêu cầu tìm gì?” Và dựa vào câu trả lời của học sinh để
viết tóm tắt, sau đó cho học dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất
tốt để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán. Nếu học sinh còn gặp khó khăn khi đọc
đề toán thì giáo viên nên cho các em quan sát theo tranh và trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Bài 3 trang 118, SGK Toán Một:
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh rồi có thể hỏi:
- Em thấy ở dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? (Trên bờ có 4 con vịt)
- Em có bài toán như thế nào?
Sau đó mới cho học sinh đọc đề toán ở sách giáo khoa:
“Đàn vịt có 5 con ở dưới ao và 4 con ở trên bờ. Hỏi đàn vịt có tất cả mấy
con?”
Giáo viên: Phan Thị Thu 10
Sáng kiến kinh nghiệm
Trong trường hợp không có tranh giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt,…)
lên bảng từ (bảng cài,…) để thay thế tranh. Hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ
đồ đoạn thẳng để hỗ trợ cho học sinh đọc đề toán.
* Thông thường có một số cách tóm tắt sau:
Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ 1: Bài 3/trang 118
Dưới ao : 5 con vịt
Trên bờ : 4 con vịt
Có tất cả : … con vịt?
Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ 2: Bài 3 trang 151 SGK Toán Một
Một sợi dây dài 13 cm, đã cắt đi 2 cm. Hỏi sợi dây còn lại dài bao nhiêu

xăng – ti – mét?
? cm 2 cm
13 cm
Có thể lồng “cốt câu” lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ
viết câu lời giải hơn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt học sinh có thể viết ngay
câu lời giải là: “Có tất cả là:” hoặc: “Số vịt có tất cả là:”.
Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu ? (dấu chấm hỏi) lên trước
các từ chỉ đơn vị như ? bạn, ? con vịt,… Song như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực
về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt ở cuối câu hỏi.
Nếu tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng
trước các từ như vậy cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy
nhiên học sinh cũng thường có thói quen cứ thấy dấu … ở đâu các em lại điền
số (dấu) vào ngay đó. Nên khi tóm tắt giáo viên cần lưu ý cho học sinh là ở đây
dấu … thay cho từ “mấy” hoặc “bao nhiêu”; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để
ghi vào kết quả và đáp số của bài giải chứ không phải ghi vào chỗ … trong phần
tóm tắt.
Giáo viên: Phan Thị Thu 11
Sáng kiến kinh nghiệm
a.2) Tìm đường lối giải bài toán:
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm, chẳng hạn: Bài toán trang 117 SGK Toán Một
Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy
con gà?
Giáo viên gợi ý cùng học sinh phân tích đề:
+ Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
+ Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: “Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính
gì? (Tính cộng). Mấy cộng mấy? ( 5 + 4), 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9). Giáo
viên hỏi tiếp: Em nào có phép tính khác bạn? (4 + 5 = 9), vì sao em có phép tính

đó? (Vì trong phép cộng khi đổi vị trí các số thì kết quả không thay đổi.) Tới đây
giáo viên hỏi: 9 này là 9 cái gì? “9 con gà”, nên ta viết “con gà” vào trong ngoặc
đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra
kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác
nhận kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: “Em tính thế nào?” (5 + 4 = 9). Sau đó
nhấn mạnh: “Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (ở đây
là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán”.
* Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn
học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép
tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp Một, lần đầu tiên được làm quen với
cách giải toán có lời văn nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời giải, vì sao
phải viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp Một hiểu một cách
thấu đáo nên có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Đặc
biệt theo quy chế chuyên môn lâu nay câu lời giải đóng một vai trò cực kì quan
trọng trong “giải toán có lời văn”, bất kì bài thi, bài kiểm tra nào cũng quy định:
Lời giải sai, phép tính và kết quả có đúng cũng xem như sai toàn bộ, ngược lại
lời giải đúng, phép tính sai các em vẫn có một phần số điểm. Chính vì vậy mà
việc hướng dẫn cho các em tập có lời giải đúng là một việc làm vô cùng cần
thiết. Có thể dùng một trong các cách sau:
Giáo viên: Phan Thị Thu 12
Sáng kiến kinh nghiệm
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (hỏi) và các từ
cuối (mấy con gà?) để có câu lời giải: “Nhà An có tất cả:” hoặc thêm từ “là” để
có câu lời giải: “Nhà An có tất cả là:”.
Cách 2: Đa từ: “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và
thêm từ “Số” ở đầu câu, bỏ chữ “mấy” ở cuối câu thay thế vào đó là chữ “là”:
“Số con gà nhà An có tất cả là:”.
Cách 3: Dựa vào dòng cuối của phần tóm tắt, coi đó là “từ khóa” của câu
lời giải rồi thêm chắt chút ít:

Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: “Có tất cả : … con gà?”. Học sinh viết
câu lời giải: “Có tất cả là”; “Số con gà có tất cả là”; “Con gà nhà An có tất cả
là:”,…
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?”
để học sinh trả lời miệng: “Nhà An có tất cả 9 con gà” rồi chèn phép tính vào để
có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính)
Cách 5: Sau khi đã tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ cần chỉ vào
số 9 và hỏi: “9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?” (là số gà nhà An có tất cả). Từ
câu trả lời của học sinh, giáo viên giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: “Số
gà nhà An có tất cả là:”…, ở đây giáo viên nên tạo điều kiện cho các em nêu
nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó cùng thống nhất đến câu lời giải đúng chứ
không nên bắt buộc học sinh phải viết theo một kiểu.
a.3) Trình bày bài giải:
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy.
Thực tế hiện nay các em học sinh lớp Một trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể
cả học sinh khá, giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải
một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con
hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải:
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 (con gà)
Đáp số: 9 con gà
Nếu lời giải ghi: “Số gà nhà An là:” thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9
(con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ “gà”). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm
mà lại gặp phải các từ khó như “thuyền, quyển, ” thì có thể lược bớt danh từ
cho nhanh.
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ “con gà” lại được đặt trong dấu
ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể
bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết: “5 + 4 = 9 con gà” là sai. Nói cách khác,
nếu vẫn muốn đọc kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: “5 con

gà + 4 con gà = 9 con gà”. Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ như
vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với
học sinh lớp Một. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Giáo viên: Phan Thị Thu 13
Sáng kiến kinh nghiệm
Về mặt Toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thôi.
Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính
giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm
đơn vị “con gà” ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu
rằng chữ “con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt
ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về Toán học với số 9.
Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh như
sau: “5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà”. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là
một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính
nên ta cứ việc ghi: “Đáp số: 9 con gà” mà không cần ngoặc đơn.
a.4) Kiểm tra lại bài giải:
Học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một không có thói quen khi làm
bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh
xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số
hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
b) Biện pháp khắc sâu dạng bài toán có lời văn :
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt “Bài toán có lời văn” giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết về
“Giải toán có lời văn” giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự
đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán

từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm ( ), đặt
câu hỏi cho bài toán.
Ví dụ 1: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Có : 15 hình tròn
Tô màu : 4 hình tròn
Không tô màu : hình tròn?
(Bài tập 4/ trang 151)
Giáo viên: Phan Thị Thu 14
Sáng kiến kinh nghiệm
Ví dụ 2: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài
toán đó:
Bài toán: Trong bến có ô tô, có thêm ô tô vào bến.
Hỏi ?
(Bài tập 1 trang 152)
Song song với việc nhìn tranh để hình thành đề toán người giáo viên cần
chuẩn bị thêm một số mô hình, vật thật để học sinh tự thao tác bằng tay trên các
vật thật đó để một em đặt đề toán, một em giải bài toán và ngược lại nhằm khắc
sâu kiến thức về các dạng toán cơ bản các em đã được học trong chương trình.
c) Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: “Giải bài toán có lời
văn” ở lớp Một :
c.1) Phương pháp trực quan :
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp Một thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua
việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ. . . giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó
tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán
Một có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi
ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học
sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc
giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan.
c.2) Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)

Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối
giải, chữa bài làm của học sinh.
c.3) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời
văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này.
Với mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có
vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm”
trở thành bài toán tìm số trừ.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học
sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình
vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.
Giáo viên: Phan Thị Thu 15
Sáng kiến kinh nghiệm
Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để
giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như: Phương pháp thảo luận nhóm,
phương pháp kiến tạo
c.4) Tổ chức trò chơi phù hợp:
- Đối với các bài toán có lời văn (dựa vào tranh, ảnh), ở SGK để hoàn
thiện cấu trúc đề thì giáo viên có thể tổ chức các trò chơi theo nhóm tổ, để rèn
học sinh kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp, từ đó học sinh có thể thực hiện kĩ năng
tính toán tốt hơn.
- Giáo viên có thể cho học sinh cách đặt đề toán từ một phép tính đã cho
thông qua trò chơi “Ai nhanh, ai đúng”, hình thức này không chỉ nhằm giúp cho
học sinh kĩ năng tính toán nhanh mà còn có thể phát huy trí lực ở mức độ cao
hơn về dạng bài toán có lời văn và còn tạo cho học sinh tâm lí nhẹ nhàng thỏa
mái “học mà vui – vui mà học” nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh một cách
nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Tóm lại, trong quá trình dạy học giáo viên có thể lựa chọn nhiều phương
pháp, hình thức tổ chức từ tranh ảnh đến vật thật hay bằng câu chữ, và đặc biệt
kiến thức về thực tế cuộc sống là một yếu tố quan trọng nhằm khắc sâu kiến

thức cho các em giúp các em vận dụng linh hoạt để giải tốt dạng toán có lời văn.
Giáo viên: Phan Thị Thu 16
Sáng kiến kinh nghiệm
VI. KẾT QUẢ :
Từ nhận thức của bản thân trên cơ sở thực tiễn chọn đề tài và các biện
pháp triển khai đề tài, qua khảo sát thực tế việc tiếp thu của học sinh, tôi thấy đã
đạt được một số kết quả cụ thể như sau:
- Chất lượng môn Toán của học sinh qua các năm tôi chủ nhiệm đạt kết
quả cao. Từ năm học 2007 đến 2010 lớp tôi chủ nhiệm trong các kì thi học sinh
giỏi cấp trường luôn đạt kết quả cao. Trong học kì I của năm học 2011 – 2012
này tỉ lệ học sinh giỏi môn Toán như sau:

Thời
gian
Giỏi Khá TB Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
GKI 27 93,1% 2 6,9% / / / /
CKI 27 93,1% 2 6,9% / / / /
- Học sinh được đánh giá chính xác kết quả học tập, các em biết vận dụng
thành thạo các kiến thức đã học làm cơ sở cho việc tiếp thu một cách thuận lợi,
vững chắc.
- Học sinh có thói quen suy nghĩ, quan sát, lập luận để phát huy trí thông
minh, óc sáng tạo , khả năng phân tích, tổng hợp, tư duy độc lập và thông qua
việc thảo luận, tranh luận mà học sinh phát triển khả năng nói lưu loát, biết lí
luận chặt chẽ khi giải toán.
- Học sinh biết vận dụng các kiến thức đơn lẻ để giải các bài toán tổng
hợp nhiều kiến thức.
- Tạo không khí sôi nổi, niềm say mê hứng thú cho học sinh bằng các bài
toán sinh động, hấp dẫn, thực sự biến giờ học, lớp học luôn là không gian toán
cho học sinh.

Giáo viên: Phan Thị Thu 17
Sáng kiến kinh nghiệm
VII. KẾT LUẬN:
Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu hay vạn năng, chỉ có lòng
nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người mở cánh cửa khoa học vì một ngày
mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. Đó cũng là
duyên nợ của người thầy. Duyên nợ với người, với nghề và nợ với mênh mông
biển học. Trong khuôn khổ hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi
chiêm nghiệm, trăn trở bằng một tình yêu nghề nghiệp, hy vọng nó sẽ cùng các
bạn đồng nghiệp gần xa trao đổi để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang mà Đảng và
nhà nước trao cho nghề thầy giáo.
Đối với học sinh lớp Một, các em thực sự là những mầm cây còn rất non
nớt, để có được một cây to, cây khoẻ, mỗi giáo viên dạy lớp Một ngoài việc uốn
nắn, buộc tỉa phải biết chăm sóc để các em được phát triển một cách toàn diện.
Làm tốt việc dạy “Giải toán có lời văn cho học sinh lớp Một” sẽ góp phần vô
cùng quan trọng để phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các
em sẽ có một nền tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên
các lớp trên.
1. Bài học kinh nghiệm:
- Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo
khoa về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để xác định đặc trưng mỗi tiết học phải
dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào?
- Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng
sử dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn”
nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan
một cách hình thức.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà
phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình
thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy
sáng tạo, tư duy lô - gíc. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải

toán có lời văn”.
- Để việc dạy toán có lời văn đạt hiệu quả đòi hỏi người giáo viên cần
phải gắn kiến thức với thực tiễn cuộc sống, có như vậy kiến thức các em tiếp thu
được mới trở nên bền vững đối với các em.
- Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
- Ngoài ra giáo viên phải biết cách luôn tạo ra không khí sôi nổi, niềm say
mê, hứng thú cho học sinh thông qua các trò chơi, bằng các bài toán sinh động,
hấp dẫn, thực sự biến giờ học, lớp học luôn là không gian toán cho học sinh.
Giáo viên: Phan Thị Thu 18
Sáng kiến kinh nghiệm
2. Những vấn đề hạn chế còn tồn tại:
Thực tế cho thấy chương trình môn toán lớp Một còn nặng ở một số bài,
một số tiết về “Giải toán có lời văn”. Phần thời gian dành cho “Giải toán có lời
văn” thường ở cuối tiết nên đôi khi bị phần trên lấn sang, làm cho nội dung này
phải thực hiện một cách vội vàng, chưa thoả đáng.
Xin trân trọng cảm ơn ! Đại Quang, ngày 20 tháng 2 năm 2012
Người viết
Phan Thị Thu
Giáo viên: Phan Thị Thu 19
Sáng kiến kinh nghiệm
VIII. PHỤ LỤC:
* Kết quả chất lượng môn Toán sau khi thi cuối kì I năm học 2010 - 2011
như sau:
Thời
gian
Giỏi Khá TB Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
GKI 24 85,7% 4 14,3% / / / /
CKI 25 89,3% 3 10,7% / / / /


* Kết quả chất lượng môn Toán sau khi thi cuối kì II năm học 2010 - 2011
có tăng lên đáng kể:
Thời
gian
Giỏi Khá TB Yếu
SL TL SL TL SL TL SL TL
GKII 25 89,3% 3 10,7% / / / /
CKII 27 96,4% 1 3,6% / / / /
Giáo viên: Phan Thị Thu 20
Sáng kiến kinh nghiệm
VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách giáo khoa Toán Một
2. Sách giáo viên Toán Một
3. Tạp chí tiểu học
Giáo viên: Phan Thị Thu 21
Sáng kiến kinh nghiệm
IX. MỤC LỤC:
Nội dung Trang
1. Tên đề tài 1
2. Đặt vấn đề 1
3. Cơ sở lí luận 2
4. Cơ sở thực tiễn 2
5. Nội dung nghiên cứu 315
6. Kết quả nghiên cứu 16
7. Kết luận 1718
8. Tài liệu tham khảo 19
9. Mục lục 20
Giáo viên: Phan Thị Thu 22

×