Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận HV báo chí và tuyên truyền đề tài Thế giới trong giai đoạn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.13 KB, 17 trang )

A. Đặt vấn đề.
Có lẽ chưa bao giờ thế giới lại tồn tại và vận động với tính chất
phức tạp như hiện nay; vừa thống nhất nhưng cũng thật đa dạng và đầy
mâu thuẫn . Chính những tác động của xu hướng quốc tế hoá đời sống các
dân tộc đã làm cho các nước ngày càng xích lại gần nhau hơn. Mỗi nước
giờ đây, bên cạnh việc chú trọng việc ổn định, phát triển trong nước còn
phải tăng cường giao lưu và mở rộng hợp tác quốc tế. Hơn bao giờ hết sự
tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc gắn liền với sự tồn tại và
phát triển của cả cộng đồng.
Thời gian qua, thế giới cũng chứng kiến những biến động to lớn
trên nhiều lĩnh vực. Sự sụp đổ và tan rã thể chế xã hội ở Liên xô và các
nước Đông Âu đã làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào giai đoạn
khó khăn nhất. Trong tình hình mới, chủ nghĩa tư bản đang âm mưu “ toàn
cầu hoá TBCN” nhưng ngay trong bản thân TBCN vẫn chứa đựng những
mâu thuẫn sâu sắc và vẫn trong vòng khủng hoảng chưa có lối ra.
Cuộc cách mạng khoa học, công nghệ đang phát triển như vũ bão
đã trở thành lưîng sản xuất trực tiếp. Một mặt nó đẩy nhanh quá trình phân
công hợp tác quốc tế, đồng thời cũng đặt mỗi quốc gia , dân tộc truíc
những vận hội và thử thách mới.
Bên cạnh những dấu hiệu lạc quan về một thế giới mới với nhiều
tiến bộ khoa học, kỹ thuật hiện đại, các nhà tương lai học phân tích tình
hình toàn cầu không khỏi không lo ngại về những vấn đề bất ổn đang và
sẽ xảy ra. Sự thiếu hụt về thực phẩm. nước uống, « nhiễm, các xung đột
chính trị gay gắt, nạn bùng nổ dân số… là những mối lo hàng đầu đối với
nhiều chính phủ.
Sau thảm hoạ 11/9 ở Mü, khủng bố quốc tế cũng đang trở thành
vấn đề toàn cầu đòi hỏi mỗi quçc gia dân tộc phải có những quan tâm đúng
mức đến vấn đề này.
2
Trong bối cảnh phức tạp và đầy biến động của tình hình thế giới,
hoạt động đối ngoại của Đảng và nhà nước ta thời gian qua cũng đã thu


được những thành tựu đáng kể, góp phần cải thiện vị thế của Việt nam trên
trường quốc tế. Với chủ trương mở cửa, hội nhập, sẵn sàng làm bạn và là
đối tác tin cậy của tất cả các nước vì mục đích hoà bình và phát triển. Hoạt
động đối ngoại của Việt nam đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của
các nước, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển
của đất nước.
Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của chóng ta
diễn ra trong bối cảnh quốc tế như trên cũng có những mặt thuận lợi
nhưng cũng có không ít khó khăn. Đảng và nhân dân ta vẫn kiên trì mục
tiêu, con đường XHCN khi mà CNXH hiện thực đang gặp những khó
khăn. Điều này càng đòi hỏi mỗi quyết sách trong đường lối đối ngoại của
Đảng và nhà nước ta lúc này cần phải đúng đắn nhưng cũng phải linh hoạt
mềm dẻo. Chỉ có như vậy chúng ta mới giải được bài toán phát triển, giúp
đất nước nắm bắt được thời cơ, vượt qua thách thức, thoát khỏi nghèo nàn
lạc hậu vững bước tiến vào kû nguyên mới, thực hiện thắng lợi mục tiêu:
“dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”.
B. Phần nội dung.
I. Vài nét về tình hình thế giới trong giai đoạn mới
1.1. Sự phức tạp của trật tự thế giới mới.
Chủ nghĩa xã hội là kết quả hợp quy luật của lịch sử tiến hoá nhân
loại. Chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt,
từng là chỗ dựa cho phong trào cách mạng và hoà bình thế giới, góp phần
quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hoà bình
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, do tình trạng duy trì
quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ chậm thích nghi với cách mạng
khoa học và công nghệ nên ở nhiều nước Đảng cộng sản và công nhân đã
để mất vai trò lãnh đạo, từ đó dẫn đến bản chất chế độ xã hội thay đổi. Các
thế lực đế quốc ra sức lợi dụng những sai lầm và khó khăn của các nước
3
XHCN, đẩy mạnh cuộc tiến công và phản kích vào CNXH ở Đông Âu và

Liên xô tan rã. So sánh lực lượng trên thế giới bất lợi cho các lực lượng
XHCN, độc lập dân tộc, dân chủ và và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa đế quốc
hơn lúc nào hết đẩy mạnh các hoạt động nhằm xoá bỏ các nước XHCN và
phong trào cộng sản quốc tế.
ở các nước tư bản phát triển, khủng hoảng về kinh tế chu kỳ đang
diễn ra cùng với cuộc khủng hoảng về cơ cấu. Việc đưa khoa học, công
nghệ mới vào sản xuất đã phát triển các ngành công nghệ mũi nhọn, năng
suất lao động tăng. nhưng vì lợi ích của các tập đoàn tư sản, nhiều ngành
sản xuất đã bị thu hẹp, làm tăng số người thất nghiệp, trót hậu quả vào giai
cấp công nhân và nhân dân lao động, để lại gánh nặng cho các tầng lớp
nhân dân. Sự tồn tại xen kẽ giữa các nước XHCN và các nước TBCN trên
thế giới phản ánh tính chất quá độ của thời đại ngày nay. Đấu tranh và hợp
tác trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị – xã hội
khác nhau trở thành nét đặc thù trong quan hệ quốc tế và phản ánh đặc
điểm của tiến trình vận động lịch sử trong giai đoạn hiện nay.
Sự xuất hiện những xu hướng chính trị, tư tưởng, những tổ chức,
những phong trào xã hội chính trị khác nhau, đang tham gia vào đời sống
thế giới và có tác động không nhỏ đến chiều hướng phát triển của từng
quốc gia, dân tộc nói riêng cũng như của một thế giới nói chung. Các lực
lượng ấy giữ một vị trí đáng kể và trở thành những chủ thể khác nhau
trong quan hệ quốc tế.
Sự tồn tại của trên100 quốc gia độc lập từ những năm 50 trở lại đây
cũng góp phần làm thay đổi cục diện thỊ giới và tương quan lực lượng trên
thỊ giới. Nhìn chung, các nước đang phát triển còn phải tiến hành cuộc đấu
tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ
nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức chống sự can thiệp và xâm lược
của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chí quyền dân tộc.
Ngày nay, đã và đang xuất hiện những vấn đề có tính toàn cầu, cấp
bách liên quan đến vận mệnh của cả loài người. Đó là giữ gìn hoà bình,
4

đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ môi trường sống, hạn chế bùng nổ về
dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những bệnh tật hiểm nghèo Giải quyết
những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả
các quốc gia, dân tộc. Sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá gắn liền với xu hướng khu vực
hoá đang chi phối đến việc tập hợp lực lượng giữa các khu vực và trên thế
giới.
Tình hình thỊ giới cho thấy hoà bình, đối thoại và hợp tác vẫn là
nguyện vọng thiết tha của các dân tộc, nhưng những hành động chính trị
cường quyền của Mü, lợi dụng các vấn đề tôn giáo, sắc tộc can thiệp thô
bạo vào công việc nội bộ của các quốc gia có chủ quyền dưới các chiêu bài
“Dân chủ” “nhân quyền” “can thiệp nhân đạo”, áp đặt ý muốn lên các
dân tộc khác vẫn tiếp tục gia tăng ở một số nơi. Bởi vậy, chống chiến
tranh, bảo vệ hoà bình, bảo vệ độc lập chủ quyền và chống can thiệp vào
công việc nội bộ của các nước vẫn là nhiệm vụ cấp thiết và hàng đầu cu¶
các nước và các khu vực.
Ngày nay, trên thế giới đã xuất hiện một số hình thức tập hợp lực
lượng mới giữa các nước lớn với nhau, giữa từng cặp các nước lớn, giữa
các nước đang phát triển, trên từng lĩnh vực nhất định, trong một số vấn đề
nhất định. Những điều chỉnh trong quan hệ giữa các nước lớn như Mü,
Trung Quốc, Nga , Nhật, EU, Ân Độ theo hướng thoả hiệp, dàn xếp các
bất đồng, dung hoà lợi ích trong một số vấn đề quốc tế và khu vực, thể
hiện qua các cuộc gặp cấp cao đã góp phần gia tăng xu thế đối thoại giữa
các nước này trong khuôn khổ vừa hợp tác vừa vừa đấu tranh, đồng thời
tác động sâu sắc đến quá trình phân hoá và tập hợp lực lượng ngày càng đa
dạng và phức tạo trong quan hệ quốc tế. Các nước đang phát triển còng cố
gắng có những hình thức tập hợp lực lượng mới để tăng cường đoàn kết và
đối phó với những thách thức trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, phát
triển và tận dụng những cơ hội do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và
toàn cầu hoá mạng lại. Tuỳ theo tõng diễn đàn, từng lĩnh vực, từng tổ chức

5
mà các nước này có những hình thức tập hợp lực lượng khác nhau như
trong tổ chức thương mại thế giới (WTO), trong phong trào không liên kết
hợp tác Nam – Nam, hợp tác giữa các khu vực hay trong khuôn khổ Liên
hợp quốc Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển, tuy nhiên đang bộc lộ những
mặt tiêu cực, những ý đồ khác nhau của các nước và các bên tham giavµo
quá trình này. Vì vậy, đang trở thành một trong những nơi thể hiện rõ nét
mối quan hệ hợp tác và đấu tranh trong thời đại ngày nay.
Trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH”, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân
các nước hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa
xã hội hiện nay đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới
đang trải qua những bước quanh co, song loài người nhất định sẽ tiến tới
chủ nghĩa xã hội vì đó là quy định tiến hoá của lịch sử”.
1.2. Những xu thỊ trong quan hệ quốc tế hiện nay.
Quốc tế hoá, toàn cầu hoá là một xu thỊ ngày càng rõ nét. Cả thế
giới là một thị trường, phân công lao động, hợp tác quốc tế hết sức phát
triển. “Mỗi nước trở thành một bộ phận của thế giới mở. Nước nào chấp
nhận hợp tác phân công sẽ có cơ hội phát triển hoà nhập với thế giới,
không chấp nhận sẽ bị bỏ rơi”. Tuy nhiên xu hướng này cũng đưa tới
nhiều thách thức đối với các nước đang phát triển. Xu hướng này mang
tính khách quan, xuất phát từ sự phát triển và tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại – một cuộc cách mạng vừa là thời cơ,
vừa là thách thức đối với các nước. Những tác động của cuộc cách mạng
này đã xoá đi tư tưởng biệt lập, khép kín mà lâu nay đã trở thành “truyền
thống” ở một số nước.
Quốc tế hoá, toàn cầu hoá là xu thế đang chi phối sự vận động của
thế giới, nó đòi hỏi mỗi nước phải có đối sách hợp lý. Một số nước phương
Tây lợi dụng xu thế này để toàn cầu hoá chủ nghĩa tư bản, đồng hoá thế

6
giới. Nhận rõ điều đó, các nước đang phát triển cần có định hướng bảo vệ
độc lập chủ quyền, để hoà nhập nhưng không bị hoà tan.
Đồng thời, là xu hướng liên kết, hợp tác khu vực. Hoà bình – hợp
tác – phát triển là nhu cầu bức xúc đối với mỗi nước, các nước trước hết
hướng tới việc hợp tác khu vực gây thỊ mạnh khu vùc®Ó hợp tác quốc tế.
Hợp tác khu vực có nhiều mặt lợi; gần cận về địa lý, có cùng những mối
quan tâm bổ sung lẫn nhau cùng phát triển. Khu vực Đông Nam ¸ đang có
nhiều vận hội để hoà hợp, tăng cường hợp tác, liên kết. ASEAN cần phát
triển nhÂn mạnh tới việc thu nạp hội viên mới và thiết lập khu vực mậu
dịch tự do. Đó chính là lý do ViÖtNam nhất trí gia nhập khối ASEAN.
Xu hướng đối thoại cũng là một tất yếu vì thỊ giới xuất hiện hàng
loạt vấn đề liên quan đến tất cả mọi nước. Đối thoại tháo gỡ được nhiều
trắc trở, có lợi nhất vì tránh được tổn thất vÌ người và của mà thực tế đã
chứng minh. Đối thoại là tích cực, nhưng thế giới vẫn có đối đấu. Trách
nhiệm của mỗi quốc gia là phải hạn chế đối đấu để phát triển đối ngoại.
Để hoà nhập quốc tế và hoà nhập khu vực, các nước trước hết phải
tự khẳng định mình, phải độc lập tự chủ về chính trị và kinh tế. Quá trình
toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, bị chủ nghĩa tư bản lợi dụng để áp đặt giá
trị phương Tây đối với toàn thế giới. Các nước muốn tránh được sự “đồng
hoá” ấy phải khẳng định tính độc lập tự chủ. Vì lẽ đó, trật tự thế giới càng
đi vào hướng đa cực hoá, đa trung tâm. Sự áp đặt của Mü bị thách thức
nghiêm trọng và giấc mộng bá chủ thế giới không phải là điều dễ dàng.
Mặt khác, xu hướng phục hồi các Đảng cộng sản và công nhân cũng
xuất hiện do bản thân phong trào cộng sản và công nhân có bước thích
nghi mới đối với thời đại, đã đúc rút bài học kinh nghiệm sau khi bị đổ vì.
Mặt khác, bản thân các chế độ “hậu cộng sản” ở các nước Đông Âu và
Liên Xô trước đây đã đi vào ngõ cụt không giải quyết được những vấn đề
gay gắt nảy sinh. Điều quan trọng nữa là bản thân chủ nghĩa tư bản thế
giới hiện nay bộc lộ hết những mâu thuẫn vốn có của nó mà đông đảo

nhân dân dễ nhận ra. Xu hướng này khẳng định quá trình đổi mới sáng tạo
7
của các nước XHCN là có sức thuyết phục. Ta có thể thấy rõ điều đó qua
những lời phát biểu tự đáy lòng của các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản các
nước tại Đại hội IX của Đảng mới đây.
II. Đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước ta hiện nay.
Căn cứ để hoạch định chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước
ta là xuất phát từ đặc điểm chung của thế giới từ tình hình và đặc điểm khu
vực, từ những vấn đề mới nảy sinh trong khuynh hướng vận động của thế
giới, từ những thời cơ và thách thức mới và đặc biệt là những bài học rót
ra từ thực tiễn.
- Trong tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng và phức tạp hiện
nay, việc mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động đối ngoại ở nước ta, đòi
hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, mỗi giải pháp chúng ta đưa ra
đều có phản ứng rất nhanh nhạy trong nước cũng như trên thế giới.
Mục tiêu bao quát nhất của chính sách đối ngoại chúng ta là “Mở
cửa sẵn sàng làm bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, phát triển”. Tư tưởng chủ đạo là: Đảm
bảo giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội nhưng
phải rất sáng suốt, năng động, linh hoạt, phù hợp với điều kiện và đặc điểm
của nước ta, những diễn biến đầy mâu thuẫn của thế giới, đặc điểm và đối
tượng mà ta quan hệ.
Đảng ta đã chỉ ra bốn phương châm cơ bản trong hoạt động đối
ngoại hiện nay là:
1. “Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn
chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế”.
- Lợi ích chân chính của nhân dân ta là xây dựng thành công CNXH
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phát triển nhanh về kinh tế – XHCN, làm
cho dân giàu, nước mạnh xã hội cộng bằng dân chủ văn minh, giữ vững
độc lập và thống nhất. Công tác đối ngoại phải phục vụ lợi ích chân chính

đó của dân tộc. Làm tốt điều ấy cũng có nghĩa là chúng ta đã góp phần
thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình. Đồng thời, khi thực hiện nghĩa vụ
8
dân tộc, chúng ta luôn chú ý quan hệ quốc tế, đoàn kết và hợp tác với các
nước, các phong trào, các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Luôn xác định
Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh của thời đại.
2. “Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại” .
Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường nhằm phát huy sức mạnh bên
trong của dân tộc, là điều kiện để mở rộng quan hệ hợp tác và nâng cao uy
tín quốc tế, nhằm khai thác tốt nhất nhân tốt bên ngoài để phục vụ cho
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Độc lập tự chủ không có nghĩa là biệt lập. Việc thực hiện đa dạng
hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại để xây dựng được thế đứng của ta
trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới và phát triển
đất nước ta. Ta mở rộng quan hệ đối ngoại, nhưng phải giữ vững nguyên
tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có
lợi, bảo đảm an ninh quốc gia và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
3. “Nắm vững hai mặt hợp và đấu tranh trong quan hệ quốc tế”
Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ đối ngoại. Tránh thiên
hướng chỉ nhấn mạnh hợp tác hoặc chỉ nhấn mạnh đấu tranh. Trong hợp
tác phải có đấu tranh nhằm bảo đảm lợi ích dân tộc, thiết lập quan hệ bình
đẳng cùng có lợi cùng tồn tại hoà bình.
Thực hiện tốt hai mặt hợp tác và đấu tranh nhằm tranh thủ tập hợp
lực lượng, tránh được các thế lực không thân thiện, thù địch lợi dụng hợp
tác để phân hoá và cô lập ta.
4. “Tham gia hợp tác khu vực đồng thời mở rộng quan hệ với tất
cả các nước”
Chúng ta coi trọng quan hệ với các nước làng giềng, với các nước

ASEAN và các nước trong khu vực Châu ¸ - Thái Bình Dương. Việc gia
nhập ASEAN và chuẩn bị tham gia AFTA là biểu hiện sự tích cực của ta
9
trong việc hợp tác các khu vực, bên cạnh sự mở rộng giao lưu hợp tác với
tất cả các nước trên thế giới
Nguyên tắc trong khi mở rộng kinh tế đối ngoại được xác định rõ:
Bảo vệ độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có lợi, bảo
vệ môi trường, an ninh quốc gia. Làm kinh tế nhưng phải biết giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng các thành phần kinh tế, phát
huy sức mạnh tổng hợp nhưng phải theo định hướng XHCN. Mọi hoạt
động đối ngoại và kinh tế đối ngoại đều phải phục vụ phát triển kinh tế.
III. Thực tiễn hoạt động đối ngoại của nước ta trong những năm gần đây.
Có thể đánh giá một số nét về hoạt động đối ngoại của chóng ta trên
một số phương diện.
1. Tiếp tục đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối
ngoại, không ngừng phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước, ưu tiên là các nước láng giềng ở khu vực.
Quan hệ với Trung Quốc có bước phát triển mới, tăng câng cả chiều
rộng lẫn bỊ sâu theo phương châm 16 chữ mà lãnh đạo hai nước đã xác
định “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới
tương lai”. Cùng với các cuộc gặp cấp cao, các cuộc trao đổi, quan hệ hữu
nghị hai nước và giao lưu trên nhiều lĩnh vực đã đem lại những hiệu quả
thiết thực cho cả hai bên. Với việc hai nước ký hiệp ước về biên giới trên
bộ (ngày 30/12/1999), đẩy nhanh tiến độ đàm phán phân định Vịnh Bắc
Bộ, tổ chức kû niệm trọng thể 50 năm quan hệ ngoại giao và trao đổi nhiều
đoàn quan trọng ở các cấp, các ngành và các địa phương đã góp phần tăng
cường sự tin cậy giữa hai bên, thúc đẩy quan hệ hợp tác mọi mặt. Đối với
các vô việc xảy ra trên bộ và trên biển, ta đã xử lý một cách thích hợp, giữ
vững tinh thần thỏa thuận cấp cao nhằm góp phần củng cố hoà bình, ổn
định ở khu vực.

Củng cố mối quan hệ giữa 3 nước Đông Dương.
10
Quan h hu ngh c bit vi cỏc nc CHDCND Lo c u tiờn
v phỏt trin. Quan h vi Cam phu chia cng trin vng tt. Quan h vi
cỏc nc ASEAN c y mnh v a phng ln song phng.
Bờn cnh quan h a phng, quan h ca ta vi tng nc ASEAN
nh Thỏi Lan, Mian ma, Brunây cng cú nhng bc phỏt trin mi.
Quan h Inđonexia , Malaixia, Philippin, Singapore tin trin thun li.
Quan h vi cỏc nc Chõu á - Thỏi Bỡnh Dng cng cú nhng tin trin
tớch cc.
Cú th núi, cha bao gi Vit Nam cú nhiu bn bố nh hin nay.
Chỳng ta ó cú quan h ngoi giao vi trờn 170 nc trờn 180 ng chớnh
tr, gn 500 t chc phi chớnh ph. Vit Nam ó tr thnh thnh viờn ca
nhiu t chc quan trng ca quc t v khu vc.
Chỳng ta tip tc coi trng v trin khai nhiu hot ng nhm tng
cng quan h vi cỏc nc bn bè truyn thng v m rng quan h vi
nhiu nc Chõu á, Chõu Phi v khu vc Mỹ la tinh. n c, quan h vi
cỏc nc SNG v ụng u khỏ sụi ng, c bit quan h kinh t thng
mi vi cỏc nc khu vc ny c nõng lờn mt bc mi. Vi Liờn
bang Nga, hai nc ó hon tt vic m phỏn vàký hip in v x lý n.
Cỏc on i biu cp cao ca hai nc c bit l chuyn thm chớnh thc
Vit Nam ca Tng thng V.Putin v chuyn thm chớnh thc cng ho
Liờn bang Nga ca tng bớ th Nụng c Mnh ó khng nh mc
phỏt trin trong quan h ngoi giao gia hai nc. Ta tip tc chỳ trng
tng cng quan h vi cỏc nc chõu Phi, Trung ụng: m i s quỏn
ti Nam Phi, ún Tng thng Cụng gụ, tng thng Angiêri, Tng thng
Paletxtin cng nh cỏc chuyn i thm chớnh thc ca cỏc ng chớ
lónh o ng, nh nc ta ti cỏc nc ny Ta ó cú nhng n lc
bc u khai thỏc kh nng hp tỏc kinh t, thng mi v tim nng to
ln ca khu vc th trng rng ln ny cho vic xut khu hng hoỏ v

lao ng ca ta.
11
Quan hệ với các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu và Bắc Mü
theo hướng tăng cường quan hệ kinh tế – thương mại để phục vụ cuộc
sống phát triển đất nước. Ta đã tích cức đẩy mạnh quan hệ liên minh Châu
âu (EU) cũng như quan hệ song phương với các nước Tây Âu, Bắc Âu, cố
gắng đưa hợp tác đi vào chiều sâu. Với những nỗ lực to lớn của các ngành
hữu quan và các doanh gnhiÖp của ta và việc kiên trì vận động các nước
thành viên EU, ta đã đạt được việc EU chấp nhận mở rộng danh sách các
doanh nghiệp được xuất khẩu thủy sản sang EU. Việc EU công nhận nước
ta có nền kinh tế thị trường cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá
nước ta thâm nhập thị trường EU.
Ta cũng cô nhiều đoàn sang các nước Tây Âu và Bắc Âu nhằm tăng
cường quan hệ hợp tác, tận dụng mọi khả năng để mở rộng thị trường,
tranh thủ vốn đầu tư, khoa học công nghệ. Qua các hoạt động trên , ta đã
thúc đẩy thêm quan hệ song phương, nhất là hợp tác kinh tế – thương mại,
tranh thủ nguồn vốn tín dụng ưu đãi và viện trợ của các nước này.
Đặc biệt, quan hệ Việt Mü có bước tiến quan trọng với cuộc gặp
chính thức đầu tiên giữa chủ tịch nước Trần Đức Lương và Tổng thống
Mü Clinton trong dịp dự hội nghị cấp cao Thiên niên kû mới tại Newyork,
chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống hoa Kỳ và việc hai nước ký Hiệp
định thương mại. Việc ta đón Tổng thống Mü lần đầu tiên thăm chính thức
Việt Nam đạt kết quả, đáp ứng các mục tiêu và yêu cầu của ta, tạo tiền để
để xây dựng mối quan hệ hợp tác mới trên các lĩnh vực kinh tế, thương
mại, khoa học kỹ thuật, văn hoá trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và hai bên cùng
có lợi. Đồng thời, khẳng định Mü cần phải có sự nhìn nhận trách nhiệm
đối với những mất mát to lớn của nhân dân ta trong chiến tranh. Những
bước phát triển mới trong quan hệ Việt - Mü mở ra triển vọng cho sự hợp
tác và tiếp tục cải thiện quan hệ hai nước, thể hiện đúng đắn đường lối đối

ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước
ta. Tuy nhiên, trong quan hệ với Mü, ta vẫn cần kiên quyết đấu tranh
12
chống lại những hành động can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta
dưới chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tôn giáo”, đồng thời kiên trì đòi
Mü phải có trách nhiệm trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt
Nam.
2. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của hoạt động
đối ngoại là: phục vụ thiết thực cho công cuộc xây dựng đất nước.
Nhờ nỗ lực chung của các ngành kinh tế và hoạt động đối ngoại
hướng mạnh vào phục vụ kinh tế, những năm qua chúng ta đã đạt được
một số kết quả khả quan về kinh tế đối ngoại, góp phần duy trì sự phát
triển ổn định của nền kinh tế.
Nội dung kinh tế luôn được coi trọng trong mọi hoạt động đối ngoại
song phương cũng như đa phương và trong quan hệ quốc tế. Qua các hoạt
động đối ngoại song phương cũng như đa phương sôi động, chúng ta đã
đạt được một loạt các thoả thuận về chính trị, kinh tế, thương mại, về khoa
học công nghệ, về văn hoá giáo dục; Riêng về kinh tế đã đem lại lợi ích
thiết thực dưới hình thức trao đổi hàng hoá, đầu tư hoặc tài trợ…
3. Ta đã tích cực chuẩn bị và từng bước chủ động tham gia tiến
trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.
Chủ động hội nhập nền kinh tế là nhằm xây dựng nền kinh tế độc
lập và tự chủ theo định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu và lợi ích của đất
nước, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp
tác và phát triển của khu vức và trên thế giới. Tiếp tục hội nhập theo tinh
thần Bộ chính trị đề ra là:
- Hội nhập phải giữ vững độc lập, tự lực, tự cường, bảo đảm an ninh
quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, giữ vững định hướng XHCN.
- Hội nhập quốc tế phải tiến hành từng bước với lộ trình hợp lý, khả
thi nhằm khai thác thuận lợi, vượt qua thách thức.

- Hội nhập quốc tế phải đặt trọng tâm vào lĩnh vực kinh tế- thương
mại.
13
Vừa qua, chúng ta đã thực hiện tương đối tốt các cam kết song
phương với các nước cũng như các cam kết trong khuôn khổ Hiệp định
thương mại tự do ASEAN (AFTA) , Diễn đàn Châu ¸ - Thái Bình Dương
(APEC) và tiến hành nhiều vòng đàm phán về việc gia nhập WTO.
Tuy nhiên, để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, chúng
ta cần nâng cao sức cạnh tranh của từng sản phẩm, từng doanh nghiệp và
của cả nền kinh tế; tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức
quản lý để tạo điều kiện và môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh tốt
hơn; có kế hoạch xây dựng và thực hiện lộ trình chủ động hội nhập, đào
tạo, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ
cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại và quản lý doanh nghiệp để đủ sức,
đủ bản lĩnh và phẩm chất cách mạng thực hiện tốt các nhiệm vụ theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, xem đây là
điều kiện tiên quyết và là yếu tố có tính quyết định để bảo đảm độc lập tự
chủ trong hội nhập.
4. Ta đã thúc đẩy các hoạt động ngoại giao đa phương nhằm nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta đã tham
dự và đóng góp tích cực vào thành công của nhiều diễn đàn quốc tế quan
trọng. Ta tiếp tục tham gia tích cực các hoạt động trong khuôn khổ Liên
hợp quốc, tranh thủ tối đa sự giúp đỡ về tài chính của các tổ chức chuyên
môn của Liên hợp quốc.
Ta cũng tham gia các hoạt động của các tổ chức tài chính tiền tệ
quốc tế và tranh thủ được nguồn tài trợ của các tổ chức này. Ngân hàng
Thế giới (WB) và các tổ chức tiền tệ quốc tế cũng đã đầu tư có hiệu quả
vào một số dự án ở Việt Nam.Việc ta được bầu làm uỷ viên uỷ ban nhân
quyền thuộc Hội đồng kinh tế xã hội Liên hợp quốc đã góp phần đáng kể

trong cuộc đấu tranh chống lại luận điệu của Mü và một số nước phương
Tây dùng vấn đề nhân quyền để xuyên tạc tình hình Việt Nam và chống
phá ta.
14
5. Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác và luật pháp quốc tế cũng
đã tham gia vào việc chống khủng bố quốc tế.
Một mặt, thể hiện Việt Nam luôn đứng về phía dư luận tiến bộ trên
thế giới, mặt khác cũng khảng định không ủng hộ quan điểm lợi dụng vấn
đề “khủng bố” và “chống khủng bố” để can thiệp vào các quốc gia, dân tộc
có chủ quyền mà Mü và một số nước Tây Âu đang theo đuổi.
6. Cũng cần phải nói thêm về những tiến bộ rõ rệt trong công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài, công tác thông tin tuyên truyền
đối ngoại…Điều đó giúp cho kiều bào Việt Nam ở xa tổ quốc hiểu hơn về
Việt Nam (cũng như nhân dân các nước hiểu về Việt Nam) theo đúng bản
chất. Vấn đề này cũng góp phần huy động sức mạnh tổng hợp để xây dựng
và phát triển đất nước.
IV. Phương hướng, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian
trước mắt.
ThỊ kû 21 đặt ra cho các quốc gia dân tộc những nhiệm vụ mới, to lớn,
nặng nề. Tình hình thế giới vẫn có những biến động sâu sắc, phức tạp, có lúc
căng thẳng. Hoà bình hợp tác và phát triển vẫn được duy trì, nhưng cuộc đấu
tranh giữa độc lập, tự chủ và cường quyền, giữa hợp tác và đấu tranh, giữa hoà
bình và chiến tranh vẫn diễn ra gay gắt dưới nhiều hình thức, mức độ khác
nhau. Kinh tế thỊ giới sẽ có những chuyển biến mới sâu sắc do tác động của tiến
bộ nhanh chóng mà khoa học kỹ thuật đem lại sẽ là những nhân tố và lực đẩy
mới cho một thời kỳ phát triển năng động nhưng khó có thể khắc phục được
tình trạng không đồng đều mà ngược lại, khoảng cách giữa các nước phát triển
và chậm phát triển lại có nguy cơ bị đẩy xa hơn.
Tình hình chính trị và an ninh thế giới sau sự kiện 11/9 tiếp tục diễn
biến nhanh chóng, sâu sắc và phức tạp. Quan hệ giữa các nước và trung

tâm lớn về cơ bản vẫn tiếp tục chiều hướng như hiện nay song mặt trận
đấu tranh có thể tăng lên do mâu thuẫn về lợi ích. Sự ổn định tương đối
của thế giới trong một vài năm tới dựa trên cơ sở đó.
15
Tình hình nội bộ ở một số nước Đông Nam ¸ còn diễn biến phức tạp,
kéo dài có thể ảnh hưởng đến an ninh và ổn định chung của cả khu vực.
Trong tình trạng đó ASEAN chỉ có thể tiếp tục phát huy vai trò với điều
kiện: ASEAN không ngừng củng cố sự đoàn kết, nhất trí và hạn chế được
sự can thiệp của bên ngoài vào công việc nội bộ của các nước trong khu
vực.
Trước bối cảnh ThỊ giới và khu vực như vậy, phương hướng hoạt
động đối ngoại của chúng ta trong giai đoạn tới là
- Tiếp tục kiên định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở và
chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế theo phương
châm: “Việt Nam muốn là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng
động thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.”
Tiếp tục tạo môi trường và điều kiện quốc tế thuận lợi đẩy mạnh
phát triển kinh tế, xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
- Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập tự chủ và
định hướng XHCN bảo vệ và phục vụ lợi ích dân tộc, bảo đảm và tăng
cường an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi
trường sinh thái. Trên cơ sở đó, hoạt động đối ngoại phải nhạy bén, có chủ
trương phù hợp với từng đối tác, từng đối tượng để tranh thủ mọi khả năng
có lợi nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
- Hoạt động đối ngoại của ta trong thời gian tới vẫn là sự kết hợp hài
hoà giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, nhà nước và nhân dân. Tiếp tục
mở rộng quan hệ với các nước, trước hết là các nước láng giềng, các nước
lớn, các nước bè bạn truyền thống và các tổ chức khu vực và quốc tế.

- Tạo bước chuyển cơ bản trong công tác đối ngoại phục vụ kinh tế.
-Xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, trong đó coi
trọng lộ trình gia nhập WTO và tham gia AFTA.
16
- Tăng cường sự đóng góp của Việt Nam vào việc giải quyết các vấn
đề chung của khu vực và quốc tế. Không ngừng củng cố và nâng cao hơn
nữa vai trò, vị thế quốc tế của đất nước.
C. Kết luận
Những diễn biến sôi động, phức tạo của tình hình chính trị thế giới
và những vẫn đề toàn cầu là những bài toán khó đòi hỏi mỗi quốc gia, dân
tộc có những lời giải riêng.
Việt Nam, với định hướng và mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội,
xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn
minh cũng đang khẳng định thỊ và lực của mình trên trường quốc tế.
Giữ vững ổn định chính trị trong nước, chủ động mở cửa hội nhập
và phát triển đó là những thành tựu lớn mà Đảng và nhà nước ta đã thực
hiện được trong những năm đổi mới. Phải nói rằng những thành tựu của
công cuộc đổi mới đất nước suốt gần 20 năm qua là kết quả của đường lối
chính trị đúng đắn của Đảng ta, đưa Việt Nam hội nhập với sự phát triển
chung của khu vực và thế giới. Chính sách đối ngoại uyển chuyển và cởi
mở của Việt Nam cũng đã góp phần đóng góp quan trọng vào những thành
tựu nói trên. Thực tế luôn là thước đo giá trị của những chủ trương, chính
sách đúng đắn ấy.
Con đường phát triển phía trước còn nhiều gian nan vất vả, tình
hình thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp, nhưng với những bài học
kinh nghiệm từ thực tiễn, Đảng ta sẽ chèo lái con thuyền cách mạng vững
vàng đến tương lai. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, hoạt động đối
ngoại của nước ta sẽ tiếp tục góp phần xứng đáng vào việc thực hiện
nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của dân tộc ta là “Bảo vệ vững chắc độc
lập dân tộc chủ quyền quốc gia, củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội “

đưa nước ta không ngừng phát triển, thực hiện thắng lợi sự nghiệp “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá” đất nước.
17
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đại cương về quan hệ quốc tế của Học viện Hành chính quốc gia, Nxb
Giáo dục, H.1998.
2. Lý luận quan hệ quốc tế – Tài liệu dịch – QHQT; 2001
3. Quan hệ quốc tế, các phương pháp tiếp cận của Đoàn Văn Thắng, Nxb
Thống kê, H.2003
4. Những vấn đề toàn cầu ngày nay của Nguyễn Trần Quế, Nxb khoa học
xã hội, H.1999.
5. Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải
pháp của Bộ ngoại giao – Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002
6. Lịch sử Quan hệ quốc tế – Nxb Chính trị quốc gia, H.2002.
7. Các tài liệu, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về quan hệ Quốc tế.
8.Góp phần đẩy lùi nguy cơ bảo đảm ổn định và phát triển đất nước -
PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh.
18

×