Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) trên đàn lợn nái sinh sản nuôi theo mô hình nông hộ tại huyện gia bình, tỉnh bắc ninh và thử nghiệm biện pháp phòng, trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.67 MB, 79 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



PHAN THỊ HOAN


NGHIÊN CỨU HỘI CHỨNG VIÊM TỬ CUNG, VIÊM VÚ,
MẤT SỮA (MMA) TRÊN ĐÀN LỢN NÁI SINH SẢN
NUÔI THEO MÔ HÌNH NÔNG HỘ TẠI HUYỆN GIA BÌNH,
TỈNH BẮC NINH VÀ THỬ NGHIỆM BIỆN PHÁP PHÒNG, TRỊ






CHUYÊN NGÀNH: THÚ Y
MÃ SỐ: 60.64.01.01


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ NHƯ QUÁN



HÀ NỘI, NĂM 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page i



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung
thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu
và hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn.
Tôi xin cam đoan các thông tin trích dẫn trong luận văn đều chính xác
và được chỉ rõ nguồn gốc.
Bắc Ninh, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Phan Thị Hoan















Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page ii

LỜI CẢM ƠN

Mở đầu của Luận văn cho tôi được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của
các Thầy, Cô ở bộ môn Ngoại – Sản, các Thầy, Cô trong khoa Thú y thuộc
trường Học viện Nông nghiệp Việt Nam; cùng toàn thể các Thầy, Cô đã giảng
dậy tôi trong thời gian học cao học ở nhà trường.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy hướng dẫn khoa
học TS. Vũ Như Quán đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình tôi
thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn.
Tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành đến các chủ nông hộ chăn
nuôi lợn thuộc huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, khích lệ,
giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Bắc Ninh, ngày tháng năm 2014
Tác giả


Phan Thị Hoan







Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp

Page iii

MỤC LỤC


Lời cam đoan i

Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục các chữ viết tắt vi
Danh mục bảng vii
Danh mục biểu đồ viii
Danh mục hình ảnh viii
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài 1
2 Mục tiêu của đề tài 2
Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1 Cấu tạo, chức năng cơ quan sinh dục của lợn cái 3
1.2 Cấu tạo của tuyến vú 7
1.3 Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái 8
1.3.1 Tuổi thành thục về tính 9
1.3.2 Chu kỳ tính 10
1.4 Sinh lý đẻ 13
1.5 Khoảng cách giữa các lứa đẻ 15
1.6 Sinh lý tiết sữa của lợn nái 15
1.7 Hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản 16
1.7.1 Bệnh viêm tử cung ở lợn nái (mestritis) 17
1.7.2 Viêm vú (Mastitis) 21
1.7.3 Mất sữa (Agalactia) 22
1.8 Tình hình nghiên cứu hội chứng MMA trên thế giới và Việt Nam 23

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page iv

1.8.1 Trên thế giới 23
1.8.2 Ở Việt Nam 25
Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 27
2.1 Đối tượng, địa điểm, thời gian 27
2.2 Nội dung nghiên cứu 27
2.2.1 Khảo sát tỷ lệ mắc hội chứng MMA trên đàn lợn nái sinh sản
nuôi theo mô hình nông hộ tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. 27
2.2.2 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ. 27
2.2.3 Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái. 27
2.2.4 Một số chỉ tiêu lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA (nhiệt
độ, hô hấp, tuần hoàn, màu sắc dịch viêm,…). 27
2.2.5 Sự biến đổi về vi khuẩn trong dịch viêm tử cung lợn nái mắc
bệnh. 27
2.2.6 Tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con sinh ra từ lợn nái mắc hội chứng
MMA. 28
2.2.7 Thử nghiệm điều trị hội chứng MMA ở lợn nái bằng các phác đồ
khác nhau và theo dõi khả năng sinh sản sau khi điều trị hội
chứng MMA: Tỷ lệ nái động dục lại, tỷ lệ nái đậu thai sau một
chu kỳ. 28
2.2.8 Biện pháp phòng hội chứng MMA trên đàn lợn nái sinh sản. 28
2.3 Phương pháp nghiên cứu 28
2.3.1 Phương pháp điều tra 28
2.3.2 Phương pháp xác định các chỉ tiêu 28
2.3.3 Phương pháp lấy mẫu để xét nghiệm 28
2.3.4 Phương pháp xác định loại vi khuẩn 29
2.3.5 Thử nghiệm 3 phác đồ điều trị với nái mắc hội chứng MMA 30

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page v

2.3.6 Phương pháp xử lý số liệu 31
Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 32
3.1 Tỷ lệ mắc hội chứng MMA trên đàn lợn nái sinh sản nuôi theo
mô hình nông hộ huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh 32
3.2 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ 35
3.3 Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 39
3.4 Một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA 43
3.5 Kết quả phân lập vi khuẩn trong dịch tử cung lợn nái mắc hội
chứng MMA thể điển hình 46
3.6 Tính mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn có trong dịch viêm tử cung
của lợn nái với một số thuốc kháng sinh 48
3.7 Tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con sinh ra từ lợn nái mắc hội chứng
MMA 49
3.8 Tỷ lệ động dục lại và tỷ lệ thụ thai của lợn nái mắc hội chứng
MMA 51
3.9 Kết quả thử nghiệm điều trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản 54
3.10 Biện pháp phòng hội chứng MMA trên đàn lợn nái sinh sản 57
3.11 Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của lợn nái được phòng hội
chứng MMA 60
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 66
1 Kết luận 66
2 Kiến nghị 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO 68


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vi


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Cs Cộng sự
FSH Folliculin stimulin hormone
GSH Gonodo stimulin hormone
HC Hội chứng
LH Lutein stimulin hormone
MMA Metritis, mastitis, agalactia (viêm tử cung, viêm vú, mất sữa)
ml Mililiter
n Số mẫu khảo sát
PGF

Prostaglandin F
2
-alpha
TSH Thyromin stimulin hormone
VK Vi khuẩn



Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page vii

DANH MỤC BẢNG

STT Tên bảng Trang

3.1 Tỷ lệ mắc hội chứng MMA trên lợn nái sinh sản 32
3.2 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ 37

3.3 Ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của lợn nái 41
3.4 Một số biểu hiện lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA 43
3.5 Thành phần vi khuẩn có trong dịch tử cung lợn nái mắc hội
chứng MMA 47
3.6 Tính mẫn cảm của tập đoàn vi khuẩn phân lập với một số thuốc
kháng sinh 49
3.7 Tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con sinh ra từ lợn nái mắc hội chứng
MMA 50
3.8 Tỷ lệ động dục lại và tỷ lệ thụ thai của lợn nái mắc hội chứng
MMA 52
3.9 Kết quả điều trị hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản 55
3.10 Kết quả sinh sản của lợn nái sau điều trị hội chứng MMA 55
3.11 Kết quả theo dõi khả năng sinh sản của nái phòng hội chứng
MMA 61
3.12 Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu ở lợn con của nái được phòng
hội chứng MMA 63


Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page viii

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

STT Tên biểu đồ Trang

3.1 Tỷ lệ mắc hội chứng MMA trên đàn lợn nái sinh sản 34
3.2 Tỷ lệ lợn nái mắc hội chứng MMA theo lứa đẻ 38
3.3 Chỉ tiêu lâm sàng của lợn nái mắc hội chứng MMA 43
3.4 Tỷ lệ mắc tiêu chảy ở lợn con sinh ra từ lợn nái mắc hội chứng MMA 50
3.5 Tỷ lệ động dục lại và tỷ lệ đậu thai sau một chu kỳ 53

3.6 Kết quả sinh sản của nái sau điều trị hội chứng MMA 56
3.7 Khả năng sinh sản của nái được phòng hội chứng MMA 62
3.8 Kết quả theo dõi một số chỉ tiêu ở lợn con của nái được phòng MMA 64



DANH MỤC HÌNH ẢNH

STT Tên hình Trang

3.1+3.2 Lợn mẹ bị viêm vú 42
3.3+3.4 Dịch viêm chảy ra khi lợn nái mắc hội chứng MMA 45
3.5 Lợn mắc hội chứng MMA lười cho con bú 51




Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế phát triển, cùng với hội nhập kinh tế toàn cầu, mức sống của người
dân được nâng cao, ngành chăn nuôi được đầu tư phát triển hơn. Do đó, công tác
thú y cũng được chú trọng.
Trồng trọt và chăn nuôi luôn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam. Trong đó, chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng luôn đóng góp một
phần lớn vào thu nhập của người dân.
Ngày nay, khi đời sống của người dân ngày một nâng cao thì nhu cầu tiêu

thụ các sản phẩm thịt có giá trị dinh dưỡng, đặc biệt là thịt lợn chất lượng cao ngày
một tăng. Bên cạnh đó, cùng với các chính sách quan tâm của Đảng và Nhà nước đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi phát triển.
Mục tiêu chính của người chăn nuôi lợn nái sinh sản là tạo ra được con nái
khỏe mạnh để sản xuất ra đàn lợn con có sức khỏe tốt, không bị ỉa chảy gây còi cọc,
chậm lớn, nhằm đạt chất lượng tốt nhất. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này người
chăn nuôi phải chăm sóc, nuôi dưỡng tốt cho lợn với khẩu phần ăn của nái ở các
giai đoạn sinh trưởng phát triển và thời kỳ mang thai hợp lý, đáp ứng đầy đủ dinh
dưỡng cả về lượng và chất, quản lý chuồng trại, vệ sinh sạch sẽ lợn và chuồng nuôi.
Đặc biệt chú ý đến các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng cường sức đề kháng để chống
lại các tác nhân gây bệnh cho lợn.
Để đạt được mục tiêu trên ngoài việc tăng nhanh số đầu lợn, ngành chăn nuôi
nước ta đang từng bước đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tế sản xuất. Đầu tư
cho công tác giống, quan tâm đến vấn đề thức ăn, nước uống, công tác thú y trong
phòng, chống dịch bệnh.
Hội chứng viêm tử cung, viêm vú, mất sữa (MMA) trên đàn lợn nái sinh sản
với đặc điểm dịch tễ hết sức phức tạp và do rất nhiều nguyên nhân gây ra như:
Thức ăn kém phẩm chất, không cân đối, điều kiện môi trường, chuồng trại,
phương pháp thụ tinh cho lợn nái,… đang gây thiệt hại đáng kể đến năng suất,
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 2

chất lượng đàn vật nuôi.
Hội chứng MMA ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh sản của lợn nái,
giảm số lứa đẻ/năm hoặc mất khả năng sinh sản của lợn nái. Ngoài ra, hội chứng
MMA làm cho số lượng và chất lượng sữa của lợn nái giảm, đây là nguyên nhân
ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ lợn con mắc bệnh tiêu chảy trong giai đoạn bú sữa
mẹ tăng cao, khối lượng lợn con sau cai sữa thấp.
Do đó để nâng cao được chất lượng và hiệu quả của chăn nuôi lợn nái sinh sản,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hội chứng viêm tử cung, viêm

vú, mất sữa (MMA) trên đàn lợn nái sinh sản nuôi theo mô hình nông hộ tại huyện
Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, thử nghiệm một số biện pháp phòng, trị”.
2. Mục tiêu của đề tài
Đánh giá được thực trạng của hội chứng MMA (viêm tử cung, viêm vú, mất
sữa) ở đàn lợn nái nuôi theo mô hình nông hộ huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh.
Đánh giá được sự ảnh hưởng của hội chứng MMA đến năng suất sinh sản của
lợn nái.
Xác định mối quan hệ giữa hội chứng MMA ở lợn nái với tỷ lệ mắc bệnh tiêu
chảy của lợn con đang trong giai đoạn bú mẹ.
Đưa ra được các biện pháp phòng và trị hội chứng MMA ở lợn nái.











Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 3


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Cấu tạo, chức năng cơ quan sinh dục của lợn cái
Cơ quan sinh dục của lợn cái được chia thành bộ phận sinh dục bên trong và bộ

phận sinh dục bên ngoài. Bộ phận sinh dục bên trong gồm buồng trứng, ống dẫn trứng,
tử cung, âm đạo. Bộ phận sinh dục bên ngoài gồm âm môn, âm vật, tiền đình.
Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm
trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình
bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng.
Buồng trứng có 2 chức năng cơ bản là tạo ra giao tử cái và tiết các hormone
như oestrogen, progesterone, oxytoxin, relaxin và inhibin. Các hormone này tham
gia vào việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn nái. Oestrogen cần thiết cho sự phát
triển của tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng tiết ra
giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích sự phân tiết của tử cung để nuôi dưỡng
thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú.
Oxytoxin được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng được tiết bởi
thể vàng ở buồng trứng khi gia súc gần sinh, làm co thắt cơ tử cung lúc đẻ và cũng
làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở lợn, relaxin do thể vàng tiết ra để gây
giãn nở xương chậu, làm giãn và mềm cơ tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục
khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết kích tố noãn FSH (Folliculo
Stimulating Hormone) từ tuyến yên, do đó ức chế sự phát triển nang noãn theo chu
kỳ (Trần Thị Dân, 2004).
Ở bề mặt ngoài của buồng trứng có một lớp liên kết được bao bọc bởi lớp
biểu mô hình lập phương. Bên dưới lớp này là lớp vỏ chứa các noãn nang, thể vàng,
thể trắng (thể vàng thoái hóa). Phần tủy của buồng trứng nằm ở giữa, gồm có mạch
máu, dây thần kinh, mạch bạch huyết và mô liên kết. Miền vỏ có tác dụng về sinh dục
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 4

vì ở đó xẩy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. Trên buồng trứng có từ 70.000 –
100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những noãn bào sơ
cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng,
khi noãn bào chín sẽ nổi nên bề mặt buồng trứng (Khuất Văn Dũng, 2005).

Có 4 loại noãn nang trong buồng trứng gồm noãn nang nguyên thủy, noãn
nang bậc 1, noãn nang bậc 2, noãn nang bậc 3. Noãn nang nguyên thủy nhỏ nhất và
được bao bọc bởi lớp tế bào vẩy. Noãn nang nguyên thủy phát triển thành noãn nang
bậc 1, nó được bao bọc bởi một lớp tế bào biểu mô hình lập phương (tế bào nang).
Khi được sinh ra buồng trứng đã có sẵn 2 loại noãn nang này. Noãn nang bậc 1
có thể bị thoái hóa hoặc phát triển thành noãn nang bậc 2, có 2 hoặc nhiều lớp tế
bào nang nhưng không có xoang nang (là khoảng trống chứa dịch nang). Noãn nang
có xoang được xem như noãn nang bậc 3, chứa dịch nang và có thể trở nên trội hẳn
để chuẩn bị xuất noãn (nang Graaf).
Noãn nang có xoang bao gồm 3 lớp: lớp bao ngoài, lớp bao trong và lớp tế bào
hạt. Lớp bao ngoài là mô liên kết lỏng lẻo, lớp bao trong sản xuất androgen dưới tác
dụng của LH. Lớp tế bào hạt tách rời lớp bao trong bởi màng đáy mỏng. Tế bào hạt
sản xuất nhiều chất sinh học và trên bề mặt tế bào có thụ thể (receptor) tiếp nhận
kích thích tố LH. Những chất quan trọng được sản xuất bởi tế bào hạt là oestrogen,
inhibin và dịch nang.
Khi nang Graaf xuất noãn, những mạch máu nhỏ bị vỡ và gây xuất huyết tại
chỗ. Sau khi xuất noãn phần còn lại của nang noãn cùng với vết xuất huyết được gọi
là thể xuất huyết với kích thước nhỏ hơn nang noãn nhiều lần. Sau đó tế bào bao
trong và tế bào hạt biệt hóa thành tế bào thể vàng để tạo nên thể vàng.
Ống dẫn trứng (Oviductus)
Ống dẫn trứng hay còn gọi là vòi Fallop gồm có phễu, phần rộng và phần eo.
Phễu mở ra để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện
tích tiếp xúc với buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng.
Phần rộng chiếm khoảng 1/2 chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương
đối lớn và mặt trong có nhiều nếp gấp với tế bào biểu mô có lông nhỏ.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 5

Phần eo tiếp nối với sừng tử cung, nó có thành dày hơn phần rộng và ít nếp
gấp hơn.

Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi
thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng), tiết các chất để nuôi
dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết các
chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp giáp
giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến phần
rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung.
Ở lợn, sự co thắt của nơi tiếp giáp eo - tử cung tạo thành cái cản đối với tinh
trùng để không có quá nhiều tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện
tượng nhiều tinh trùng xâm nhập noãn.
Tử cung (Uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu
đạo, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại chỗ nhờ sự bám
của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với một thân và
cổ tử cung.
Sừng tử cung dài 50 - 1000cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
Thân tử cung dài 3 - 5cm.
Cổ tử cung lợn dài 10 - 18cm, có thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp theo
kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.
Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: Lớp tương mạc, lớp cơ trơn,
lớp nội mạc.
Lớp tương mạc là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và nối tiếp
vào hệ thống các dây chằng.
Lớp cơ trơn gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài. Giữa 2
tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là nhiều tĩnh mạch
lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi hướng làm thành mạng vừa
dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khoẻ nhất trong cơ thể. Do vậy, nó có đặc
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 6


tính co thắt (Đặng Đình Tín, 1986).
Trương lực co càng cao (tử cung trở nên cứng) khi có nhiều oestrogen trong
máu và trương lực co giảm (tử cung mềm) khi có nhiều progesterone trong máu. Vai
trò của cơ tử cung là góp phần cho sự di chuyển của tinh trùng và chất nhày trong tử
cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi sinh đẻ. Khi mang thai, sự co thắt của cơ tử cung
giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung
(Trần Thị Dân, 2004).
Lớp nội mạc tử cung là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế bào
biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung. Nhiều tế bào
biểu mô kéo dài thành lông rung, khi lông rung động thì gạt những chất nhày tiết ra
về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi
thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển đến ống
dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của oestrogen, các tuyến tử cung phát triển từ lớp màng
nhày, xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại. Tuy nhiên, các tuyến chỉ đạt
được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của progesterone. Sự phân tiết của
tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn của chu kỳ động dục.
Âm đạo (Vagina)
Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu sau thông
ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là màng trinh.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, đồng thời
là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất dịch từ
tử cung.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo
liên kết với các lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm mạc âm đạo.
Lớp niêm mạc âm đạo, trên bề mặt có nhiều thượng bì gấp nếp dọc, âm đạo
là cơ quan giao cấu của lợn nái, tinh dịch được phóng ra và đọng lại ở đó. Âm đạo

Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 7

lợn dài 10 - 12cm (Đặng Đình Tín, 1986).
Âm hộ (Vulva)
Nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó bởi vùng hội âm. Bên ngoài có 2 môi
đính với nhau ở mép trên và mép dưới. Môi âm hộ có sắc tố đen, tuyến mồ hôi, tuyến bã
tiết ra chất nhờn trong và hơi dính.
Âm vật (Clitoris)
Âm vật của con cái có cấu tạo như dương vật của con đực nhưng thu nhỏ lại
và là tạng cương của đường sinh dục cái, được dính vào phần trên khớp bán động
ngồi, bị bao xung quanh bởi cơ ngồi hổng.
Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh cảm giác,
lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalis)
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ. Tiền đình bao gồm:
Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía sau
thông với âm hộ. Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá niêm mạc
gấp lại thành một nếp.
Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể hổng ở
bao dương vật của con đực.
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hàng chéo, hướng quay về
âm vật.
1.2. Cấu tạo của tuyến vú
Tuyến vú có cấu tạo hình chùm nho phức tạp và có nguồn gốc từ da.
- Núm vú ở lợn có nhiều đôi vú từ vùng ngực đến vùng bẹn (thường có từ 6 -
8 đôi). Đầu núm vú có 2 - 3 ống dẫn thông với các ống dẫn sữa lớn. Đầu núm vú là
thụ quan ngoài quan trọng góp phần điều hoà phản xạ tiết sữa.
- Bao tuyến do những tế bào biểu mô phân tiết tạo thành, là nơi sản sinh ra

sữa. Các bao tuyến giống như những túi nhỏ và những ống dẫn nhỏ trực tiếp
thông với xoang bao tuyến.
- Ống dẫn sữa các ống dẫn sữa đầu tiên là các ống dẫn nhỏ, sau đó tập trung
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 8

thành các ống dẫn trung bình, ống dẫn lớn. Ở lợn không có bể sữa.
Bao tuyến và các ống dẫn sữa nhỏ có các tế bào biểu mô bao bọc tầng bên
ngoài. Những tế bào biểu mô đó co bóp để cho sữa ở trong xoang bao tuyến thải ra.
Ống dẫn sữa và bể sữa có các sợi cơ trơn bao bọc ở xung quanh, các sợi cơ này co
bóp để giúp cho quá trình thải sữa.
Các mô liên kết, mô mỡ bao quanh toàn bộ tuyến vú, đồng thời các mô này
đi sâu vào bên trong tạo thành các thuỳ nông, thuỳ sâu, chia tuyến vú thành nhiều
thuỳ nhỏ. Trong các thuỳ có nhiều sợi đàn hồi và khi sữa tích lại trong tuyến vú thì
toàn bộ bầu vú căng ra.
Trong các bao tuyến có hệ thống mạch quản dày đặc. Trong đó hệ tĩnh mạch
của tuyến vú phát triển hơn hệ động mạch của tuyến vú nhiều lần. Hệ thống mạch
quản của tuyến vú có chức năng mang chất dinh dưỡng và oxy đến cung cấp cho
bao tuyến và là nguyên liệu để hình thành nên sữa.
Tuyến vú có nguồn gốc thần kinh từ thần kinh tuỷ sống và giao cảm. Thần
kinh tuỷ sống có hai nhánh: nhánh lưng và nhánh bụng. Nhánh lưng (sợi truyền
vào) chi phối da và đầu vú, nhánh bụng (sợi truyền ra) chi phối các bao tuyến. Thần
kinh giao cảm chi phối tuyến vú bắt nguồn từ thần kinh giao cảm đốt sống hông 2 -
4, thần kinh hai bên cột sống. Ngoài ra tuyến vú còn có thần kinh cảm giác, vận
động, vận mạch và phân tiết.
Gia súc còn non thì tuyến vú của con đực và con cái đều giống nhau. Khi
gia súc cái sinh trưởng và phát dục thì các mô liên kết và mô mỡ tuyến vú tăng dần
làm cho thể tích của tuyến vú tăng dần lên. Khi gia súc đến giai đoạn thành thục về
tính thì tuyến vú của con cái bắt đầu phát triển. Các ống dẫn, sinh trưởng nhanh và
phát triển nhiều nhánh nhỏ phức tạp, đồng thời thể tích bầu vú và đầu vú cũng bắt

đầu to dần.
1.3. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái
Đặc điểm sinh lý sinh dục của gia súc nói chung và loài lợn nói riêng đặc
trưng cho loài, có tính ổn định với từng giống vật nuôi. Nó được duy trì qua các thế
hệ và luôn củng cố hoàn thiện qua quá trình chọn lọc. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 9

của một số yếu tố như: ngoại cảnh, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc,…
Để đánh giá đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn cái. Theo Nguyễn Xuân Tịnh và
cs (1998), người ta thường tập trung nghiên cứu, theo dõi các chỉ tiêu dưới đây.

1.3.1. Tuổi thành thục về tính
Tuổi thành thục về tính được đánh dấu khi con vật bắt đầu có phản xạ sinh
dục và có khả năng sinh sản. Lúc này tất cả các bộ phận sinh dục như: buồng trứng,
tử cung, âm đạo,… đã phát triển hoàn thiện và có thể bắt đầu bước vào hoạt động
sinh sản, đồng thời với sự phát triển hoàn thiện bên trong thì ở bên ngoài các bộ
phận sinh dục phụ cũng xuất hiện và gia súc có phản xạ về tính hay xuất hiện hiện
tượng động dục.
Tuy nhiên thành thục về tính sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, tính biệt
và các điều kiện ngoại cảnh cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng.
Giống
Các giống lợn khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau, những giống
có thể vóc nhỏ thường thành thục về tính sớm hơn những giống có thể vóc lớn.
Tuổi thành thục về tính của lợn cái nội và lợn cái lai muộn hơn lợn cái nội
thuần chủng (Móng Cái, Ỉ, Mường Khương,…). Các giống lợn cái nội thường có
tuổi thành thục vào 4 – 5 tháng tuổi, lợn ngoại là 6 – 8 tháng tuổi (thường động dục
lần đầu ở 6 tháng tuổi).
Điều kiện nuôi dưỡng và quản lý
Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất lớn đến tuổi thành thục của lợn nái. Cùng một

giống nhưng nếu được nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý tốt, gia súc phát triển tốt thì
sẽ thành thục về tính sớm hơn và nếu nuôi dưỡng, chăm sóc, quản lý không tốt thì
gia súc sẽ thành thục về tính muộn hơn.
Điều kiện ngoại cảnh
- Khí hậu và nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tuổi thành thục về tính của gia súc.
Những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm thường thành thục về
tính sớm hơn những giống lợn nuôi ở vùng có khí hậu ôn đới và hàn đới.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 10

- Sự kích thích của con đực cũng ảnh hưởng tới sự thành thục của lợn cái hậu
bị. Nếu ta để một con đực đã thành thục về tính gần ô chuồng của những con cái
hậu bị. Trong quá trình chăn nuôi, cho thấy nếu cho lợn cái hậu bị tiếp xúc với lợn
đực 2 lần/ngày, với thời gian 15 – 20 phút thì 83% lợn cái (trọng lượng lớn hơn 90
kg) động dục lúc 165 ngày tuổi.
Lợn cái hậu bị nếu nuôi nhốt liên tục sẽ có tuổi động dục lần đầu dài hơn lợn
nuôi chăn thả. Vì lợn nuôi có thời gian chăn thả sẽ tăng cường trao đổi chất, tổng
hợp được sinh tố, môi trường sống tự do tác động và có dịp tiếp xúc với lợn đực nên
có tuổi động dục lần đầu sớm hơn.
Tuy nhiên, một vấn đề cần lưu ý là tuổi thành thục về tính thường sớm hơn
tuổi thành thục về thể vóc. Vì vậy, để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình
thường của lợn mẹ và đảm bảo những phẩm chất giống của thế hệ sau nên cho gia
súc phối giống khi đã đạt số kg khối lượng cơ thể nhất định tùy theo giống. Ngược
lại, cũng không nên cho gia súc phối giống quá muộn làm ảnh hưởng tới khả năng
sinh sản của gia súc cái, đồng thời ảnh hưởng tới thế hệ sau của chúng.
1.3.2. Chu kỳ tính
Từ khi thành thục về tính những biểu hiện tính dục của lợn được diễn ra liên
tục và có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển lớn dần, chín và nổi
cộm trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ trứng rụng gọi
là sự rụng trứng. Mỗi lần trứng rụng con cái có biểu hiện ra bên ngoài gọi là động

dục. Do trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng theo chu kỳ (Trần Tiến Dũng,
Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh, 2002).
Thời gian động dục của lợn nái nội từ 3 – 4 ngày, của lợn nái ngoại từ 4 - 5
ngày, của lợn nái hậu bị ngoại có thể dài hơn từ 5 – 7 ngày. Một chu kỳ tính của lợn
nái dao động trong khoảng từ 18 – 22 ngày, trung bình là 21 ngày. Biểu hiện động
dục của lợn nái tùy thuộc vào giống, tuổi và cá thể. Toàn bộ thời gian động dục của
lợn nái có thể chia thành 4 giai đoạn: giai đoạn trước động dục, giai đoạn động dục,
giai đoạn sau động dục, giai đoạn nghỉ ngơi.
Giai đoạn trước động dục
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 11

Là giai đoạn đầu tiên của chu kỳ tính, kéo dài 1 - 2 ngày, là thời gian chuẩn
bị đầy đủ cho đường sinh dục của lợn cái đón nhận tinh trùng, cũng như đảm bảo
các điều kiện cho trứng và tinh trùng gặp nhau để thụ thai.
Trong giai đoạn này có sự thay đổi rõ cả về trạng thái của cơ thể cũng như
trạng thái thần kinh. Ở giai đoạn này các noãn bao phát triển mạnh, thành thục và
nổi rõ trên bề mặt buồng trứng, kích thước noãn bao thay đổi rất nhanh, ở đầu giai
đoạn này noãn bao có đường kính là 4mm, đến cuối giai đoạn noãn bao có đường
kính từ 10 - 12mm.
Các tế bào vách ống dẫn trứng tăng cường sinh trưởng, số lượng lông nhung
tăng, đường sinh dục bắt đầu xung huyết nhanh, hệ thống tuyến, âm đạo tăng tiết
dịch nhày, niêm dịch ở cổ tử cung tiết ra làm cổ tử cung hé mở. Các noãn bao chín,
tế bào trứng tách khỏi noãn bao. Tử cung co bóp mạnh, cổ tử cung mở ra, niêm dịch
chảy nhiều.
Con vật bắt đầu động dục do hàm lượng progesterone giảm xuống đột ngột
nên con vật thay đổi tính nết, kêu rít, bỏ ăn hoặc kém ăn, phá chuồng, tai đuôi ve
vẩy, thích gần lợn đực, nếu nhốt nhiều con thì thích nhẩy lên lưng con khác, âm hộ
đỏ tươi sưng mọng, hơi mở có màu hồng tươi, cuối giai đoạn có dịch nhờn chảy ra
nhưng chưa chịu cho đực nhảy.

Giai đoạn động dục
Giai đoạn tiếp theo và thường kéo dài từ 2 - 3 ngày, tính từ khi tế bào trứng
tách khỏi noãn bao. Giai đoạn này các biến đổi của cơ quan sinh dục rõ nét nhất,
niêm mạc âm hộ xung huyết, phù thũng rõ rệt và chuyển sang màu mận chín, niêm
dịch từ âm đạo chảy ra nhiều, keo đặc hơn, nhiệt độ âm đạo tăng từ 0,3 - 0,7
0
C, pH
hạ hơn trước.
Con vật biểu hiện tính hưng phấn cao độ, đứng ngồi không yên, phá chuồng,
ăn uống giảm, hoặc bỏ ăn, kêu rống trong trạng thái ngẩn ngơ, thích nhảy lên lưng
con khác hoặc để con khác nhảy lên lưng mình. Ở giai đoạn này, lợn thích gần đực,
khi gần đực thì luôn đứng ở tư thế sẵn sàng chịu đực, đuôi cong lên và lệch sang
một bên, 2 chân sau dạng ra và hơi khụy xuống sẵn sàng chịu đực.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 12

Nếu ở giai đoạn này, tế bào trứng gặp tinh trùng và xảy ra quá trình thụ tinh
tạo thành hợp tử thì chu kỳ sinh dục ngừng lại, gia súc cái ở vào giai đoạn có thai,
đến khi đẻ xong một thời gian nhất định tuỳ loài gia súc thì chu kỳ sinh dục mới lại
bắt đầu. Nếu không xảy ra quá trình thụ tinh thì lợn cái sẽ chuyển sang giai đoạn
tiếp theo của chu kỳ tính.
Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn này kéo dài khoảng 2 ngày, toàn bộ cơ thể nói chung và cơ quan sinh
dục nói riêng dần trở lại trạng thái sinh lý bình thường. Trên buồng trứng, thể hồng
chuyển thành thể vàng, đường kính lên tới 7 - 8 mm và bắt đầu tiết progesterone.
Progesterone tác động lên vùng dưới đồi theo cơ chế điều hoà ngược làm giảm tiết
oestrogen, từ đó làm giảm tính hưng phấn thần kinh, con vật dần chuyển sang trạng
thái yên tĩnh, chịu ăn uống hơn, âm hộ giảm độ nở, se nhỏ và thâm, đuôi cụp không
cho con đực phối.
Giai đoạn nghỉ ngơi

Giai đoạn này kéo dài từ 10 - 12 ngày, bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi rụng
trứng mà không được thụ tinh và kết thúc khi thể vàng tiêu huỷ. Đây là giai đoạn
con vật hoàn toàn yên tĩnh, cơ quan sinh dục hoạt động trở lại trạng thái sinh lý bình
thường, trong buồng trứng thể vàng bắt đầu teo đi, noãn bao bắt đầu phát dục nhưng
chưa nổi rõ trên bề mặt buồng trứng. Toàn bộ cơ quan sinh dục dần xuất hiện những
biến đổi chuẩn bị cho chu kỳ sinh dục tiếp theo.
Trong chăn nuôi lợn nái sinh sản, nắm được chu kỳ tính và các giai đoạn của
quá trình động dục sẽ giúp cho người chăn nuôi có chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc
phù hợp và phối giống kịp thời, đúng thời điểm, từ đó góp phần nâng cao năng suất
sinh sản của lợn nái.
- Cơ chế động dục
Chu kỳ động dục của lợn nái được điều khiển bởi 2 yếu tố thần kinh và thể
dịch. Khi các nhân tố ngoại cảnh như: ánh sáng, nhiệt độ, mùi con đực,… tác động
và kích thích vùng dưới đồi (hypothalamus) giải phóng ra các yếu tố tác động lên
tuyến yên, kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH (Folliculo Stimulin Hormone)
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 13

và LH (Lutein Stimulin Hormone).
FSH kích thích noãn bao phát triển đồng thời cùng với LH làm cho noãn bao
thành thục, chín và rụng trứng. Khi noãn bao phát triển và thành thục, tế bào hạt
trong thượng bì bao noãn tiết ra oestrogen chứa đầy trong xoang bao noãn. Khi hàm
lượng hormone này trong máu đạt 64 - 112% sẽ kích thích con vật có những biểu
hiện động dục. Đồng thời dưới tác động của oestrogen cơ quan sinh dục biến đổi: tử
cung hé mở, âm hộ, âm đạo sung huyết, tiết niêm dịch, sừng tử cung và ống dẫn
trứng tăng sinh tạo điều kiện cho sự làm tổ của hợp tử sau này.
Cuối chu kỳ động dục thì oestrogen lại kích thích tuyến yên tiết ra LH và
giảm tiết FSH. Khi lượng LH/FSH đạt tỷ lệ 3/1 thì sẽ kích thích cho trứng chín và
rụng trứng.
Sau khi trứng rụng thể vàng được hình thành ở nơi bao noãn vỡ ra. Thể vàng

tiết progesterone giúp cho quá trình chuẩn bị tiếp nhận hợp tử ở sừng tử cung, đồng
thời sẽ ức chế tiết GSH (Gonado Stimulin Hormone) của tuyến yên và làm cho bao
noãn trong buồng trứng của lợn cái không phát triển được và kết thúc một chu kỳ
động dục.
Nếu lợn nái có chửa thì thể vàng sẽ thoái hóa sau khi lợn đã đẻ và nuôi con,
lúc này tuyến yên không bị progesterone ức chế nữa nên lại sản sinh ra FSH, bao
noãn mới lại bắt đầu phát dục và đi vào một chu kỳ mới. Nếu lợn nái không có chửa
thể vàng sẽ tồn tại khoảng trên dưới 17 ngày sẽ thoái hóa và bao noãn mới lại phát
dục và đến 21 ngày lại xuất hiện một chu kỳ động dục kế tiếp.
1.4. Sinh lý đẻ
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), gia
súc cái mang thai trong một thời gian nhất định tuỳ từng loài gia súc, khi bào thai
phát triển đầy đủ, duới tác động của hệ thống thần kinh - thể dịch, con mẹ sẽ xuất
hiện những cơn rặn để đẩy bào thai, nhau thai và các sản phẩm trung gian ra ngoài,
quá trình này gọi là quá trình đẻ.
Khi gần đẻ con cái sẽ có những triệu chứng biểu hiện: Truớc khi đẻ 1 - 2
tuần, nút niêm dịch ở cổ tử cung và đường sinh dục lỏng, sánh dính và chảy ra
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 14

ngoài. Trước khi đẻ từ 1 - 2 ngày, cơ quan sinh dục bên ngoài bắt đầu có những
thay đổi: Âm môn phù to, nhão ra và gây sung huyết nhẹ, đầu núm to, bầu vú căng
to, sữa bắt đầu tiết.
Ở lợn, sữa đầu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để xác định gia súc đẻ.
Trước khi đẻ 3 ngày, hàng vú giữa vắt ra sữa trong.
Trước khi đẻ 1 ngày hàng vú giữa vắt được sữa đầu.
Trước khi đẻ ½ ngày, hàng vú trước vắt được sữa đầu.
Trước khi đẻ 2 – 3 giờ, hàng vú sau vắt được sữa đầu.

Cơ chế đẻ

Đẻ là một quá trình sinh lý phức tạp chịu sự điều hòa của cơ chế thần kinh -
thể dịch, với sự tham gia tác động cơ giới của thai đã thành thục.
- Về mặt cơ giới thai trong tử cung cơ thể mẹ sinh trưởng và phát triển một
cách tối đa. Ở thời kỳ cuối, thai to tiếp giáp với tử cung, thai chèn ép xoang bụng,
đè mạnh vào cơ quan sinh dục, ép chặt mạch máu và đám rối thần kinh hông -
khum, làm kích thích truyền về thần kinh trung ương, điều tiết hormone gây đẻ. Mặt
khác thai chèn ép còn đạp vào tử cung làm tử cung co bóp, sự co bóp tăng theo thời
gian, kể cả cường độ và tần số, dẫn đến tử cung mở và thoát ra ngoài.
- Nội tiết trong thời gian mang thai, thể vàng và nhau thai cùng tiết ra
progesterone, hàm lượng progesterone trong máu tăng tạo nên trạng thái an thai. Đến
kỳ chửa cuối, thể vàng teo dần và mất hẳn nên hàm lượng progesterone giảm (còn
0,22%). Đồng thời tuyến yên tiết oxytoxin, nhau thai tăng tiết relaxin làm giảm thể
trạng xương chậu và mở cổ tử cung, tăng tiết oestrongen làm tăng độ mẫn cảm của cổ
tử cung với oxytoxin trước khi đẻ.
- Biến đổi quan hệ giữa cơ thể mẹ và nhau thai khi thai đã thành thục thì
quan hệ sinh lý giữa mẹ và nhau thai không còn cần thiết nữa, lúc này thai đã trở
thành một ngoại vật trong tử cung nên sẽ được đưa ra ngoài bằng động tác đẻ.
Thời gian đẻ kéo dài hay ngắn tuỳ từng loài gia súc, ở lợn thường từ 2- 6 giờ,
nó được tính từ khi cổ tử cung mở hoàn toàn đến khi bào thai cuối cùng ra ngoài.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 15

1.5. Khoảng cách giữa các lứa đẻ
Khoảng cách giữa các lứa đẻ là chỉ tiêu quan trọng đánh giá khả năng sinh sản
của gia súc cái. Đây là tính trạng tổng hợp bao gồm thời gian có chửa, thời gian bú
sữa, thời gian từ cai sữa đến thụ thai lứa sau, do vậy khoảng cách giữa lứa đẻ ảnh
hưởng đến số con cai sữa/nái/năm, số lứa đẻ của nái/năm.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy thời gian mang thai của các giống lợn
dao động không đáng kể trong khoảng 113 - 115 ngày, đây là yếu tố ít biến đổi,
không chịu ảnh hưởng bởi các kích thích bên ngoài cũng như kích thích của thai.

Để rút ngắn khoảng cách lứa đẻ ta chỉ có thể tác động bằng cách rút ngắn thời
gian bú sữa và cai sữa sớm ở lợn con. Nhiều công trình nghiên cứu đã kết luận: Để
rút ngắn thời gian sau đẻ đến phối giống lại có kết quả thì phải chăm sóc nuôi dưỡng
tốt và đặc biệt phải cai sữa sớm lợn con, điều đó làm tăng số con cai sữa/nái/năm,
tăng số lứa đẻ của nái/năm. Để rút ngắn thời gian cai sữa, phải tập cho lợn con ăn
sớm từ 5 - 7 ngày tuổi đến khi lợn con có thể sống bằng thức ăn được cung cấp,
không cần sữa mẹ (Lê Thanh Hải và cs, 1994).
Hiện nay tại các nông hộ, thời gian cai sữa ở lợn con là 21 ngày, sau cai sữa
5 - 6 ngày nái được phối giống. Như vậy, khoảng cách giữa các lứa đẻ tại các nông
hộ hiện nay trung bình là 140 -150 ngày, sản xuất được 2,5 lứa/năm.
1.6. Sinh lý tiết sữa của lợn nái
Sự tiết sữa của lợn nái trong quá trình nuôi con là một quá trình sinh lý phức
tạp, do có những đặc điểm khác với các gia súc khác là bầu vú của lợn nái không có
bể sữa nên ở lợn nái không có dự trữ sữa trong bầu vú. Do vậy lợn mẹ không tiết
sữa tùy tiện được và lợn con không phải lúc nào cũng bú được sữa mẹ.
Quá trình tiết sữa của lợn nái là một quá trình phản xạ, do những kích thích
vào bầu vú gây nên, được chia làm hai quá trình:
Quá trình tổng hợp sữa
Quá trình tổng hợp sữa được điều tiết theo cơ chế thần kinh và thể dịch.
Dưới tác động của FSH và LH các tế bào thượng bì tuyến vú, tế bào mạch quản tổ
chức phát triển mạnh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông nghiệp
Page 16

Prolactin là hormone thuỳ trước tuyến yên kích thích tế bào nang tuyến tổng
hợp sữa từ những nguyên liệu lấy trong máu. Các nguyên liệu lấy trong máu nhờ
vai trò của các hormone: STH, TSH, glucagons,… STH kích thích quá trình trao đổi
lactoza, cazein, MgSO
4
, kháng thể. Cazein trong sữa được tổng hợp được từ

glucoza, fructoza ở huyết tương. Mỡ sữa được tổng hợp từ glycerin và axit béo.
Quá trình thải sữa
Quá trình thải sữa cũng nhờ cơ chế thần kinh thể dịch. Khi lợn con bú tạo
cảm giác truyền về thần kinh trung ương đến vùng dưới đồi kích thích tuyến yên tiết
oxytoxin. Oxytoxin kích thích hệ cơ trơn đầu vú co bóp đẩy sữa ra ngoài.
Sự tiết sữa của lợn nái là không đồng đều thể hiện:
- Sữa lợn mẹ tiết ra trong vòng 2 – 3 ngày đầu sau khi đẻ gọi là sữa đầu. Sữa
đầu có đặc điểm là màu vàng đặc và hơi mặn, khi đun dễ ngưng kết. Thành phần
dinh dưỡng của sữa đầu khác hẳn so với sữa thường. Trong sữa đầu có các thành
phần như 11,15% protein; 5,91% mỡ; 3,79% đường; 11,48% albumin; 12,7% α-
globulin; 11,29% β-globulin và 45,29% γ-globulin. Đây chính là các kháng thể có
chức năng miễn dịch cho lợn con nếu lợn con được bú ngay lượng sữa đầu. Tuy
nhiên hàm lượng khoáng, chất béo và đường lactose lại thấp hơn sữa thường.
- Sự tiết sữa không đều theo lứa đẻ, sản lượng sữa tăng dần từ lứa đẻ 1 đến
lứa đẻ 5, từ lứa đẻ 6 trở đi sản lượng sữa sẽ giảm dần.
1.7. Hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản
Hội chứng MMA ở lợn nái sinh sản có rất nhiều nguyên nhân gây nên. Do
các vi khuẩn cơ hội như Pseudomonas, Escherichia coli, Staphylococcus,
Streptococcus,… có sẵn trong môi trường chăn nuôi kết hợp với những yếu tố vệ
sinh thú y, thức ăn, nước uống, điều kiện ngoại cảnh bất lợi và công tác chăm sóc
nuôi dưỡng cho lợn trước và sau khi sinh không tốt sẽ gây bệnh.
Lợn mắc hội chứng MMA trong vòng 12 – 72 giờ sau khi sinh có các biểu
hiện triệu chứng lợn sốt, mệt mỏi, giảm ăn. Viêm vú, bầu vú bị viêm sưng to nhưng
không có sữa, sờ vào thấy cứng, lợn có biểu hiện đau khi sờ nắn và không muốn
cho con bú. Viêm tử cung, âm hộ thường xuyên chảy dịch nhầy trắng, có lẫn mủ, có

×