Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

phân tích cảm hứng về quê hương đất nước qua bài thơ bên kia sông đuống đất nước và việt bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.29 KB, 5 trang )

Phân tích cảm hứng về quê hương đất nước qua bài thơ
Bên kia sông đuống, Đất nước và Việt Bắc
Đề bài: Tình quê hương đất nước ta một nét nổi bật của thơ thời kì kháng chiến chống
Pháp (1946 – 1954). Phân tích những nét chung và đặc điểm riêng của cảm hứng về quê
hương đất nước trong các bài thơ Bên kia sông Đuống (Hoàng cầm), Đất nước (Nguyễn
Đình Thi), Việt Bắc (Tố Hữu).
Trong văn học nước ta, chủ đề tình yêu quê hương đất nước luôn được đặt ở vị trí thiêng liêng
nhất, trang trọng nhất và trở thành nguồn thi hứng dồi dào, bất tận của bao thế hệ nhà thơ.
Qua mỗi giai đoạn văn học, đất nước hiện lên trong thơ ca với những vẻ đẹp khác nhau. Đến giai
đoạn kháng chiến chống Pháp, tình quê hương đất nước đã trở thành nét chủ đạo trong nội dung
thơ ca. Các nhà thơ – chiến sĩ có dịp đặt chân trên khắp các nẻo đường Tổ quốc nên cảm hứng về
đất nước càng dạt dào, bay bổng.
Bên kia sống Đuống (Hoàng cầm), Việt Bắc (Tố Hữu) và Đất nước (Nguyễn Đình Thi) vừa có
những nét chung, vừa có những nét riêng làm nên vẻ đẹp của từng bài thơ.
Bắt đầu bài thơ Bên kia sống Đuống là vẻ đẹp của con sống hiền hòa: cát trắng phẳng lì, một
dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc… Đó là cảnh thanh bình no ấm
của quê hương. Trong kí ức nhà thơ, vùng đất Kinh Bắc hiện lên với tất cả vẻ đẹp truyền thống
của nó. Nhớ tới quê hương, làm sao quên được hương lúa nếp thơm nồng, với những bức tranh
dân gian Đông Hồ nổi tiếng, với màu sắc tươi vui, nội dung hiện thực và nét vẽ đậm đà, chân
chất rất Việt Nam:
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Rồi những hội hè, đình đám trên núi Thiên Thai, trong chùa Bút Tháp, xôn xao, rạo rực với bao
làn điệu dân ca quan họ thắm thiết nghĩa tình, với những chàng trai, cô gái dập dìu trẩy hội mùa
xuân.


Quê hương là cảnh, là người. Con người quê hương để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng tác giả:
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu, Những cụ già phơ phơ tóc trắng, Những em sột soạt quần
nâu… Những cô hàng xén răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng, Những nàng dệt sợi, đi bán lụa
màu, Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh, Huê Cầu… Thiên nhiên, con người, cuộc sống… tất


cả dệt nên bức tranh hài hòa, tươi đẹp của quê hương bên kia sống Đuống.
Nhưng giờ đây, giặc thù kéo đến ngùn ngụt lửa hung tàn, chúng đi tới đâu tàn phá tới đó, điên
cuồng như bầy chó ngộ, khiến quê hương của nhà thơ tan tác, điêu linh: Ruộng ta khô, Nhà ta
cháy…, Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang…
Nào chỉ đau đớn ở vật chất? Quân giặc đốt phá, giết chóc… nhưng đó mới chỉ là những vết
thương trước mắt nhìn thấy rõ, còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?
Truyền thống văn hóa, quan niệm về cội nguồn sự sống của ông cha ta nay cũng bị giặc tàn phá,
hủy diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn?
Nhà cửa, đất đai, ruộng vườn bị giày xéo tan hoang, con người cũng tan tác, chia li, phiêu dạt
không biết những nơi nào… Cuộc sống thường ngày của người dân thể hiện qua hình tượng mẹ
già còm cõi với gánh hàng rong trên vai cũng bị giặc chà đạp không thương tiếc. Bài thơ không
chỉ là nỗi đau của một người mà còn là của cả quê hương, lớn hơn nữa là nỗi đau của đất nước
đang quằn quại dưới gót giày quân xâm lược.
Cũng với đề tài đất nước, quê hương nhưng cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ Đất
nước lại khác. Nhà thơ suy ngẫm về đất nước trong hiện tại và quá khứ khổ đau, tủi nhục: Nước
Việt Nam từ máu lửa, Rũ bùn đứng dậy sáng lòa, từ sau Cách mạng tháng Tám 1945. Tâm hồn
nhà thơ rộng mở đón nhận niềm vui to lớn của đất trời giải phóng. Đứng giữa núi rừng bao la của
chiến khu Việt Bắc, nhà thơ như reo như hát lên niềm hạnh phúc tột cùng ấy:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Điệp khúc là của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa cỏ cây, sống núi. Tất cả những gì thân
yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng, tự hào hơn bốn tiếng
ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc ta phải đổ bao máu xương mới giành được chủ quyền.

Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong bài thơ này là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh
ngẩng cao đầu. Đất nước bội phần tươi đẹp vì đã về tay ta. Đoạn thơ với nhạc điệu rộn ràng, hình
ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ đẹp phong phú của đất nước
Việt Nam sau ngày độc lập. Các dòng thơ liên kết chặt chẽ cùng làm nổi bật lên ý nghĩa: niềm
kiêu hãnh, tự hào của người dân Việt Nam về chủ quyền độc lập, tự do, về đất nước quê hương
ngàn lần tươi đẹp.
Có được mùa thu đẹp hôm nay, nắm chủ quyền tự do độc lập trong tay, chúng ta không thể
không nghĩ đến sức mạnh đã làm nên nó. Đó chính là truyền thống bất khuất bốn ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Giọng thơ đang rộn ràng, náo nức ở đoạn trên, đến đoạn này chợt trở nên suy tư, trầm lắng. Nước
chúng ta, giản đơn ba chữ mà rất đỗi thiêng liêng.
Câu thơ tiếp theo như một lời khẳng định đầy tự hào: Nước những người chưa bao giờ khuất.
Đó là một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, bao phen chống ngoại xâm
có thắng có bại, song đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực quân thù.
Truyền thống oanh liệt ấy vẫn lưu truyền từ đời nay sang đời khác.

Anh linh, hùng khí tổ tiên như kết tụ lại trong lòng đất: Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, Những
buổi ngày xưa vọng nói về. Tiếng đất là tiếng của lịch sử dựng nước và giữ nước không ngơi
nghỉ, là tiếng ngày xưa vọng nói về hiện tại. Mồ hôi, xương máu của ông cha lắng đọng vào lòng
đất tự ngàn đời. Đất lặng im nhưng tiếng đất luôn rì rầm bên tai con cháu bao thế hệ kế tiếp. Quá
khứ anh hùng làm nền cho hiện tại anh hùng. Nói như Tố Hữu thì đây chính là tiếng của cha ông
thuở trước luôn nhắc nhở con cháu hãy giữ lấy đất nước thiêng liêng của tổ tiên để lại.
Cuối bài thơ, cảm hứng anh hùng ca được đẩy lên tới cao trào. Trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, khí thế dân ta ào ạt như nước vỡ bờ, làm rung chuyển những thành trì cuối cùng của quân
xâm lược. Từ bùn lầy, máu lửa, Việt Nam đã vùng đứng dậy, tự khẳng định mình trước thế giới:
Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ Nước
Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Đất nước, con người Việt Nam hiện lên qua bài thơ Việt Bắc với vẻ đẹp chân chất, mộc mạc mà
không kém phần hùng tráng, trữ tình. Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm là cái nền cho cảm
hứng thơ Tố Hữu bay bổng. Trong gian nan, máu lửa, tình giai cấp, nghĩa đồng bào gắn bó
thiêng liêng, tạo nên sức mạnh chiến thắng. Tình nghĩa ấy bắt nguồn từ sự đồng cam cộng khổ,
chia ngọt sẻ bùi của toàn Đảng, toàn dân, cùng chung vai gánh, vác sự nghiệp giải phóng dân
tộc:
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai ?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp được nhà thơ Tố Hữu miêu tả với tình cảm ưu ái đặc biệt. Mỗi tên
đất, tên núi, tên sống đều gắn liền với chiến công oanh liệt của quân dân ta:
Ai về ai có nhớ không ?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Trên khắp các nẻo đường Việt Bắc, đâu đâu cũng sục sôi khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến

toàn dân, toàn diện. Ta đánh giặc bằng tất cả sức mạnh tinh thần của quá khứ và hiện tại. Nhưng
bước chân rầm rập của bao đoàn quân điệp điệp, trùng trùng ứa ra mọi chiến trường làm rung
chuyển đất đai, sống núi. Toàn quân đánh giặc, toàn dân đánh giặc: Dân công đỏ đuốc từng đoàn,
gánh gạo, gánh đạn ra hỏa tuyến. Hình ảnh Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay… Đèn pha bật
sáng như ngày mai lên vừa đậm chất sử thi vừa dồn dập âm điệu như một khúc ca hùng tráng.
Không một trở lực nào có thể ngăn cản nổi bước chân của cả một dân tộc anh hùng đang tiến lên
phía trước giành chiến thắng. Trong bài thơ Việt Bắc, Tổ quốc, nhân dân, Đảng và lãnh tụ là một
khối thống nhất đại đoàn kết. Chưa bao giờ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng được phát huy cao độ đến như vậy. Đất nước Việt Nam, con người Việt Nam thủy chung,
kiên cường, bất khuất dã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội hoàn cầu.
Bên cạnh những hình ảnh hào hùng về đất nước, chúng ta bắt gặp bao cảnh hiền hòa, thơ mộng
như Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, những làng bản chim trong khói cùng sương,
những cánh rừng mơ hoa nở trắng ngày xuân, những đêm thu trăng sáng rộn ràng tiếng hát… Tất
cả phối hợp với nhau, tạo nên một bức tranh muôn màu, muôn vẻ về đất nước. Vẻ đẹp ấy được
nhân lên gấp bội bởi những con mắt biết nhìn, những trái tim biết rung cảm, gắn bó và chia sẻ.
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã ghi lại hình ảnh đất nước trong một giai đoạn lịch sử là cuộc
đấu tranh giải phóng vĩ đại của dân tộc. Những bài thơ ca ngợi đất nước chẳng những có tác
dụng cổ vũ nhân dân ta thời ấy mà còn là bài học quý báu về lòng yêu nước và tự hào dân tộc
cho các thế hệ hiện nay và mai sau.

×