Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận Luật Kinh tế HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.06 KB, 29 trang )

KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
LỚP K09404B


Mơn: Luật kinh tế
Đề tài:

HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ THỰC TIỄN

GVHD: Ths. Đào Thị Thu Hằng
Nhóm thực hiện: Nhóm 16 – K09404B

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................................2
1


CHƯƠNG 1 – KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG......................................................................3
III.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng.......................................................................4
III.2. Vai trị của tín dụng ngân hàng...........................................................................4
III.3.Quy trình tín dụng ngân hàng..............................................................................4
III.1.Một số điểm cần lưu ý trong hợp đồng tín dụng.............................................7
III.2.Quyền và nghĩa vụ của bên vay (Điều 56 luật các tổ chức các tổ chức tín
dụng 1997)................................................................................................................8
III.3. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay.................................................................9
III.4. Các đối tượng không được vay (Điều 77 luật các TCTD 1997).....................10
III.5. Các đối tượng hạn chế tín dụng (Điều 78 luật các TCTD 1997)..................10
III.6. Giới hạn tín dụng (Điều 79 luật các TCTD 1997).......................................10
I.1.a. Thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn chưa kết thúc..............................12


I.1.b. Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn.....................................................14

LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ quyết định Đổi mới sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đại
hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế nước ta đã có nhiều biến chuyển sâu sắc. Các
thành phần kinh tế đa dạng. Khu vực kinh doanh tư nhân, khu vực đầu tư nước
ngoài ngày càng đóng vai trị quan trọng trong cơ cấu GDP đất nước. Để duy trì và
phát triển hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh cần có một nguồn vốn dồi
dào và tín dụng là một kênh quan trọng cung cấp cho các doanh nghiệp, công ty…
Các tổ chức tín dụng mà nổi bật là các ngân hàng thương mại chính là những tổ
chức tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể kinh doanh tiếp xúc với nguồn tín dụng
tốt nhất.
Hiện nay, trong số các vụ tranh chấp dân sự, kinh tế thì tranh chấp về hợp
đồng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong đó phải kể đến tranh chấp HĐTD. Theo báo cáo
môi trường kinh doanh 2008 công bố ngày 26/9/2007 của ngân hàng thế giới
(WB), lĩnh vực vay vốn của Việt Nam xếp hạng 48/178, tiến bộ đáng kể so với vị
trí 83/175 năm 2006. Cũng theo báo cáo, Việt Nam trong năm 2006 đã mở rộng
phạm vi các tài sản được dùng để thế chấp qua đó các doanh nghiệp tiếp cận tín
dụng dễ dàng hơn. Đặc biệt, các hoạt động cho vay có thể được thuận lợi hoá nhờ
2


việc cho phép sử dụng tài sản hữu hình và vơ hình, kể cả tài sản hình thành trong
tương lai làm vật thế chấp và đơn giản hoá một số thủ tục tố tụng trong lĩnh vực
này. Và tranh chấp phát sinh từ hoạt động cho vay luôn đồng hành với sự lên hạng
đó.
Theo luật gia Phạm Xuân Thọ – người có mười năm làm trọng tài viên tại
trọng tài kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và mười ba năm làm thẩm phán, chánh
toà kinh tế Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thì tranh chấp HĐTD chiếm
tỷ lệ lớn thứ hai sau hợp đồng mua bán trong tổng số tranh chấp hợp đồng kinh

doanh, thương mại.
Trong đề tài về Hợp đồng tín dụng và thực tiễn này, nhóm thực hiện đề tài
chúng tơi cố gắng cung cấp những kiến thức cơ bản nhất về hợp đồng tín dụng
nhằm giúp các bạn có cái nhìn tồn diện về vấn đề trên. Chúng tôi rất mong nhận
được sự ủng hộ cũng như những góp ý chân thành của cơ và các bạn sinh viên để
hồn thiện đề tài này.
Chúng tôi chân thành cảm ơn!

CHƯƠNG 1 – KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG
I.

Khái niệm về tín dụng

Tín dụng (TD) là mối quan hệ kinh tế giữa người đi vay và người cho vay.
Trong quan hệ này, người cho vay có nhiệm vụ chuyển giao quyền sử dụng tiền
hoặc hàng hoá cho vay cho người đi vay trong một thời gian nhất định. Người đi
vay có nghĩa vụ trả số tiền hoặc giá trị hàng hoá đã vay khi đến hạn trả nợ có kèm
hoặc khơng kèm theo một khoản lãi. TD có vị trí quan trọng đối với việc tích tụ,
tận dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để phát triển kinh doanh.
Chủ thể cho vay (nguồn
cung TD):
− Tiết kiệm cá nhân.
− Tiết kiệm doanh
nghiệp.
− Thặng dư ngân sách
nhà nước
− ….

Gốc + lãi


Hàng hóa
hoặc tiền tệ
3

Chủ thể đi vay (nguồn cầu
TD):
− Nhu cầu đầu tư của
doanh nghiệp
− Nhu cầu đầu tư của cá
nhân
− Bù đắp ngân sách của
chính phủ.
− …..


II.
-

-

-

III.

Phân loại TD
Dựa vào từng tiêu chí mà có nhiều cách phân loại TD khác nhau sau đây:
Dựa vào thời hạn TD: có 3 loại.
+ TD ngắn hạn : dưới 1 năm.
+ TD trung hạn: từ 1 đến 5 năm.
+ TD dài hạn: 5 năm trở lên.

Dựa vào mục đích sử dụng:
+ TD sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
+ TD tiêu dùng.
Dựa vào chủ thể trong quan hệ TD:
+ TD thương mại: là hình thức mua bán chịu hàng hóa, giấy nợ trong
việc mua bán nợ này là thương phiếu ( nó bao gồm hối phiếu và lệnh
phiếu).
+ TD nhà nước: bao gồm tín phiếu kho bạc (TD ngắn hạn) và trái
phiếu (TD dài hạn).
+ TD ngân hàng: là hình thức vay nợ tiền tệ (bao gồm tiền mặt và bút
tệ). Đây là một nhánh lớn trong hoạt động TD, phần lớn khối lượng
giao dịch TD nằm trên kênh TD này.
Tín Dụng Ngân Hàng (TDNH) – hình thức tín dụng quan trọng nhất:

III.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín
dụng khác, với các nhà doanh nghiệp và cá nhân.
III.2. Vai trị của tín dụng ngân hàng
-

Đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất liên tục đồng thời góp
phần đầu tư phát triển kinh tế.
Thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các
ngành mũi nhọn.
Góp phần tác động đến việc tăng cường chế độ hạch toán kinh tế của các
doanh nghiệp.
Tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với các doanh nghiệp nước
ngồi.


III.3.Quy trình tín dụng ngân hàng
III.3.a. Quy trình tín dụng ngân hàng là gì?
Quy trình tín dụng ngân hàng là bản tổng hợp mô tả công việc của ngân
hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết
định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.
4


III.3.b. Ý nghĩa của quy trình tín dụng
-

-

Việc xác lập một quy trình tín dụng và khơng ngừng hồn thiện nó đặc biệt
quan trọng đối với một ngân hàng thương mại.
Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng
cao chất lượng tín dụng và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng:
+

Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận
trong hoạt động tín dụng.

+

Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.

III.3.c. Một quy trình tín dụng căn bản: gồm 7 bước.
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:

-

năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng

-

khả năng sử dụng vốn vay

-

khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lai của khách
hàng trong việc sử dụng vốn vay + hồn trả nợ vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng

Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay
đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Bước 4: giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng như ký kết
trong hợp đồng tín dụng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách
hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách hàng,... để đảm bảo
khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
5


CHƯƠNG 2 – HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

I.

Khái niệm về hợp đồng tín dụng (HĐTD)
Khái niệm hợp đồng dân sự được quy định theo Điều 388 BLDS 2005, hợp
đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự, từ đó có thể hiểu “HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản
giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định
(bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền tệ hoặc cho bên vay sử dụng
trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hồn trả cả gốc và lãi.”
Vậy pháp luật VN không đưa ra cụ thể khái niệm về HĐTD mà chúng ta
chỉ có thể hiểu nó dựa trên định nghĩa Hợp Đồng Dân Sự.
II.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
- Thứ nhất, về hình thức: HĐTD ln được lập thành văn bản, hầu hết là
hợp đồng theo mẫu.
- Thứ hai, đối tượng HĐTD: là những khoản vốn được thể hiện dưới hình
thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam, vàng
hoặc ngoại tệ; tồn tại dưới dạng tiền mặt, vật hiện hữu hoặc bút tệ.
-

-

Thứ ba, bên cho vay trong HĐTD: luôn là TCTD (bao gồm ngân hàng và
TCTD phi ngân hàng).
Thứ tư, HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ theo đúng qui luật của pháp
luật về:

+ Năng lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng.
+ Mục đích sử dụng vốn vay.
+ Giới hạn vốn vay.

Thứ năm, nội dung hợp đồng tín dụng phải có:
o Điều kiện vay
o mục đích sử dụng tiền vay
o hình thức vay, số tiền vay
o lãi suất
o thời hạn vay
o hình thức bảo đảm
o giá trị tài sản bảo đảm
o phương thức trả nợ
o những cam kết khác được các bên thỏa thuận
(Điều 51 Luật các TCTD)
-

Thứ sáu, tổ chức tín dụng có quyền xem xét, quyết định cho vay hay khơng
dựa trên cơ sở có bảo đảm hoặc khơng có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế
chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về
quyết định của mình. Tổ chức tín dụng khơng được cho vay trên cơ sở cầm
cố bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng cho vay.
6


-

Thứ tám, lãi suất nợ quá hạn: không vượt quá 150% lãi suất cho vay áp
dụng trong thời hạn cho vay đã được ký kết hoặc điều chỉnh trong hợp
đồng tín dụng.

-

Thứ chín, khi giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng: Thẩm phán phải

theo dõi lãi suất cơ bản do Thống đốc NHNN công bố trong từng thời kỳ.

-

III.

Thứ bảy, mức lãi suất cho vay: phù hợp với quy định của NHNN Việt
Nam.

Thứ mười, nếu bên vay sử dụng vốn vay khơng đúng mục đích đã thỏa
thuận, thì ngân hàng lập tức được quyền chấm dứt hợp đồng, phạt vi phạm
và thu hồi nợ trước hạn.
So sánh hợp đồng tín dụng với hợp đồng thương mại
STT

Yếu tố

Hợp Đồng Thương Mại

Hợp Đồng Tín Dụng

1

Chủ thể

Doanh nghiệp với doanh
nghiệp

Doanh nghiệp với ngân hàng


2

Loại vốn

Hàng hóa

Tiền tệ

3

Quy mơ

Nhỏ

Lớn

4

Thời hạn

Ngắn hạn

Dài hạn

5

Phạm vi

Hẹp


Rộng

III.1.Một số điểm cần lưu ý trong hợp đồng tín dụng
III.1.a. Việc thu hồi nợ trước hạn – một trong những vấn đề vướng mắc
trong hợp đồng tín dụng
* Một mặt, cho phép các ngân hàng được phép thu hồi nợ trước
hạn nếu bên vay vi phạm hợp đồng tín dụng (theo Quyết định số
1627/2010/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN).
* Mặt khác: quy định của BLDS thì bên cho vay “Khơng được yêu
cầu bên vay trả lại tài sản trước thời hạn”, trừ trường hợp được
bên vay đồng ý (§ 473.3).
Cách giải quyết mâu thuẫn này là các bên nên có thoả thuận trong hợp đồng
tín dụng với nội dung: Trường hợp bên vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ một kỳ hạn trả
nợ thì các kỳ hạn khác chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn trả nợ và ngân hàng
có quyền thu hồi nợ trước hạn.
7


III.1.b. Cơ cấu lại thời hạn trả nợ
Trường hợp bên vay khơng có khả năng trả nợ theo đúng thoả thuận ban
đầu, nếu đủ điều kiện thì có thể được ngân hàng xem xét cho cơ cấu lại thời hạn
trả nợ, bao gồm hai cách là gia hạn nợ và điều chỉnh kỳ hạn trả nợ.
-

Trước 2005, NHNN quy định:
+ Khoản vay ngắn hạn chỉ được gia hạn tối đa bằng thời hạn cho vay.
+ Khoản vay trung, dài hạn tối đa bằng ½ thời hạn cho vay.
Từ 2005 đến nay, theo quyết định số 127/2005/Q Đ-NHNN ngày 03
tháng 2 năm 2005 của thống đốc NHNN: các khoản nợ được gia hạn
nhiều lần, với thời hạn không bị hạn chế.

III.1.c. Thẩm quyền kí hợp đồng

Mỗi bên chỉ cần một người đại diện có thẩm quyền ký hợp đồng tín dụng
và khế ước nhận nợ. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp bên ngân hàng có
hai chữ ký (giám đốc và trưởng phịng tín dụng), đồng thời u cầu bên vay cũng
có hai chữ ký (giám đốc và kế tốn trưởng đối với doanh nghiệp hoặc hai vợ
chồng đối với cá nhân).
Ngoài ra, đối với cả ngân hàng và bên vay là doanh nghiệp, thì dịi hởi phải
có sự thơng qua của cấp có thẩm quyền đối với các trường hợp khoản tín dụng đạt
đến một mức nhất định như:
-

-

Bên vay là doanh nghiệp phải thông qua Hội đồng Thành viên hoặc Chủ sở
hữu công ty hoặc HĐQT trong trường hợp giá trị khoản vay hay giá trị tài sản
cầm cố, thế chấp “bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ
khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ cơng ty” (§ 47, 64 và 108 LDN).
Đối với ngân hàng, nếu các khoản cho vay có giá trị từ 10% tổng tài sản của
ngân hàng trở lên, thì cũng phải thông qua HĐQT hoặc được HĐQT phân cấp,
uỷ quyền. Đối với các khoản vay trên 15% vốn tự có của ngân hàng, thì phải
được Thủ tướng Chính phủ hoặc Thống đốc NHNN cho phép.
 Chú ý: Khi ký kết HĐTD nói riêng, HĐ nói chung, phải xem xét kĩ càng
chủ thể ký kết HĐ có đủ thẩm quyền ký kết HĐ hay không để tránh trường
hợp HĐ bị vô hiệu hóa gây thiệt hại cho các bên tham gia vào HĐ.

III.2.Quyền và nghĩa vụ của bên vay (Điều 56 luật các tổ chức các tổ chức tín
dụng 1997)
III.2.a.


Quyền của bên vay

8


-

Từ chối các yêu cầu của ngân hàng không đúng với các thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng;
Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng của ngân hàng
theo quy định của pháp luật.

III.2.b.
-

-

-

Nghĩa vụ của bên vay

Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc
vay vốn đồng thời chịu trách nhiệm về tính chính xác và hợp pháp của
các thơng tin, tài liệu cung cấp cho ngân hàng.
Sử dụng tiền vay đúng mục đích, thực hiện đúng các nội dung đã thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng và các cam kết khác với ngân hàng.
Trả nợ gốc và lãi vốn vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thực hiện đúng những thoả
thuận về việc trả nợ và thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam

kết trong hợp đồng tín dụng.
Trong số các nghĩa vụ của bên vay, thì nghĩa vụ trả nợ là quan trọng
nhất. Nghĩa vụ này chỉ được miễn trừ nếu bên cho vay đồng ý, còn lại
thì sẽ khơng bao giờ được miễn trừ, kể cả xảy ra tình trạng bất khả
kháng.

III.3. Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay
III.3.a.

Quyền của bên cho vay

Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án, phương án vay
vốn khả thi, khả năng tài chính của mình và người bảo lãnh trước khi quyết định
cho vay;
- Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn;
dự án, phương án vay vốn khơng có hiệu quả, khơng phù hợp với quy định của
pháp luật hoặc ngân hàng khơng có đủ nguồn vốn để cho vay.
- Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách
hàng.
- Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn, chuyển nợ quá hạn khi phát hiện
khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng.
- Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc khởi kiện bên thứ ba
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh theo quy định của pháp luật.
- Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không trả nợ, nếu các bên khơng có thoả
thuận khác thì ngân hàng có quyền bán tài sản bảo đảm tiền vay theo sự thoả
thuận trong hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay để thu nợ theo
quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người thứ ba thực hiện nghĩa vụ cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh cho khách hàng vay vốn.
- Miễn, giảm lãi tiền vay theo quy định của ngân hàng; gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ
hạn nợ theo quy định.

9


-

Mua bán nợ, đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ và cơ cấu lại nợ theo quy định của
Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
III.3.b.

-

Nghĩa vụ của bên cho vay

Giải ngân cho bên vay theo đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật.
Trong số các nghĩa vụ của bên cho vay, thì nghĩa vụ giải ngân là quan trọng
nhất. Nếu nghĩa vụ này không được thực hiện, thì sẽ khơng phát sinh quyền và
nghĩa vụ khác của hai bên.

III.4. Các đối tượng không được vay (Điều 77 luật các TCTD 1997)
-

Thành viên HĐQT, Ban kiểm soát của ngân hàng.
Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và Phó tổng giám đốc hoặc Phó giám đốc của
ngân hàng.
Bố, mẹ, vợ, chồng, con của các đối tượng trên.
Người thẩm định, xét duyệt cho vay.

III.5. Các đối tượng hạn chế tín dụng (Điều 78 luật các TCTD 1997)

-

Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên đang kiểm toán tại ngân hàng.
Kế toán trưởng, Thanh tra viên.
Các cổ đông lớn của ngân hàng.
Doanh nghiệp có một trong những đối tượng bị cấm cho vay nói trên sở hữu
trên 10% vốn Điều lệ của doanh nghiệp đó.

III.6. Giới hạn tín dụng (Điều 79 luật các TCTD 1997)
Tổng dư nợ cho vay đối với tất cả các đối tượng bị hạn chế cấp tín dụng nói
trên khơng được vượt q 5% vốn tự có của ngân hàng (§ 78.2, Luật các TCTD).
Vốn tự có bao gồm vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, dự phòng và một số khoản vốn
khác.
Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn
tự có của ngân hàng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn
vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng
vay là ngân hàng khác hoặc được Thủ tướng hay Thống đốc NHNN cho phép (§
79.1 và 79.2, Luật các TCTD).
Bảng tổng hợp một số giới hạn cho vay, bảo lãnh của ngân hàng
STT

Tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh

Giới hạn

1

Cho vay đối với các đối tượng bị cấm cho vay

0%


2

Cho vay đối với các đối tượng bị hạn chế cho vay < 05% vốn tự có
10


STT

Tổng dư nợ cho vay và bảo lãnh

Giới hạn

3

Cho vay đối với 1 khách hàng

< 15% vốn tự có

4

Cho vay + Bảo lãnh đối với 1 khách hàng

< 25% vốn tự có

5

Cho vay đối với 1 nhóm khách hàng liên quan

< 50% vốn tự có


6

Cho vay + Bảo lãnh đối với 1 nhóm khách hàng

< 60% vốn tự có

7

Cho vay để đầu tư và kinh doanh chứng khoán

< 20% vốn điều lệ

Nếu bên vay có nhu cầu vay vượt quá giới hạn nói trên, thì các ngân hàng
cho vay theo hình thức hợp vốn (uỷ thác hoặc đồng tài trợ).

CHƯƠNG 3 – THỰC TRẠNG TRANH CHẤP HĐTD
VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT
Trong thời gian qua, tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại trong đó có
tranh chấp HĐTD khơng ngừng gia tăng đó là chưa kể đến các tranh chấp được
các bên thoả thuận giải quyết bằng các phương thức khác như thương lượng, hoà
giải hay trọng tài thương mại.
I.

Thực trạng các dạng tranh chấp hợp đồng tín dụng trên thực tế
I.1. Dạng tranh chấp về hành vi vi phạm nghĩa vụ của một hoặc các bên trong
hợp đồng.
Đây là dạng tranh chấp HĐTD phổ biến, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong HĐTD.
Hành vi vi phạm nghĩa vụ này, có thể là hành vi của bên cho vay (các ngân hàng
và các định chế tài chính khác). Theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam,

HĐTD là một dạng của hợp đồng ưng thuận có hình thức bắt buộc bằng văn bản
(văn bản viết hoặc văn bản điện tử). Tại khoản 4 Điều 404 BLTTDS: “Thời điểm
giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản”; tại
Điều 405 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm
giao kết trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Vì
thế, sau khi HĐTD có hiệu lực, việc giải ngân khoản tín dụng mà hai bên đã thoả
thuận là nghĩa vụ của bên cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp
sau khi ký kết HĐTD với khách hàng bên cho vay đã không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải ngân. Điều này, làm ảnh hưởng tới quyền và lợi
ích hợp pháp của bên vay như bên vay không tiến hành kế hoạch kinh doanh như
dự kiến, khơng có vốn đầu tư vào dự án đầu tư, đấu thầu đã được đăng ký. Hậu
11


quả là bên cho vay làm tổn thất rất lớn về hiệu quả kinh tế cũng như uy tín, danh
dự, thậm chí thương hiệu của bên vay.
Tranh chấp HĐTD cịn có thể xuất phát từ việc vi phạm nghĩa vụ trả lãi và
thậm chí cả gốc và lãi. Trên thực tế, có trường hợp hai bên khơng thoả thuận rõ
ràng về lãi suất đối với cả thời hạn vay hoặc ban đầu do cần tiền để thực hiện kế
hoạch của mình nên khách hàng chấp nhận mức lãi suất đó nhưng sau một thời
gian thực hiện hợp đồng phía khách hàng nhận thấy lãi suất đó cao q nên khơng
đồng ý. Tuy nhiên, đa phần là dạng tranh chấp về vi phạm nghĩa vụ trả nợ của
khách hàng khi đáo hạn.
Năm 1995, do nhu cầu sản xuất kinh doanh mở rộng, công ty trách nhiệm
hữu hạn Phương Đông (CTPĐ) đã vay của Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển
Nông Thôn (NH NN&PTNT) số tiền là 400,667 triệu VNĐ, trong đó lần vay cuối
cùng ngày 24/6/1996 là 80 triệu VNĐ do trung tâm tư vấn doanh nghiệp bảo lãnh.
Số vay còn lại được công ty Phương Đông thế chấp bằng ngôi nhà ba tầng có diện
tích 482m2, là trụ sở làm việc và mặt bằng sản xuất của công ty. Nhưng sau đó, do
hoạt động kinh doanh thua lỗ nên khi đến hạn công ty Phương Đông đã không thể

thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn như đã cam kết. Vì thế, ngày 12/4/1999 NH
NN&PTNT đã khởi kiện cơng ty Phương Đơng phải thanh tốn cả gốc và lãi là
802.877 triệu VNĐ.
Sau đây, chúng ta xem xét một vài ví dụ cụ thể về hành vi của bên cho vay
và bên vay về tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng.
I.1.a. Thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn chưa kết thúc
Về mặt lí luận, khi các bên đã thỏa thuận về lãi suất cố định trong HĐTD
thì lãi suất sẽ khơng được điều chỉnh trong suốt thời hạn vay. Tuy nhiên, pháp luật
không cấm điều chỉnh lãi suất trong trường hợp các bên có sự thống nhất ý chí. Do
đó, tranh chấp về thỏa thuận thay đổi lãi suất khi thời hạn vay chưa kết thúc chỉ
xảy ra trong hai trường hợp: một là, khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn
lãi; hai là, TCTD yêu cầu tăng lãi suất.

 Khách hàng yêu cầu giảm lãi suất hoặc miễn lãi
Trong quá trình thực hiện HĐTD, khơng phải bên vay ln có khả năng trả
nợ gốc và lãi đúng hạn. Có nhiều trường hợp do một số lí do khách quan như: tai
nạn, rủi ro hoặc thị trường biến động dẫn đến tình hình kinh doanh bị ảnh
hưởng… nên khách hàng vay vốn khơng có khả năng trả nợ cho TCTD. Trong
những tình huống như vậy thông thường khách hàng làm đơn xin giảm lãi suất
hoặc miễn một phần lãi, TCTD sẽ xem xét và chấp thuận yêu cầu này tùy thuộc
vào tình hình thực tế. Thông thường TCTD sẽ chấp nhận kèm theo một vài u
cầu. Cũng có trường hợp phía đi vay khơng thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn,
khi TCTD yêu cầu nhiều lần vẫn khơng thanh tốn, TCTD khởi kiện ra tòa và
12


trong q trình hịa giải hai bên có thỏa thuận nếu khách hàng thanh tốn ngay
khoản nợ gốc thì TCTD sẽ giảm lãi suất đồng nghĩa với việc giảm một phần tiền
lãi mà khách hàng phải trả hoặc miễn một phần lãi. Vụ việc như vậy sẽ khơng có
tranh chấp nếu hai bên thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, trên thực tế vẫn có tình

huống khách hàng khơng thực hiện đúng cam kết dẫn đến tranh chấp xảy ra.
Trường hợp ông Nguyễn Văn M. và NHTMCP P. dưới đây là một ví dụ
cho tình huống này. Ngân hàng P. khởi kiện ơng M. vì đã khơng thực hiện đúng
nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi cho khoản vay 150.000.000 đồng theo HĐTD số
102/TDG/08 TGB ngày 12/02/2008. Theo biên bản hòa giải, hai bên đã thỏa thuận
ngân hàng P. sẽ giảm lãi suất, giảm một phần tiền phạt chậm trả cho ông M. và rút
đơn khởi kiện với điều kiện ông M. phải thanh toán 150.000.000 đồng tiền nợ gốc
làm hai kì ngay sau đó. Tại phiên tịa sơ thẩm, ngân hàng P cho rằng ông M. chưa
thực hiện đầy đủ việc thanh toán tiền nợ gốc nên ngân hàng vẫn áp dụng lãi suất
cũ. Ông M. lại cho rằng ông đã thực hiện được một kì trả nợ gốc là 75.000.000
đồng như thỏa thuận tại phiên hòa giải nên yêu cầu ngân hàng P. giảm một phần
lãi suất tương ứng với phần ơng đã trả được. Tịa cấp sơ thẩm đã xem xét và chấp
thuận yêu cầu của ngân hàng vì ơng M. chưa thực hiện đầy đủ điều kiện theo thỏa
thuận nên nghĩa vụ giảm lãi suất và giảm tiền phạt chậm trả của ngân hàng P.
không phát sinh.
Đối với những vụ tranh chấp như vậy, nguyên nhân chủ yếu thuộc về lỗi
của bên vay, bởi vì nghĩa vụ giảm lãi của TCTD chỉ phát sinh khi khách hàng vay
vốn đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận.

 TCTD yêu cầu nâng lãi suất cho vay
Điều khoản về lãi suất trong HĐTD là điều khoản vô cùng quan trọng.
Thông thường để hạn chế rủi ro lãi suất, TCTD không thỏa thuận lãi suất cố định
với hợp đồng trung – dài hạn mà quy định trong HĐTD lãi suất cho vay tính bằng
lãi suất tiền gửi cộng một biên độ và thay đổi định kì. Trong một số hợp đồng vay
ngắn hạn, lãi suất cho vay được thỏa thuận là lãi suất cố định trong suốt thời gian
vay. Khi thị trường có những biến động khiến TCTD phải nâng lãi suất huy động
để thu hút nguồn vốn trong dân cư, việc cho vay với lãi suất thấp hơn (ở những
HĐTD kí kết từ trước đó nhưng vẫn trong quá trình giải ngân) so với lãi suất huy
động hiện tại sẽ khiến TCTD mất đi một phần lợi nhuận. Vì vậy, khơng ít TCTD
đã u cầu khách hàng chấp nhận tăng lãi suất cho vay mới tiếp tục giải ngân. Đây

chính là tình trạng xảy ra rất nhiều trong thời gian giữa năm 2008 khi áp dụng
chính sách điều hành lãi suất “thắt chặt” của NHNN, lãi suất huy động và lãi suất
cho vay được đẩy lên rất cao. Tình trạng này khơng chỉ xảy ra ở đơn lẻ một TCTD
nào hay đối với một đối tượng cụ thể nào, chính vì thế đã có những tác động to lớn
đối với người dân tham gia vào quan hệ tín dụng. Dưới đây là một vụ việc điển
hình trong số ít những vụ việc có sự phản ứng mạnh mẽ từ phía người đi vay,
13


trong khi hầu hết những vụ việc khác bên vay thường chịu thiệt thịi tăng mức lãi
suất nhằm có được khoản vốn phục vụ nhu cầu của mình.
Theo HĐTD được kí vào ngày 02/11/2007, NHTMCP X đồng ý cho ơng
Nguyễn Thành Kham (cư xá Chu Văn An, quận Bình Thạnh, TPHCM) vay gần
400 triệu đồng, phục vụ mục đích tiêu dùng, thời hạn giải ngân tối đa đến hết ngày
31/12/2008. Lãi suất cho vay là 0,88%/tháng (tương đương 10,56%/năm) và mức
lãi suất này là cố định trong thời gian 12 tháng kể từ ngày hợp đồng có hiệu lực.
Ngân hàng X đã giải ngân cho ông Kham làm hai đợt với tổng số tiền hơn
150.000.000 đồng. Đến ngày 12/6/2008, khi ông Kham đề nghị giải ngân hơn
200.000.000 đồng còn lại thì ngân hàng yêu cầu mức lãi suất mới là 1,75%. Giải
thích cho điều này, lí do mà ngân hàng X đưa ra là mặt bằng lãi suất huy động
tăng cao, lãi suất cho vay bình quân đang áp dụng là 1,75%/tháng (tương đương
21%/năm). Sau đó khi có sự yêu cầu khắc phục thiệt hại do tỷ giá USD tăng đồng
thời phải làm đúng như hợp đồng ban đầu về mức lãi suất cho vay từ phía khách
hàng, ngân hàng X lại đưa ra lí do chưa thu xếp được nguồn vốn giá thấp, vì Điều
2 HĐTD quy định: “Theo yêu cầu của bên vay và khả năng nguồn vốn của ngân
hàng, số tiền cho vay sẽ được ngân hàng giải ngân theo HĐTD kiêm khế ước nhận
nợ”. Tuy nhiên, khách hàng đã kí vào khế ước nhận nợ, thể hiện sự đồng ý về lãi
suất mới nên khơng có cơ sở để khởi kiện.
Phân tích vụ việc trên, thời điểm Ngân hàng X yêu cầu tăng lãi suất lên
1,75%/tháng là lúc NHNN đang áp dụng trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất

cơ bản. Căn cứ vào Quyết định số 1317/QĐ-NHNN quy định lãi suất cơ bản bằng
đồng Việt Nam là 14%/năm áp dụng từ ngày 11/6/2008, trần lãi suất cho vay là
21%/năm, tương đương 1,75%/tháng, ngân hàng X yêu cầu tăng lãi suất không
vượt quá mức trần. Tuy nhiên, trước đó NHNN đã có Cơng văn 5004/NHNNCSTT ngày 04/6/2008 quy định đối với các HĐTD kí kết trước ngày 19/5/2008,
các bên tiếp tục thực hiện những nội dung trong hợp đồng đã kí kết (phù hợp với
các quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm kí kết HĐTD đó).
Như vậy ở trường hợp trên, lẽ ra ngân hàng X phải thực hiện hợp đồng với lãi suất
như đã thỏa thuận trước đó trong HĐTD, việc tăng lãi suất là trái với quy định của
pháp luật.
Ngoài dạng tranh chấp lãi suất liên quan đến hành vi của người cho vay và
bên đi vay, trên thực tế ta còn các dạng tranh chấp lãi suất trong hợp đồng tín dụng
khác như: tranh chấp về lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn, tranh chấp lãi
suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với các khoản nợ quá hạn.
I.1.b. Lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn
Với Thơng tư số 12/2010/TT-NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011, TCTD được cho vay bằng đồng Việt Nam với khách
hàng theo lãi suất thỏa thuận. Khi chuyển sang cơ chế trần lãi suất cho vay, nhiều
TCTD với những HĐTD kí kết trước 19/5/2008 lâm vào cảnh vượt quá mức trần
14


là 150% lãi suất cơ bản. Trước đây cơ chế lãi suất thỏa thuận từng được áp dụng
trong khoảng thời gian từ tháng 6/2002 đến tháng 5/2008. Tại Thông tư số
04/2011/TT-NHNN ngày 10/3/2011 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy
định tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ
hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng theo từng đồng tiền trong trường hợp tổ chức,
cá nhân rút tiền gửi trước hạn. Có thể thấy rằng, mỗi lần NHNN thay đổi chính
sách lãi suất cho vay, những HĐTD đang có hiệu lực cũng chịu ảnh hưởng khơng
nhỏ, nhất là khi có tranh chấp xảy ra.
Đây là một vụ việc điển hình cho vấn đề này: Đơn cử trường hợp tháng

12/2009, TAND quận Gò Vấp (TPHCM), xử sơ thẩm vụ tranh chấp HĐTD giữa
NHTMCP T. với khách hàng L.Đ.H. Diễn biến vụ việc như sau: tháng 02/2008,
ơng H. kí hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng của ngân hàng T., thỏa thuận trong hợp
đồng hàng tháng ơng H. có trách nhiệm thanh tốn tồn bộ dư nợ tối thiểu cho
ngân hàng trước ngày đến hạn. Sau khi được cấp thẻ tín dụng hạn mức 15.000.000
đồng, ông H. đã rút gần 14.500.000 đồng để tiêu xài. Tháng 4/2008, ơng H. thanh
tốn được khoảng 1.500.000 đồng cho ngân hàng. Tháng 7/2009, ngân hàng khởi
kiện, và hai bên thỏa thuận ơng H. trả góp mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi
hết nợ. Tại tòa, đại diện ngân hàng xác định số tiền nợ cả gốc lẫn lãi của ơng H.
tính đến ngày xét xử là gần 40.000.000 đồng. Trong trường hợp hai bên hòa giải
được, ngân hàng sẽ giảm cho ông H. hơn 8.500.000 đồng tiền phí vượt hạn mức và
một phần phí thanh tốn trả chậm. Số nợ cịn lại ơng H. phải thanh tốn làm ba lần
trong vịng hai tháng kể từ ngày hịa giải thành. Ngược lại, ơng H. khơng đồng ý
hịa giải bởi cho rằng ngân hàng tính lãi quá cao và đề nghị tòa xem xét.
Tòa sơ thẩm cho rằng ngân hàng tính lãi khơng đúng như thỏa thuận trong
HĐTD. Cụ thể, theo hợp đồng, tiền lãi được tính trên số tiền khách hàng rút kể từ
ngày rút tiền nhưng thực tế ngân hàng lại tính lãi theo từng tháng trên số dư cuối
kì của tháng trước (gồm nợ gốc, lãi tháng trước và các khoản phí phải trả của
tháng trước). Đây là cách tính lãi cộng dồn nên từ số nợ gốc ban đầu chỉ hơn
14.000.000 đồng, sau 22 tháng, số nợ cả gốc lẫn lãi đã lên gần đến 40.000.000
đồng. Như vậy, lãi suất áp dụng theo cách tính này là khoảng 8%/tháng, cao hơn
rất nhiều so với quy định pháp luật về cách tính lãi suất theo thỏa thuận giữa
TCTD đối với khách hàng (thời điểm một số NHTM áp dụng lãi suất cao nhất sau
khi tính cả các chi phí là 23 – 24%/năm). Bên cạnh đó, theo hợp đồng thì sau 90
ngày kể từ ngày lập bản thông báo giao dịch, nếu chủ thẻ không thanh tốn, thanh
tốn khơng đủ số tiền tối thiểu thì toàn bộ số dư nợ của chủ thẻ là nợ quá hạn và
áp dụng lãi suất nợ quá hạn theo quy định của ngân hàng. Tính từ cuối tháng
5/2009 là đã q 90 ngày ơng H. khơng thanh tốn đủ số tiền tối thiểu nên ngân
hàng phải có trách nhiệm chuyển toàn bộ số dư nợ sang nợ quá hạn, nhưng ngân
hàng vẫn tiếp tục tính lãi suất theo cách cộng dồn lãi, phí vào nợ gốc. Tịa xác

định lại tiền lãi và các khoản phí phát sinh theo hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng
giữa hai bên chỉ là 21.000.000 đồng.
15


Rõ ràng việc tính lãi cộng dồn là hồn tồn sai so với quy định của pháp
luật, xâm phạm đến lợi ích của người đi vay.
Tranh chấp về lãi suất trong hạn và cách tính lãi trong hạn tập trung ở ba
vấn đề:
Một là, cơ quan xét xử không nhất quán khi vừa áp dụng trần lãi suất cho
vay bằng 150% lãi suất cơ bản cho cả giai đoạn được phép thỏa thuận lãi suất
trước ngày 19/5/2008; vừa không áp dụng mức trần với thỏa thuận lãi suất trong
giai đoạn từ 19/5/2008 về sau.
Hai là, tranh chấp lãi suất do TCTD tính lãi cộng dồn gây thiệt hại cho
khách hàng.
Ba là, cơ quan xét xử chia bình quân lãi suất trong thời gian vay để xác
định tính hợp pháp của thỏa thuận lãi suất trong từng giai đoạn tương ứng với từng
cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
I.1.c Lãi suất nợ quá hạn và cách tính lãi đối với khoản nợ quá hạn
Lãi suất nợ (gốc) quá hạn là một trong những nội dung thường xảy ra tranh
chấp trong hoạt động tín dụng. Trên thực tế việc áp dụng cách tính lãi suất nợ q
hạn cịn nhiều vấn đề chưa được rõ ràng. Hiện nay trong pháp luật Việt Nam có
hai quy định khơng thống nhất về cách thức tính lãi suất quá hạn. Cách thứ nhất
theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì lãi suất q hạn được tính
khơng vượt q 150% lãi suất cơ bản. Trong khi đó cách tính thứ hai căn cứ vào
pháp luật chuyên ngành là Khoản 2 Điều 11 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN
lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất trong hạn. Theo đó, có nhiều tranh
chấp xảy ra về cách tính lãi suất nợ quá hạn mà nhiều bản án sơ thẩm bị kháng
cáo, kháng nghị vì lí do này. Trên thực tế, cơ quan tài phán cũng khơng hồn tồn
nhất qn trong q trình giải quyết. Việc áp dụng quy định của pháp luật chuyên

ngành hay quy định của BLDS cũng chứng tỏ khơng ít sự lúng túng của cơ quan
có thẩm quyền.
Một số vụ việc cụ thể như sau có thể chứng minh rằng việc áp dụng pháp
luật vẫn còn nhiều bất cập khiến quyền lợi của các bên tranh chấp bị ảnh hưởng.
Dưới đây là 2 vụ xét xử về hợp đồng tín dụng ở TAND tỉnh Sóc Trăng sau đó
được phúc thẩm lại tại TANDTC ở TP Hồ Chí Minh.
NHTMCP Việt Nam Thương Tín (sau đây gọi là VietBank) kiện bà Phan
Ngọc H. Nội dung vụ việc như sau:
• HĐTD số 686/NHVNTT ngày 26/11/2007 và Hợp đồng sửa đổi, bổ sung
số 01/HĐSĐ,BS ngày 04/7/2008.
• Số tiền vay 250.000.000 đồng.
• Thời hạn vay là 12 tháng từ ngày 27/11/2007 đến 27/11/2008.
• Lãi suất vay được tính từ ngày 27/11/2007 đến 04/7/2008 là 1,05%/tháng,
từ ngày 04/7/2008 trở đi là 1,75%/tháng. Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi
suất cho vay.
16


• Ngày 28/12/2008, bà H. kí cam kết sẽ trả đủ số tiền vốn vay 250.000.000
đồng và tiền lãi cho ngân hàng sau 3 tháng kể từ ngày đến hạn trả nợ.
Bản án sơ thẩm số 06/2009/KDTM-ST ngày 28/9/2009 căn cứ vào Khoản 1
Điều 476 BLDS 2005 và Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 và
Quyết định số 2538/QĐ-NHNN ngày 31/10/2007 về lãi suất cơ bản là 8,25%/năm,
lãi suất cho vay không vượt quá 150% lãi suất cơ bản, vậy lãi suất cho vay tối đa
là 12,375%/năm (bằng 1,03%/tháng). Ngân hàng thỏa thuận cho phía bị đơn vay
mức lãi suất là 1,05%/tháng là cao hơn mức trần lãi suất cho vay. Do đó, tịa điều
chỉnh tính lãi trong hạn từ ngày 27/11/2007 đến 04/7/2008 là: 250.000.000 x 7
tháng 7 ngày x 1,03%/tháng = 18.625.833 đồng.
Tương tự, TAND tỉnh Sóc Trăng giải quyết tranh chấp HĐTD giữa nguyên
đơn cũng là VietBank và bà Trần Thị Hồng A. và ơng Võ Minh T. (Phụ lục 2).

• HĐTD số 739/NHVNTT ngày 14/12/2007 và hợp đồng sửa đổi, bổ sung
số 01/HĐSĐ,BS ngày 04/7/2008.
• Số tiền vay 120.000.000 đồng.
• Thời hạn vay 12 tháng từ ngày 14/12/2007 đến 14/12/2008.
• Lãi suất từ 14/12/2007 đến 04/7/2008 là 1,05%/tháng, từ ngày 04/7/2008
trở đi là 1,75%/tháng.
• Bà A. và ông T. đã trả lãi cho VietBank từ ngày vay đến ngày 14/9/2008
và chưa thanh tốn nợ gốc.
Trong q trình giải quyết, tịa cấp sơ thẩm TAND tỉnh Sóc Trăng cũng
tuyên áp dụng lãi suất nợ quá hạn là 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố vào
thời điểm xét xử sơ thẩm là 7%/năm (theo Quyết định số 2232/QĐ-NHNN ngày
24/9/2009).
Ở cả hai vụ việc này, VietBank đều kháng cáo về việc áp dụng lãi suất nợ quá hạn.
VietBank cho rằng theo Khoản 2 Điều 11 của Quy chế cho vay ban hành kèm theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN, lãi suất quá hạn phải được xác định bằng
150% lãi suất trong hạn trong hợp đồng là 150% x 1,75%/tháng. Tòa phúc thẩm
TANDTC tại TPHCM xét xử phúc thẩm cho rằng việc áp dụng quy định của
BLDS 2005 là hợp pháp và không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn tại bản án
số 56/2010/KDTM-PT và 57/2010/KDTM-PT cùng ngày 08/4/2010.
Khác với hai vụ việc trên, trong vụ “Ly hôn và tranh chấp tài sản” sau đây,
cơ quan chức năng lại đưa ra cách giải quyết ngược lại. Ông Trịnh Xuân B. và bà
Lê Thị Thanh N. kí với NHTMCP Á Châu (sau đây gọi là ACB) hai HĐTD.
• Hợp đồng thứ nhất PHT.CN.01080907 ngày 10/9/2007 và HĐTD trung,
dài hạn số 29900799 ngày 10/9/2007, nợ vốn 1.744.447.000 đồng nợ gốc
và lãi 146.533.546 đồng.

17


• Hợp đồng thứ hai PHT.CN.01171107 ngày 19/11/2007 và HĐTD trung,

dài hạn số 32276929 ngày 20/11/2007, tổng số tiền 633.326.000 đồng nợ
vốn và 34.075.314 đồng nợ lãi.
Bản án sơ thẩm số 61/2009/HNST ngày 31/12/2009 của TAND quận 10
(TPHCM) tuyên tiền lãi của ACB sẽ được tính tiếp tục kể từ ngày 01/01/2010 với
mức lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN trên tổng số dư nợ gốc thực tế cho
đến khi trả hết nợ gốc căn cứ vào BLDS 2005. Sau đó ACB kháng cáo cho rằng
ơng B., bà N. phải chịu lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn từ
01/01/2010 đến ngày trả dứt nợ. Tòa phúc thẩm TANDTC tại TPHCM chấp nhận
kháng cáo của ACB.
Có thể thấy rằng cùng một tình tiết và cùng Tịa phúc thẩm TANDTC
nhưng cách thức giải quyết vụ việc lại khác nhau, tương ứng với hai cách tính lãi
suất quá hạn. Cách thứ nhất theo quy định tại Khoản 5 Điều 474 BLDS 2005 thì
lãi suất q hạn được tính không vượt quá 150% lãi suất cơ bản. Trong khi đó
cách tính thứ hai căn cứ vào pháp luật chun ngành là Khoản 2 Điều 11 Quyết
định số 1627/2001/QĐ-NHNN lãi suất quá hạn không vượt quá 150% lãi suất
trong hạn. Khi áp dụng quy định về lãi suất nợ quá hạn của BLDS, người bị thiệt
hại sẽ là TCTD, vì lãi suất cho vay trong hạn luôn cao hơn so với lãi suất cơ bản
của NHNN quy định.
I.2. Dạng tranh chấp về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những
HĐTD có bảo đảm bằng tài sản
Dạng tranh chấp chiếm một tỷ lệ khá lớn trong HĐTD là dạng tranh chấp
về định giá, xử lý tài sản bảo đảm đối với những HĐTD có bảo đảm bằng tài sản.
Đối với những hợp đồng cho vay tiêu dùng, việc xác định tài sản bảo đảm thuộc
sở hữu của vợ chồng hay tài sản riêng của từng người có ý nghĩa quan trọng đối
với hoạt động xử lý tài sản này. Có nhiều trường hợp các nhân viên ngân hàng
thẩm định khơng kỹ, kết quả thẩm định khơng chính xác dẫn đến chấp nhận những
tài sản bảo đảm không đúng quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Đối với
những hợp đồng cho vay kinh doanh, liên quan tới xác định tài sản bảo đảm có
thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bên khách hàng hay không, tổ chức đó có đủ tư
cách pháp lý theo quy định của pháp luật để tiến hành ký kết hợp đồng khơng?

Trên thực tế, khi HĐTD được ký kết thì phía ngân hàng mới biết bên khách hàng
ký không đúng thẩm quyền.
Trường hợp giả định:
Ngân hàng A có nhận được hồ sơ vay vốn của 1 khách hàng B là vừa mới ly
hơn có quyết định của của Tồ án, nhưng trong quyết định của Tồ khơng có phân
xử về tài sản mà chỉ giao việc ni con chung.
Trước khi có quyết định của Toà khách hàng B và vợ cũ B đã có biên bản
thoả thuận phân chia tài sản (có gởi cho Tồ). Vậy ngân hàng có thể căn cứ vào
18


Biên bản phân chia tài sản giữa ông B và vợ để nhận thế chấp tài sản được không?
(Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất đứng tên cả 2 người).
Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận, nếu khơng thoả thuận
được thì u cầu Tồ án giải quyết. Trong q trình u cầu ly hơn, vợ chồng ơng
khơng có u cầu Tịa án giải quyết mà chỉ cung cấp Biên bản thỏa thuận phân
chia tài sản.
Vì vậy, Biên bản thỏa thuận nói trên chỉ là sự ghi nhận ý chí của các bên
trong việc phân chia tài sản chứ chưa đủ giá trị pháp lý để ông B bảo lãnh thế chấp
vay vốn.
Tranh chấp phát sinh từ HĐTD còn là những tranh chấp về luật áp dụng và
cơ quan giải quyết tranh chấp trường hợp một trong hai bên là bên nước ngoài mà
khi ký kết hợp đồng các bên đã không thoả thuận lựa chọn cơ quan giải quyết
tranh chấp cũng như luật áp dụng.
Tranh chấp phát sinh ngày càng nhiều, diễn biến cũng đa dạng và có tính
chất phức tạp. Do đó, việc tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp là hết
sức cần thiết. Từ đó, có những biện pháp, đường lối, chính sách nhằm khắc phục
tình trạng tranh chấp để tiến tới giảm đáng kể số lượng tranh chấp.
II.


Những nguyên nhân dẫn đến tranh chấp hợp đồng tín dụng

Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, có thể xem xét theo
nhiều tiêu thức khác nhau. Một trong những cách tiếp cận thơng dụng là phân tích
ngun nhân gây ra từ phía bên cho vay, bên vay và những quy định của pháp
luật.
II.1.

Ngun nhân từ phía bên cho vay có thể bao gồm :

Ngân hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ giải
ngân cho khách hàng như đã cam kết. Các tổ chức tín dụng khơng chấp hành
nghiêm chỉnh chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Nhiều tổ chức cho vay không
tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc 6cs, điều mà các định chế tài chính
quốc tế ln cảnh báo là: 6cs tính cách người vay (character), năng lực trả nợ
(capacity), dịng tiền mặt (cash folow), tài sản thế chấp (collaral), các điều kiện
mơi trường (conditions), sự kiểm sốt (control), mà vẫn dựa vào cảm tính của các
nhân viên ngân hàng. Điều này, tạo điều kiện cho các tổ chức “tín dụng đen” ngày
càng được tổ chức ở phạm vi rộng rãi hơn, quy mô hơn và nhiều người đã trở
thành nạn nhân của các tổ chức này. Trên thực tế, bên cho vay khi tiến hành thẩm
định cũng không thể kiểm tra được bên vay có thơng qua một tổ chức tín dụng đen
nào khơng.
Chính sách và quy trình cho vay chưa thực sự chặt chẽ, chưa có quy trình
quản trị rủi ro hữu hiệu, chưa chú trọng đến phân tích khách hàng, xếp loại rủi ro
19


tín dụng để tính tốn điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng khi đáo hạn. Ở
Việt Nam, các ngân hàng thường dựa chủ yếu vào giá trị tài sản bảo đảm để quyết
định cho vay nên nhiều khi bỏ qua nhiều khách hàng tiềm năng.

Bên cho vay chấp hành chưa đầy đủ các điều kiện về biện pháp bảo đảm
tiền vay của Ngân hàng Nhà nước, chưa phân tích, đánh giá các điều kiện về biện
pháp bảo đảm tiền vay. Nhiều tổ chức tín dụng khi đánh giá về biện pháp bảo đảm
tiền vay chỉ dựa vào nguồn số liệu khách hàng cung cấp chưa có sự kiểm chứng
các sổ sách kế toán và thực tiễn kiểm kê. Phần lớn các nhân viên tín dụng phân
tích, đánh giá chưa chính xác khi tiến hành thẩm định nên kết quả thường phán
ánh không đúng thực tế hoạt động của khách hàng.
Thiếu thông tin khách hàng hay thiếu thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời,
chính xác để xem xét, phân tích trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng. Dó đó,
nhiều tổ chức tín dụng cho vay mà khơng biết một cách đầy đủ chính xác các
thơng tin cụ thể về khách hàng.
Ngày 18/4/2000, bà Nguyễn Minh Hoa (chủ tịch Hội đồng thành viên công
ty ISACO) ký hợp đồng với ISACO cam kết góp 3 tỷ đồng nhưng sau đó khơng có
tiền nên Hoa xin góp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trị giá 10 tỷ đồng. Sau
đó, lợi dụng danh nghĩa cơng ty bà Hoa đã vay gần 20 tỷ đồng của các chi nhánh
ngân hàng khác, số tiền vay được hoàn toàn bị sử dụng sai mục đích.
Qua ví dụ trên, có thể thấy thơng tin tín dụng có vai trị quan trọng và quyết
định tới sự phát triển của chính các tổ chức tín dụng. Trong q trình thực hiện
HĐTD, các tổ chức cho vay phải thường xuyên thực hiện quyền kiểm tra việc sử
dụng vốn của khách hàng. Theo thạc sĩ Nguyễn Hữu Đương – Học viện Ngân
hàng thì: “Giả sử trong ngành ngân hàng hoạt động tín dụng như một nhà máy với
sản phẩm đầu ra là các khoản tín dụng. Trong đó, quản trị rủi ro là một phân
xưởng quan trọng trong dây chuyền công nghệ để tạo ra sản phẩm. Thơng tin tín
dụng là một phần ngun liệu đầu vào cho phân xưởng đó. Ngun liệu đó bao
gồm thơng tin lịch sử, hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng (gồm cả về
tài chính và phi tài chính) và đặc biệt là các thơng tin thống kê về các chỉ tiêu
trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay”. Trong quá trình tiến
hành hoạt động cho vay, các bên cho vay nên đặc biệt lưu tâm tới các điều kiện
của bên vay để có những quyết định đúng đắn, tránh những tranh chấp về sau.
Năng lực và phẩm chất đạo đức của một số nhân viên tín dụng chưa đủ tầm

dẫn đến có trường hợp khách hàng vay vốn có thế chấp bằng tài sản nhưng vẫn
được giữ cả vật thế chấp và giấy tờ gốc chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của
họ. Rồi sau đó, khách hàng đem bán tài sản bảo đảm cho người thứ ba. Khi đó cả

20


ngân hàng và người thứ ba đều cho rằng tài sản đó phải thuộc sở hữu của mình.
Trên thực tế, đã có nhiều tranh chấp HĐTD phát sinh do nguyên nhân này.
Như vậy, đối với bên cho vay cần tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình, điều
kiện cho vay, nâng cao đội ngũ nhân lực ngân hàng, củng cố và phát triển hệ thống
thơng tin tín dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hoạt động của bên vay có
đúng như cam kết khơng.
II.2. Ngun nhân từ phía bên vay
Các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp HĐTD do người vay bao gồm:
Bên vay không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện khơng đầy đủ những
nghĩa vụ của mình. Điều này, có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan chi phối.
Về mặt khách quan: là những nguyên nhân tác động ngồi ý chí của khách
hàng như do thiên tai, hoả hoạn, do sự thay đổi của chính sách quản lý kinh tế,
điều chỉnh quy hoạch, do biến động của thị trường trong và ngoài nước, quan hệ
cung cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không tiến hành
được như kế hoạch đã định.
Về mặt chủ quan: là yếu tố xuất phát từ mỗi khách hàng. Đó có thể xuất
phát từ vốn tự có tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không đáp ứng
nhu cầu, năng lực điều hành cịn hạn chế, thiếu thơng tin thị trường và thông tin về
các đối tác, bạn hàng làm ảnh hưởng tới q trình sản xuất, cơng nghệ chưa được
cải thiện nên sản phẩm tạo ra chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh
kém, hậu quả là doanh nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản. Ngoài ra, nhiều
trường hợp do khách hàng cố tình đưa ra những thơng tin sai sự thật ngay từ khi

vay vốn.
Do khách hàng thiếu hiểu biết về pháp luật. Hiện nay, trình độ hiểu biết của
khách hàng về những kiến thức pháp luật liên quan còn rất hạn chế. Đã có nhiều
trường hợp khách hàng ký những hợp đồng trái pháp luật, đặt bản thân họ vào tình
trạng bất lợi và phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề.
Bà Phan Ngọc Dung, Q8, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004 bà thế chấp
ngơi nhà của mình để vay vốn ngân hàng đầu tư và phát triển(NH ĐT&PT) chi
nhánh Tân Tạo số tiền 240 triệu VNĐ đầu tư cho cơ sở may gia cơng. Nhưng sau
đó do khơng có hiểu biết về những quy định của pháp luật bà Dung đã ký hợp
đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới. Hiện tại, khoản tín dụng mới khơng
vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có khả năng thanh tốn và bên vay cịn
21


phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực
hiện hợp đồng bán nhà trên.
Trong tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là pháp
luật ngân hàng thì sẽ khơng dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản
vay. Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một số lượng lớn người
dân còn nhiều hạn chế.
Trong thời gian tới, Nhà nước cần có nhiều kênh thơng tin tạo cơ hội cho
khách hàng tiếp cận và nắm vững được các quy định của pháp luật, hạn chế được
những rủi ro đối với các bên.
II.3. Nguyên nhân nữa làm phát sinh tranh chấp HĐTD là do quy định
của pháp luật.
Nhiều quy định của pháp luật còn chưa được hiểu thống nhất, dẫn đến mỗi
bên hiểu theo những cách khác nhau nhằm bảo vệ cho quyền và lợi ích của mình,
từ đó nảy sinh những bất đồng mâu thuẫn và đi đến tranh chấp. Hiện nay, pháp
luật quy định các bên cho vay nếu muốn từ chối khách hàng nào thì bắt buộc phải
đưa ra các căn cứ hay những lý do chính đáng. Nhưng chưa có văn bản nào hướng

dẫn cụ thể về vấn đề này. Vì thế, phía người cho vay quan niệm rằng cho vay là
quyền được tự do kinh doanh của họ vì vậy lý do có chính đáng hay khơng do ho
quyết định. Cịn người đi vay thì khơng đồng ý với cách hiểu đó và trong những
trường hợp bị từ chối họ sẵn sàng khiếu nại tới các cơ quan liên quan để yêu cầu
giải quyết. Cả hai cách hiểu đó đều khơng thoả đáng. Để khắc phục tình trang này,
nhất thiết phải có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng để các bên trong hợp đồng cũng như
các nhà áp dụng pháp luật được thông nhất.
Nhiều quy định còn chồng chéo nhất là các biện pháp xử lý tài sản bảo
đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn
chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều quy định không thể thực hiện được trên thực tế.
Việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo
kẽ hở trong quản lý. Theo Nghị định số 163/2006/NĐ - CP cho phép các tổ chức
tín dụng được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán tài sản thế chấp, nhận các
khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ,
phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên không thoả thuận
được phương thức xử lý tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì
các tài sản này được đem bán đấu giá nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký
hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường khơng
thực hịên được do bên thế chấp khơng đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay khơng
có cơ chế nào để bảo vệ được quyền lợi của mình.

22


Để hạn chế được các tranh chấp thì trước hết phải có cách hiểu thống nhất
và những quy định cần được hướng dẫn thi hành một cách cụ thể. Đây cũng là một
trong những công tác cần làm tốt trong quá trình ban hành và sửa đổi những quy
định của pháp luật.
III.


Một số biện pháp nhằm đảm bảo hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp
đồng tín dụng tại Tồ án

III.1. Những biện pháp hoàn thiện pháp luật.
Thời gian qua, các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng và những định chế tài chính khác đã được sửa đổi, bổ sung và
hồn thiện từng bước theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như với thực
tiễn áp dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại những bất cập trong hệ thống
pháp luật ngân hàng và các văn bản pháp luật liên quan làm cho các bên cũng như
các cơ quan tham gia giải quyết tranh chấp lúng túng, không thống nhất đuợc cách
áp dụng.
III.1.a. Những biện pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng
liên quan tới giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Một là, bổ sung các quy định về thủ tục rút gọn đối với giải quyết tranh
chấp HĐTD.
Theo quy định của BLTTDS, thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD còn mất
rất nhiều thời gian. Thông thường để giải quyết xong một tranh chấp HĐTD phải
mất gần hai năm (bao gồm cả sơ thẩm và phúc thẩm), chưa kể một khoảng thời
gian không nhỏ để tiến hành thi hành án. Điều này làm cho các tổ chức tín dụng và
các định chế tài chính khác cho vay khơng thu hồi được nợ, ảnh hưởng tới hoạt
động của bên cho vay. Đối với những tranh chấp HĐTD mà chứng cứ rõ ràng, bị
đơn có địa chỉ, lai lịch cụ thể, họ thừa nhận nghĩa vụ của mình trước nguyên
đơn,nếu nguyên đơn xuất trình được chứng cứ bằng văn bản để chứng minh cho
yêu cầu của mình và nếu như bị đơn cùng tất cả những người liên quan khác trong
vụ tranh chấp không có sự phản đối về sự giả mạo của bằng chứng đó thì Tồ án
có thể khẳng định được tính chính xác thực và độ tin cậy của các thơng tin trong
các văn bản đó. Do vậy, Tồ án khơng phải mất nhiều thời gian để điều tra, xác
minh mà vẫn có thể giải quyết đúng pháp luật vụ tranh chấp đó, đảm bảo giải
quyết nhanh gọn, hiệu quả. Vì thế, thủ tục rút gọn có thể được quy định theo mơ
hình sau:

Có cơ chế để cán bộ Tồ án có cơ sở để ban hành quyết định áp dụng thủ
tục rút gọn đối với những những tranh chấp được áp dụng thủ tục này.
23


Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Đối với những tranh chấp HĐTD áp dụng thủ
tục rút gọn thì thời hạn chuẩn bị xét xử là không quá 15 ngày, kể từ ngày thụ lý vụ
án.
Về thời hạn mở phiên toà xét xử sơ thẩm: Trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà.
Về phiên toà sơ thẩm: Thành phần tham gia xét xử đối với thủ tục rút gọn
chỉ cần một thẩm phán mà không cần thành lập hội đồng xét xử. Không nên phải
trải qua tuần tự tất cả các bước như đối với phiên tồ thơng thường.
Thủ tục rút gọn giải quyết các tranh chấp HĐTD đang còn là vấn đề xa lạ
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. Mặc dù vậy, việc thừc nhận thủ tục rút
gọn trong giai đoạn hiện nay là phù hợp với chư trương cải cách tư pháp mà Đảng
và Nhà nước đã đề ra trong Báo cáo chính trị của Đảng: “Đẩy mạnh việc thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử
làm trọng tâm”. Đồng thời đáp ứng được yêu cầu giải quyết các tranh chấp HĐTD
đang ngày càng gia tăng, giảm bớt án tồn đọng hàng năm ở các cấp Toà án, bảo vệ
kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
Hai là, ban hành những văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành một số quy
định chưa cụ thể trong BLTTDS. Ví dụ như quy định hướng dẫn thực hiện các quy
định về giao nộp chứng cứ, trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ.
Bổ sung Điều 84 BLTTDS, quy định cụ thể về thời hạn đương sự giao nộp
chứng cứ cho Tồ án và có văn bản quy định chi tiết về việc xử lý trách nhiệm
trong trường hợp không nộp hoặc nộp không đầy đủ. Vì trong quá trình giải quyết
tranh chấp HĐTD chứng cứ là yếu tố quan trọng. Vì thế, cần quy định cụ thể, rõ
ràng trách nhiệm của đương sự để nâng cao trách nhiệm và giúp giải quyết nhanh

vụ tranh chấp.
Ba là, bổ sung quy định của pháp luật về tiêu chuẩn và nguồn bổ nhiệm
thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường, tranh chấp phát sinh từ HĐTD không chỉ giới
hạn ở các chủ thể là tổ chức cá nhân Việt Nam mà còn liên quan tới các chủ thể có
yếu tố nước ngồi. Điều này địi hỏi đội ngũ thẩm phán khơng chỉ phải giỏi về
chun mơn mà cịn phải đáp ứng u cầu về khả năng ngoại ngữ và sử dụng công
nghệ thông tin một cách hiệu quả. Với các hội thẩm nhân dân cũng cần nâng cao
hiểu biết về pháp luật. Vì thế cần bổ sung tiêu chuẩn này vào quy định của Pháp
lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân số 02/2002/PLUBTVQH ngày 4/10/2002.
Ngồi ra, nguồn bổ nhiệm thẩm phán khơng chỉ từ những người đang công tác
24


trong ngành mà còn cả những người là các luật sư có đầy đủ những điều kiện theo
quy định của pháp luật.
Tiến hành công tác bổ nhiệm thẩm phán, đảm bảo khơng để thiếu thẩm
phán như hiện nay. Có thể tăng nhiệm kỳ của các thẩm phán, tăng nguồn bổ
nhiệm. Như vậy tạo điều kiện cho các thẩm phán yên tâm làm tốt cơng tác của
mình. Trong tương lai có thể thay chế độ bổ nhiệm thẩm phán bằng chế độ thi
tuyển thẩm phán, thực hiện công tác thi tuyển nghiêm túc, công bằng đối với các
đối tượng dự thi.
III.1.b. Hoàn thiện các quy định của pháp luật ngân hàng.
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề lãi suất của
hoạt động cho vay. Để phù hợp với sự phát triển của hoạt động này,nên sửa đổi
quy định tại Điều 476 BLDS.
Điều 476 quy định lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được
vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại
cho vay tương ứng. Lãi suất cơ bản để cho vay bằng đồng tiền Việt Nam áp dụng
từ ngày 1/3/2008 là 8,75%/năm. Theo đó, mức lãi suất cho vay tối đa của các ngân

hàng chỉ được ở mức 13,1%/ năm. Quy định như vậy là khơng phù hợp vì xét về
bản chất HĐTD là sự tự do thoả thuận của các đương sự. Việc xác định lãi suất
cho vay trong HĐTD phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
+ Lãi suất chung trên thị trường
+ Số tiền vay: Đối với các khoản vay trung và dài hạn có quy mơ lớn, lãi suất cho
vay thường thấp hơn các khoản vay cùng kỳ hạn nhưng có quy mô nhỏ hơn.
+ Thời hạn vay: Về nguyên tắc, có thể lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn
lãi suất ngắn hạn vì tính thanh khoản thấp, chi phí nguồn vốn cho vay cao và chứa
đựng nhiều rủi ro.
+ Loại khách hàng: khách hàng có mức tín nhiệm thấp phải chịu mức lãi suất cao
hơn khách hàng có mức độ tín nhiệm cao hơn.
Hơn nữa, chỉ nên quy định lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước chỉ là
một cơ sở để các bên thoả thuận lãi suất, thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận
theo nguyên tắc thị trường.
Thứ hai, ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể Khoản 1 Điều 11 Quyết định
1627 vì nhiều trường hợp cơ quan thi hành án khi áp dụng các văn bản luật không
chấp nhận mức lãi suất mà các bên thoả thuận để xử lý nợ quá hạn đối với tài sản
25


×