Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TÀI LIỆU ôn tập THI TUYỂN VIÊN CHỨC năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.59 KB, 17 trang )

TÀI LIỆU ÔN TẬP THI TUYỂN VÊN CHỨC NĂM 2014
(Môn Kiến thức chung)
PHẦN LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hòa ra đời, đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhà
nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa trước đây nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới về bản chất, khác hẳn với các kiểu
nhà nước từng có trong lịch sử. Bản chất bao trùm chi phối mọi lĩnh vực tổ chức
và hoạt động của đời sống nhà nước là tính nhân dân của nhà nước. Điều 2 Hiếu
pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân được thể hiện bằng những
đặc trưng sau:
a. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã tiến hành đấu tranh cách
mạng, trải qua bao hy sinh gian khổ làm nên cách mạng Tháng Tám năm 1945,
Nhân dân tự mình lập nên nhà nước. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ngày nay là sự tiếp nối sự nghiệp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, là nhà nước do Nhân dân mà nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức,
tự mình định đoạt quyền lực nhà nước.
Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước thực
hiện quyền lực nhà nước với nhiều hình thức khác nhau. Hình thức cơ bản nhất
là Nhân dân thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của mình.


Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
b. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả
các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc
Tính dân tộc của Nhà nước Việt Nam là vấn đề có truyền thống lâu dài, là
nguồn gốc sức mạnh của nhà nước. Ngày nay, tính dân tộc ấy lại được tăng
cường và nâng cao nhờ khả năng kết hợp giữa tính giai cấp, tính nhân dân, tính
dân tộc và tính thời đại. Điều 5 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “ Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Ngôn ngữ
quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản
sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của
mình. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các
dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”.
c. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và
công dân
Trước đây, trong các kiểu nhà nước cũ, quan hệ giữa nhà nước và công dân
là mối quan hệ lệ thuộc, người dân bị lệ thuộc vào nhà nước, các quyền tự do
dân chủ bị hạn chế.
Ngày nay, khi quyền lực thuộc về nhân dân thì quan hệ giữa nhà nước và
công dân đã thay đổi, công dân có quyền tự do dân chủ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, đồng thời làm tròn nghĩa vụ trước nhà nước. Pháp luật bảo
đảm thực hiện trách nhiệm hai chiều giữa nhà nước và công dân; quyền của
công dân là nghĩa vụ, trách nhiệm của nhà nước, nghĩa vụ của công dân là
quyền của nhà nước.
d. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và

pháp quyền
Dân chủ hóa đời sống nhà nước và xã hội không chỉ là nhu cầu bức thiết
của thời đại mà còn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc, nảy sinh từ bản chất dân
chủ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là thu hút người lao động tham gia
một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi vào quản lý công việc của nhà nước
và của xã hội. Vì vậy, quá trình xây dựng nhà nước phải là quá trình dân chủ
hóa tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời phải cụ thể hóa tư
tưởng dân chủ thành các quyền của công dân, quyền dân sự, chính trị cũng như
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Phát huy được quyền dân chủ của nhân dân
ngày càng rộng rãi là nguồn sức mạnh vô hạn của nhà nước.
Dân chủ bao giờ cũng gắn với pháp luật. Đó là bản chất của nhà nước pháp
quyền. Vì vậy, toàn bộ cơ quan nhà nước từ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp đều phải được tổ chức và hoạt động theo pháp luật, bằng pháp luật. Nhà
nước ban hành pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng nhà nước và cơ
quan nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật. Cơ quan nhà nước “chỉ được làm
những điều pháp luật cho phép”; bảo đảm và phát triển quyền tự do dân chủ
của nhân dân, còn nhân dân “được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”.
Những đặc điểm mang tính bản chất nêu trên của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện cụ thể trong các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước và pháp luật chế định một cách chặt chẽ. Tóm lại, Nhà nước ta mang
bản chất giai cấp công nhân, quán triệt tư tưởng, quan điểm của giai cấp công
nhân từ pháp luật, cơ chế, chính sách đến tổ chức hoạt động của mình. Đồng
thời, Nhà nước ta cũng mang tính dân tộc, tính nhân dân sâu sắc. Đó là nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
2. Chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chức năng của nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản của nhà
nước, thể hiện bản chất, mục đích của nó, được quy định bởi thực tế khách quan
của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và tình hình quốc tế từng giai
đoạn phát triển.

Căn cứ vào phạm trù tác động của các phương diện hoạt động cơ bản của
nhà nước, có thể chia các chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
a. Chức năng đối nội
- Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội. Muốn tiến hành sự nghiệp đổi mới thuận lợi, Nhà nước ta
phải bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn bộ đất nước. Nhà
nước phải có đủ sức mạnh và kịp thời đập tan mọi âm mưu chống đối của các
thế lực thù địch, đảm bảo điều kiện ổn định cho Nhân dân sản xuất kinh doanh.
Muốn vậy, Nhà nước phải quan tâm xây dựng các lực lượng an ninh, các cơ
quan bảo vệ pháp luật, đồng thời phải “phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị, tính tích cực cách mạng của khối đại đoàn kết toàn dân, phối
hợp lực lượng quốc phòng và an ninh trong cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật
tự” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb.ST, H1991, tr.87).
- Chức năng bảo vệ quyền tự do, dân chủ của Nhân dân. Đây là một trong
những chức năng quan trọng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa; bởi vì,
việc thực hiện chức năng này thể hiện trực tiếp bản chất của nhà nước kiểu mới,
nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Đồng thời, việc thực hiện
chức năng này sẽ đảm bảo sức mạnh của Nhà nước trong việc thực hiện tất cả
các chức năng khác của Nhà nước, quan hệ đến sự tồn tại, phát triển của bản
thân Nhà nước và chế độ. Đảng ta nhấn mạnh “Nhà nước có mối liên hệ thường
xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa
và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm
quyền dân chủ của nhân dân”(Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
- Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Đây là chức năng quan trọng, liên quan trực tiếp đến việc thực hiện tất cả
các chức năng khác của Nhà nước. Pháp luật là phương tiện quan trọng để Nhà

nước tổ chức thực hiện có hiệu quả tất cả các chức năng của mình, do đó, bảo
vệ trật tự pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là hoạt động thường
xuyên, có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước. Mục đích của chức năng này là nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, thực hiện quản lý trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật.
- Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế.
Tổ chức và quản lý nền kinh tế đất nước, xét đến cùng là chức năng hàng
đầu và là cơ bản nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
mọi xã hội dựa trên cơ sở vật chất và kỹ thuật phát triển cao.
Nhà nước ta là người đại diện cho ý chí, quyền lực của Nhân dân lao động,
là người chủ sở hữu đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; là người nắm trong tay
các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, pháp luật, tài chính,
ngân hàng…) và quản lý việc sử dụng tài sản quốc gia. Trên cơ sở đó, Nhà nước
có đủ điều kiện để tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trong
nước cũng như hợp tác quốc tế.
- Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục.
Xã hội mới mà Nhân dân ta đang xây dựng là xã hội do Nhân dân lao động
làm chủ; có nền kinh tế phát triển trên cơ sở một nền khoa học và công nghệ
tiên tiến; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi sự áp bức, bóc lột, bất công, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. Muốn xây dựng xã hội đó, Nhà nước ta
phải tổ chức, quản lý sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học
và công nghệ. Đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, phát
huy vai trò then chốt của khoa học và công nghệ. Đó là những động lực trực
tiếp của sự phát triển, tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các chức năng
khác của Nhà nước vừa nhằm tổ chức quản lý văn hóa, khoa học, giáo dục vừa
nhằm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế xã hội. Trước mắt, cần chuẩn bị cho đất
nước bước vào những giai đoạn phát triển tiếp theo trong tương lai, hòa nhập
với sự phát triển của nền văn minh thế giới.

b. Chức năng đối ngoại
Nhà nước ta thực hiện chức năng đối ngoại nhằm tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, mở rộng hợp tác quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời làm tròn nghĩa
vụ quốc tế đối với phong trào cách mạng thế giới. Đảng ta nhấn mạnh: “Mục
tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp
đấu tranh chung của nhân loại thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb.ST, H.1991, tr19).
- Chức năng bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tất cả chức năng đối nội của nhà nước chỉ có thể được triển khai thực hiện
tốt khi Tổ quốc được bảo vệ vững chắc. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc là chức năng
cực kỳ quan trọng nhằm giữ gìn thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây
dựng hòa bình của nhân dân, tạo điều kiện ổn định triển khai các kế hoạch phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Chức năng củng cố, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa, đồng thời mở rộng quan hệ với các nước khác theo nguyên tắc
bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hòa bình, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau.
Tư tưởng chỉ đạo thực hiện chức năng này của Nhà nước ta là, trên cơ sở
kiên trì đường lối độc lập tự chủ và đoàn kết quốc tế, “nhiệm vụ đối ngoại bao
trùm trong thời gian tới là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb.ST, H1991, tr.88).
- Chức năng ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản, chống chủ

nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới. Chống chủ nghĩa phân biệt chủng
tộc, chống chính sách gây chiến và chạy đua vũ trang, góp phần tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều
vào cộng đồng thế giới. Vì vậy, bất cứ nhà nước tiến bộ nào cũng đều có nghĩa
vụ ủng hộ phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Thắng lợi của cách
mạng Việt Nam không tách rời sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của nhân dân thế
giới. Ngày nay, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang mở rộng
hợp tác với tất cả các nước trên thế giới cùng phấn đấu vì một thế giới hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển.
3. Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ
chức chặt chẽ, khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống
nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước.
Thông thường trong bộ máy nhà nước nói chung bao gồm ba loại cơ quan:
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp.
- Cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương).
- Cơ quan hành chính nhà nước, tức là cơ quan hành pháp (đứng đầu hệ
thống này là Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính
phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã, các sở, phòng, ban…).
- Cơ quan tư pháp:
+ Các cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa
phương, Tòa án quân sự…).
+ Các cơ quan kiểm sát (Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát
nhân dân địa phương, Viện kiểm sát quân sự). Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy

nhà nước tùy thuộc vào hiệu lực, hiệu quả hoạt động của từng cơ quan nhà
nước.
Nhìn tổng quát, bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
được tổ chức thành các phân hệ sau:
a. Quốc hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp
năm 2013, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước. Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội được quy định tại Điều 70 Hiến pháp
2013.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại (Điều 86); nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định tại Điều 88 Hiến pháp 2013.
c. Chính phủ
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội. Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý mọi mặt đời sống xã hội
trên cơ sở Hiến pháp và luật.
d. Các cơ quan xét xử:
Các cơ quan xét xử gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân địa phương.
- Tòa án quân sự.
- Các tòa án do luật định.
Nhiệm vụ là xét xử và giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, lao động, hôn
nhân và gia đình… để bảo vệ trật tự pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của tòa án
là độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật.
đ. Các cơ quan kiểm sát

Các cơ quan kiểm sát gồm:
- Viện kiển sát nhân dân tối cao.
- Viện kiểm sát nhân dân địa phương.
- Viện kiểm sát quân sự.
Nhiệm vụ là kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hiện quyền công tố
nhà nước trong phạm vi thẩm quyền do luật định, bảo đảm cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
e. Chính quyền địa phương
Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà
nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật
định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực
hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân (Điều 113).
Uỷ ban nhân dân ở cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cùng
cấp bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân và cơ quan hành
chính nhà nước cấp trên. Uỷ ban nhân dân tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; tổ chức thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân và
thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao (Điều 114).
4. Phương thức hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, Nhà nước áp dụng
nhiều hình thức hoạt động khác nhau. Những hình thức ấy bắt nguồn và trực
tiếp thể hiện bản chất cũng như mục tiêu hoạt động của Nhà nước. Hoạt động
của Nhà nước là hoạt động quản lý gắn với quyền lực, pháp luật. Nó thường
diễn ra dưới các hình thức cơ bản là:
- Ban hành pháp luật;
- Thực hiện pháp luật;
- Bảo vệ pháp luật.

Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, chẳng hạn,
quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội; quan hệ giữa Nhà nước với các cộng
đồng dân tộc trong một quốc gia; quan hệ giữa Nhà nước và công dân; quan hệ
giữa Nhà nước với các cộng đồng tôn giáo… Các quan hệ đó lại diễn ra trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đời sống. Nhiệm vụ của
Nhà nước ta là sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát triển
theo hướng lành mạnh và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá
trình quản lý, Nhà nước phải kết hợp pháp luật với đạo đức, coi trọng giáo dục
nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, hơn nữa, do bản chất của Nhà nước ta quy
định nên dù Nhà nước hoạt động dưới hình thức nào cũng phải thu hút được
đông đảo nhân dân lao động tham gia vào xây dựng nhà nước và quản lý nhà
nước.
II. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG VÀ HOÀN
THIỆN NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Hệ thống quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện quyền
lực của Nhân dân. Công cuộc đổi mới càng mở rộng, càng đòi hỏi bức bách
phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, quản lý có
hiệu lực và hiệu quả trong điều kiện mới, bảo đảm cho bộ máy Nhà nước ta giữ
vững bản chất cách mạng, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì
vậy, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước trong những năm tới phải tiếp tục
quán triệt sâu sắc các quan điểm cơ bản sau đây:
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
làm nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của
Nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và Nhân dân. Đây là vấn đề bản chất nhà nước, cần
phải được quán triệt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Quán
triệt bản chất giai cấp của Nhà nước ta chính là kiên định vai trò lãnh đạo của
Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu xã

hội chủ nghĩa. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân; mọi quyền lực
nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhà nước ta do dân lập nên, dân bầu ra, dân
giám sát và bãi miễn. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của
Nhân dân. Nhà nước phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của Nhà nước ta. Dân chủ phải đi đôi với kỷ
cương, pháp luật.
Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Trong Cương lĩnh của Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta thống nhất
ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch giữa ba
quyền đó”. Như vậy,khác với thuyết “phân lập các quyền”, ở đây, quyền lực
nhà nước là thống nhất, không phân chia và thuộc về Nhân dân. Nhân dân trao
quyền lực cho Quốc hội bằng phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp; giải quyết những vấn đề quan
trọng của đất nước về đối nội và đối ngoại; quyết định về tổ chức và bố trí nhân
sự của bộ máy nhà nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, lại có sự phân biệt và phân bổ các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống bộ máy nhà nước thống nhất. Có
thể xem đó như là một sự phân công lao động hợp lý giữa những tổ chức của
nhà nước có sự ràng buộc, hợp tác và giám sát lẫn nhau, bảo đảm cho mọi tổ
chức làm đúng chức năng của mình và đúng pháp luật: không một ai, không
một tổ chức nào được lạm quyền và đứng trên pháp luật, nhưng tất cả đều nằm
trong quyền lực nhà nước thống nhất, không có sự phân lập, đối lập lẫn nhau.
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước. Kết hợp đúng đắn tập trụng và dân chủ trong từng thời kỳ là bài học
kinh nghiệm trong quản lý xã hội, là yếu tố quyết định sức mạnh tổ chức và
hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước, nó tạo ra sự thống nhất về tổ chức và
hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả tập thể và từng cá nhân, của cả
nước và từng địa phương. Vì vậy, trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước cần
tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của trung ương nhằm

khắc phục nguy cơ tự phát, vô chính phủ. Đồng thời, phát huy trách nhiệm và
tính năng động sáng tạo của địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và
quản lý lãnh thổ.
Tuy nhiên, nội dung nguyên tắc tập trung dân chủ phải được hiểu và vận
dụng sát với tính chất, chức năng của từng loại cơ quan, từng lĩnh vực hoạt
động. Nội dung tập trung và dân chủ phải được quán triệt trong luật, nghị định,
quy chế về tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, phân cấp quản lý giữa các
cấp chính quyền xác định rõ quyền và nghĩa vụ của từng cấp chính quyền.
- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng
cao đạo đức.
Đề cao tinh thần hợp hiến của hoạt động nhà nước và tính nhân văn của
pháp luật là một đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền. Pháp luật điều
chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản: giữa công dân với nhà nước, giữa công dân
với nhau, giữa nhà nước và các tổ chức xã hội… Và bản thân nhà nước cũng
được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cần tiếp tục rà soát, bổ sung
hoàn chỉnh hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu mới của quản lý nhà nước
trong điều kiện của cơ chế thị trường, mở cửa với bên ngoài, bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của công dân về kinh tế, chính trị, xã hội, lao động, dân sự; đấu tranh
chống tệ quan liêu, tham nhũng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách nền hành
chính quốc gia, tăng cường quốc phòng và an ninh.
Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực xây dựng pháp
luật, thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật. Pháp luật phải được thi hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Kiên quyết đấu tranh chống hiện tượng coi thường pháp
luật, kỷ cương phép nước không nghiêm. Xử lý nghiêm minh những vụ vi phạm
pháp luật, trước hết từ trong nội bộ Đảng, từ bên trên.
Quá trình xây dựng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
cần kết hợp chặt chẽ với việc giáo dục, nâng cao đạo đức, kết hợp chặt chẽ sức
mạnh của pháp luật và sức mạnh của đạo đức, tính tự giác trong quá trình quản

lý nhà nước và xã hội.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Quá trình cải cách bộ máy nhà nước phải bảo đảm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng. Thiếu nó nhà nước sẽ không còn là nhà nước kiểu mới, bài học ở
Liên Xô và Đông Âu là khi Đảng Cộng sản mất vai trò lãnh đạo đối với nhà
nước thì nhà nước biến chất, do đó, những người lao động mất quyền.
Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho Nhà nước hoạt động đúng hướng là
nhà nước của dân, do dân, vì dân, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, trong quá trình Nhà nước đổi mới thì Đảng cũng không thể lãnh đạo theo
phương thức áp đặt, bao biện làm thay như trước, do đó, cần chỉnh đốn Đảng và
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước. Trong điều kiện mới, sự
lãnh đạo của Đảng được tăng cường không phải dựa vào uy quyền, mệnh lệnh,
mà là ở trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính
trị đúng đắn và khả năng giáo dục thuyết phục toàn xã hội chấp nhận, ở vai trò
tiên phong gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng trong điều kiện Đảng cầm
quyền.
2. Phương thức đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước
Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây dựng cơ chế
vận hành của nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường tính cụ thể, khả thi của các quy định
trong văn bản pháp luật. Xây dưng và hoàn thiện thể chế giám sát, kiểm tra tính
hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, H.2006, tr45).
Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta hiện nay là:
“Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên tất
cả các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ,

công chức; phương thức hoạt động. Định rõ những việc nhà nước phải làm và
bảo đảm đủ các điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm
thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ
quan nhà nước. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, tiếp tục cải cách tư
pháp một cách thực chất và toàn diện” (Sđd, st.253).
Bộ máy nhà nước cần được cải cách theo những phương hướng chủ yếu
sau đây:
a. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của Nhân
dân trong xây dựng nhà nước và quản lý nhà nước.
Chúng ta chủ trương xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng
viên và công chức phải thực sự là công bộc của Nhân dân, chịu sự giám sát của
Nhân dân. Đây là phương hướng vừa cơ bản vừa cấp bách nhằm giữ vững và
phát huy bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, đồng thời sẽ tạo ra điều kiện cơ bản
để ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng thoái hóa đạo đức, tham nhũng, lãng phí, quan
liêu, sách nhiễu nhân dân trong bộ máy nhà nước. Trong quá trình cải cách bộ
máy nhà nước, cần làm cho cán bộ và Nhân dân nhận thức sâu sắc rằng, đây là
vấn đề sống còn đối với chế độ ta. Chính quyền có trong sạch, được dân tin yêu,
ủng hộ thì mới vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Và cũng chỉ có dựa
vào sức mạnh của Nhân dân thì mới xây dựng được chính quyền trong sạch
vững mạnh, tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Tất nhiên, mở rộng
dân chủ phải đi đôi với tăng cường kỷ cương, pháp chế, quyền lợi đi đôi với
trách nhiệm, nghĩa vụ.
Thực hiện phương hướng trên, cần nâng cao chất lượng chế độ dân chủ
đại diện, đồng thời từng bước thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết
thực và có hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục cải tiến chế độ bầu cử để thực sự là cơ
quan đại điện và là cơ quan quyền lực nhà nước; xác định rõ trách nhiệm của
thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại và tố cáo của công
dân; các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần bổ sung và xây dựng mới các văn
bản pháp luật nhằm xác định rõ quyền giám sát, kiểm tra của Nhân dân trong
các lĩnh vực.

b. Nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội
Trong những năm tới, việc nâng cao chất lượng của Quốc hội cần được
thực hiện theo những phương hướng chủ yếu sau đây:
- Tăng cường hoạt động của Quốc hội, nhất là chất lượng hoạt động lập
pháp, phấn đấu trong những năm tới xây dựng được một hệ thống pháp luật
đồng bộ, làm cơ sở pháp lý cho việc điều hành, quản lý các hoạt động trên các
lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
- Phấn đấu tiến tới việc Quốc hội thực hiện đầy đủ quyền quyết định ngân
sách như Hiến pháp quy định.
- Nâng cao chất lượng, giám sát tối cao của Quốc hội, khẩn trương xây
dựng cơ chế giám sát có hiệu lực, hiệu quả.
- Tiếp tục kiện toàn tổ chức Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của
đại biểu Quốc hội.
c. Tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước.
Đây là yêu cầu rất bức xúc và là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới. Trong
những năm trước mắt, tập trung làm tốt một số công việc sau đây:
- Tăng cường quản lý kinh tế xã hội theo pháp luật, giữ vững ổn định
chính trị xã hội, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then
chốt, bảo đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao đời sống.
- Xây dựng bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
phân định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cơ quan nhà nước, của các cấp chính
quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ
quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, thiết lập kỷ
cương xã hội, đặc biệt là tăng cường thanh tra việc thực hiện thể chế về những
lĩnh vực quan trọng như tài chính, lao động, giáo dục, vệ sinh, y tế, xây dựng,
công vụ…

d. Cải cách hệ thống cơ quan tư pháp
Tiếp tục cải cách hệ thống cơ quan tư pháp theo tinh thần Nghị quyết 08
của Bộ Chính trị. Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội
chống Tổ quốc, chống chế độ, chống tội tham nhũng và các tội hình sự khác,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Tòa án nhân dân phải thực hiện đúng hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử
sơ, chung thẩm của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án quân sự Trung ương.
Tòa án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các
tòa án áp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét xử.
- Nâng cao chất lượng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân, tập trung
tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Ngoài ra cần kiện toàn tổ chức thi hành án; chấn chỉnh các trại giam để
giáo dục cải tạo phạm nhân, củng cố tăng cường các tổ chức bổ trợ tư pháp, xây
dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị,
đạo đức và năng lực chuyên môn.
đ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Văn kiện Đại hội X của Đảng đã chỉ ra rằng: Điều chỉnh cơ cấu chính
quyền địa phương cho phù hợp với những thay đổi chức năng, nhiệm vụ. Phân
biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị để tổ
chức bộ máy phù hợp. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra hoạt động
của bộ máy chính quyền cơ sở.
Trong những năm tới, cần làm tốt những việc sau đây:
- Tập trung sức kiện toàn chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn).
- Kiện toàn, củng cố Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp để bảo
đảm tốt nhiệm vụ và thẩm quyền, cùng chính quyền cấp trên thực hiện nhiệm
vụ quản lý nhà nước theo ngành trên địa bàn lãnh thổ.
- Xây dựng Hội đồng nhân dân các cấp có thực hiện quyền để thực hiện
đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện và quyền lực nhà nước ở địa phương.
e. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng chính trị và chất
lượng chuyên môn là yếu tố quyết định chất lượng hoạt động của bộ máy nhà

nước
Đổi mới chính sách cán bộ và công tác quản lý cán bộ, xây dựng chế độ
công vụ rõ ràng, minh bạch, đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và
năng lực gắn với chế độ hưởng thụ thỏa đáng và công bằng. Thực hiện đầy đủ
nguyên tắc công khai, minh bạch, dân chủ và phục vụ dân đối với cơ quan và
công chức nhà nước.
- Đội ngũ cán bộ công chức nhà nước cần được tuyển chọn và sử dụng
theo hướng chuyên môn hóa, ổn định, bảo đảm trình độ và năng lực của từng
chức danh; xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công
chức, đào tạo lại công chức theo yêu cầu mới của quản lý nhà nước, từng bước
hiện đại hóa công sở, trang thiết bị hành chính.
- Đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức. Chương trình nội
dung đào tạo phải thiết thực, bảo đảm chất lượng, từng bước theo kịp trình độ
hiện đại.
- Đấu tranh kiên quyết và bền bỉ chống tệ tham nhũng, lãng phí của công,
gắn cuộc đấu tranh này với công cuộc cải cách nên hành chính và chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân là một quá trình phức tạp, diễn ra trên nhiều lĩnh vực. Do vậy, cần có những
bước đi vững chắc. Quá trình đổi mới tổ chức biến động của bộ máy nhà nước
phải sát hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội, đáp ứng
được yêu cầu dân chủ và pháp quyền của quá trình phát triển, tạo ra động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, hiện đại hóa đất nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU HỌC VIÊN TỰ SƯU TẦM
STT Nội dung cần tìm hiểu Ghi chú
1
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng về ngành hoặc
lĩnh vực tuyển dụng. Phương hướng chung và mục tiêu tổng
quát về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng theo
tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên

Quang lần thứ XV
1 Luật Viên chức năm 2010: Khái niệm viên chức, các
nguyên tắc trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức;
Quyền của viên chức; Nghĩa vụ chung của viên chức; Trách
nhiệm và quyền lợi của viên chức trong đào tạo, bồi dưỡng;
Những việc viên chức không được làm; Khen thưởng và kỷ
luật viên chức; Các nguyên tắc quản lý viên chức; Nội dung
quản lý viên chức; Căn cứ và nguyên tắc tuyển dụng viên
chức; Việc biệt phái viên chức; Việc chuyển đổi giữa viên
chức và cán bộ, công chức; Việc bổ nhiệm, thay đổi chức
danh nghề nghiệp đối với viên chức; Chính sách xây dựng
và phát triển các đơn vị sự nghiệp công lập và đội ngũ viên
chức; Nội dung và hình thức của hợp đồng làm việc của
viên chức; Mục đích, căn cứ và nội dung của việc đánh giá
viên chức.
2
Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của đơn vị sự nghiệp
thí sinh đăng ký dự tuyển.

×