Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Kỹ thuật canh tác của người H'Mông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.36 KB, 15 trang )

Kỹ thuật canh tác của người H'Mông
I. ĐÔI NÉT KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI HMÔNG:
1. Lịch sử tộc người :
Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, dân tộc Hmông đứng thứ tám.
Họ sống rải rác ở vùng núi cao dọc biên giới Việt Trung, Việt Lào từ Lạng Sơn
đến Nghệ An.
Người Hmông là cư dân di cư tới Việt Nam muộn hơn. Đợt thiên di đầu
tiên của họ cách ngày nay khoảng hơn 300 năm. Lịch sử thiên di của người
Hmông vào Việt Nam gắn liền với qua trình đi tìm nơi lập nghiệp và chạy trốn
những cuộc khởi nghĩa chống lại giai cấp phong kiến không thành công. Người
Hmông coi Việt Nam là quê hương thứ hai của mình. Người Hmông thiên di
vào Việt Nam theo ba đợt lớn.
Hiện nay, người Hmông tự gọi tên dân tộc mình bằng tiếng Hmông là
người Hmông. Người Hmông ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào đều thống nhất cách
gọi như vậy. Các dân tộc khác gọi người Hmông bằng những tên gọi khác nhau.
Người Trung Quốc gọi là Miêu phát âm như Mèo, người Kinh trước đây gọi
người Hmông là Mèo, người khu bốn gọi theo âm địa phương là Mẹo, gần đây
có nhiều người gọi là Mông. Các tên gọi trên đều không được đồng bào chấp
nhận.
Theo tên gọi người Hmông có những nhóm chính sau: Mống đấu (Hmông
trắng), Mống lềnh( Hmông hoa), Mống đú ( Hmông đen), Mống súa ( Hmông
Hán).
2. Không gian sống của người Hmông:
Người Hmông là cư dân nông nghiệp, lại là dân tộc vùng cao nên đất đai
canh tác đối với họ rất quý. Miền núi có độ dốc cao khiến cho đi lại khó khăn.
Độ dốc của nương rẫy có nơi 60- 70
0
. Vì thế, cây trồng sinh trưởng không được
thuận lợi. Nhiều vùng đá nhiều hơn cây. Khí hậu vùng núi cao thường khắc
nghiệt; đồng thời hiện tượng sương muối ( vào mùa đông), mưa đá ( vào mùa
1


hè) khiến canh tác gặp nhiều khó khăn. Do vậy, các loại cây điển hình cho vùng
cư trú của đồng bào là các cây họ thông: du sam, lãnh sam, thiết sam…
Địa vực cư trú của người Hmông thành hai vùng lớn
1
:
- Vùng 1: vùng biên giới Việt - Trung ( tính từ phía Bắc Cao Bằng đến
phía Bắc Lai Châu). Đây là khu vực núi đá, cây cối thưa thớt, rải rác có những
mảnh rừng già, đất canh tác ít. Mật độ dân số 70 đến 90 người / km
2
.
- Vùng 2: Dải ven biên giới Việt- Lào ( tính từ phía tây Lai Châu đến
phía tây Nghệ An). Là khu vực vùng cao núi đất, thảm thực vật phong phú,
nhiều rừng rậm và rừng già, mật độ dân số: 30- 40 người / km
2
.
Người Hmông cư trú trên hầu hết các vùng địa hình bị chia cắt mạnh, núi
non hiểm trở do điều kiện không thuận lợi, người Hmông gặp nhiều khó khăn, là
tộc người nghèo ở Việt Nam. Hiện nay, người Hmông phần lớn đã sống định cư
nhưng vẫn còn một bộ phận sống du canh du cư.
II. KỸ THUẬT CANH TÁC CỦA NGƯỜI HMÔNG
Kĩ thuật canh tác là một bộ phận của phương thức sản xuất, phản ánh
trình độ phát triển kinh tế xã hội của chủ thể kĩ thuật canh tác đó. Với không
gian cư trú khác nhau, mỗi tộc người có những đặc trưng về kĩ thuật canh tác.
Phân bố chủ yếu ở vùng núi cao hiểm trở điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, để
thích nghi, người Hmông có nhiều cách canh tác đặc trưng – kĩ thuật canh tác
Hmông.
1. Quá trình khai khẩn và các loại hình canh tác:
2.1. Quá trình khai khẩn và canh tác ruộng nước( ruộng bậc thang):
a. Quá trình khai khẩn:
- Lựa chọn vùng đất:

Mảnh đất được chọn để làm ruộng nước (ruộng bậc thang) thường là
những mảnh nằm dưới chân đồi, giữa hai sườn đồi. Vùng đất này phải có độ dốc
không cao lắm ( tối đa 50
o
); đặc biệt phải có nguồn nước tự nhiên do suối và
1
2
mạch nước mang lại. Đất bằng phẳng, ít cây to, cây cỏ mọc tươi tốt rậm rạp, ít
sỏi đá, có màu đen và có độ ánh, độ bóng.
- Xác lập quyền khai khẩn:
Sau khi đã chọn được mảnh đất vừa ý, đồng bào làm các dấu hiệu có tính
thông tin để xác lập quyền sử dụng đất của mình. Người Hmông thường xác lập
bằng cách chồng các cột đá lên cao khoảng 1m.
- Công việc khai khẩn
Thời gian tiến hành vào mùa xuân từ rằm tháng Giêng để có thể đưa vào
sử dụng ngay trong tháng 4- 5, kịp tính thời vụ. Khi một gia đình khai khẩn thì
nhiều gia đình khác sẽ đến giúp - đây là hình thức khai khẩn đổi công. Công
việc khai khẩn trên thửa ruộng đã được xác lập gồm các bước sau:
+ Dọn sạch mặt đất:
Đầu tiên đồng bào phát cỏ, các loại cây bụi nhỏ và dây leo.Phát cỏ xong,
người ta dùng cuốc bướm đào các gốc cây to còn sót lại và vun cỏ, gốc cây
thành đống, dẫm cho nhiễn vào đất cho cỏ không thể mọc lại nữa. Cây cỏ bị ải,
hoà vào đất tạo thành lớp phân xanh tăng độ dinh dưỡng và giữ độ ẩm cho đất.
+ Đào và san ruộng:
Đây là khâu quan trọng, khó và đòi hỏi các kĩ năng, kĩ thuật cao, ruộng
bậc thang phải đảm bảo hai yếu tố mặt bằng và nguồn nước. Thông thường, quá
trình đào và san ruộng được làm bằng hai cách: từ trên xuống hoặc từ dưới lên.
Nếu đào và san ruộng từ trên xuống thì ruộng đó phải có độ nghiêng từ 30- 50
o
.

Sau khi mảnh đất được dọn sạch, người ta sẽ tìm mặt phẳng nhất để làm chuẩn
( hoàn toàn bằng mát thường), để tiến hành đào và san lấp tạo thành mặt bằng.
Cách này có ưu điểm tích kiệm được thời gian nhưng độ màu giữ lại được trên
bề mặt đất lại thấp. Cách hai là san và lấp từ dưới lên: đây là cách không phổ
biến nhưng thể hiện được trình độ kỹ thuật, được tiến hành ở những thửa có độ
dốc từ 30
o
trở xuống. Đồng bào cuốc đất cho vào giành để đắp vào chỗ lõm phía
trên để tạo thành điểm chuẩn, từ điểm đó họ mới hớt đất hất lên trên để tạo
thành thửa mới. Công việc tạo mặt bằng là khâu quan trọng nhất trong khai
ruộng; việc tạo điểm chuẩn là việc và quyền của cả làng bản, nên ruộng bậc
3
thang của người Hmông khá bằng nhau, thuận lợi cho giữ nước ở chân lúa sau
này.
+ Làm bờ ruộng:
Đồng bào làm bờ ngay từ khi san ruộng. Nguồn đất để làm bờ được lấy
ngay từ chỗ san gạt ở mép cuối mặt bằng thửa ruộng, lấy cuốc bướm cào đất
thành bờ chỗ nào thiếu thì tiếp tục cào từ chỗ cao sang, rồi dùng chân và gáy
cuốc đập mạnh để nén chặt bờ ruộng.
Tóm lại, quá trình khai khẩn ruộng bậc thang được người Hmông chú
trọng, làm với những kỹ thuật đặc trưng là bước quan trọng để có thửa ruộng tốt,
thu năng suất cao. Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn, diện tích đất được khai
khẩn thành ruộng bậc thang không nhiều.
b. Quá trình canh tác:
Đây là khâu quyết định đến kết quả canh tác ruộng nước, gồm các bước
sau:
- Điều hoà nguồn nước:
Ruộng bậc thang yếu tố thuỷ lợi phải được đặt lên hàng đầu, họ quan
niệm: “ nước là mẹ, đất là cha”. Hệ thống thuỷ lợi thường bắt nguồn từ đầu
nguồn suối trên núi cao, các khe nước giữa kè đá…Từ các nguồn suối, theo độ

nghiêng của dòng chảy, người Hmông đào các mương rộng từ 80-100cm, sâu từ
40-50 cm. Mạch mương này chảy theo đường lượn của sườn đồi chảy vào
ruộng. Chỗ nào gặp địa hình gẫy đột ngột thì họ dùng cây mang ( một loại cây
rất to) cưa làm hai phần khoét rỗng để tạo thành lòng máng. Nước theo dòng
máng chảy vào ruộng. Để giữ nước trên bề mặt ruộng, người ta phải đắp bờ
ngăn nước. Để dẫn nước từ thửa trên cao xuống thửa phái dưới, bờ được xẻ ra
tạo thành rãnh dài rộng khoảng 20.20, nước qua các rãnh này xuống dưới. Các
rãnh này phải để so le giữa các thửa này với thửa kia.
Vấn đề điều hoà nguồn nước được thực hiện ở nơi có hệ thống mương
máng bắt nguồn từ chỗ có lưu lượng nước lớn xung quanh có các phân lưu nhỏ
chia cắt các nguồn nước đó. Hay chính là ở nơi có dòng suối cái và các dòng
4
suối nhỏ hợp thành. Đồng bào điều hoà nguồn nuớc bằng cách tạo ra các khối
nuớc đặt ở giữa mương và suối. Khố nước là những tấm phên dày được làm từ
các tấm đá lớn và các thân cây to. Gỗ làm khố thường bằng gỗ dẻ hoặc xoan
đào. Khi nước trong ruộng đủ để ngâm chân lúa thì khố được đóng lại và chỉ để
một khe hở nhỏ để cho nước mới vào thay nước cũ. Khi mưa lớn hoặc có lũ thì
khố được đóng kín.
- Kỹ thuật làm đất và kinh nghiệm.
+ Cày: Người Hmông cày ruộng để cho mặt đất tơi ra sau đó tháo nước
vào ruộng để trở thành bùn nhão. Yêu cầu kĩ thuật khi cày: cày lật đất, đạt độ
sâu thích hợp (8- 10cm), cày đều tay không để lại nhiều sống đất, rãnh cày
tương đối bằng. Người Hmông hay sử dụng la làm sức kéo. Phương pháp cày
chủ yếu là cày luống, tức là chia ruộng bậc thang của mình thành tửng thửa một.
Mỗi luống được mở ở giữa thửa để lấy chỗ đứng cày. Cày ruộng bậc thang cũng
cày từ trong ra ngoài như ruộng ở dưới xuôi. Người ta cày rất kĩ, có thể đến 3
hoặc 4 lần.
+ Bừa: Sau khi cày đất xong được 2 đến 3 ngày và khi ruộng đã có nước
ngâm người Hmông bắt đầu bừa. Bừa ruộng để làm vỡ các hòn đất đã cày, làm
cho đất nhuyễn với nước để tạo thành bùn nhão làm cho gốc rạ, xác cỏ chìm cho

ngấu, mặt ruộng được san phẳng.
Kĩ thuật bừa: không được ấn răng bừa quá sâu hoặc quá nông. Nếu bừa
sau cày thì lần đầu phải bừa theo chiều đã cày. Khi bừa nên đưa đất ra xung
quanh và những hòn đất to được chuyển ra đó cho dễ nát vì ruộng bậc thang cần
nước.
- Gieo mạ và cấy:
+ Gieo mạ: Quá trình gieo mạ gồm các bước sau đây:
- Làm đất mạ: Những chân ruộng được dùng gieo mạ phải có điều kiện tự
nhiên thuận lợi nhất và gần như chuyên dụng. Đất phải được làm kỹ, cày bừa
nhiều lần. Nước đưa vào ruộng thường xấp xỉ so với bề mặt ruộng.
5

×