Tải bản đầy đủ (.pdf) (146 trang)

Bộ tài liệu chuyên đề hội nhập kinh tế quốc tê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 146 trang )













BỘ TÀI LIỆU
CHUYÊN ĐỀ HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ










Hà Nội – 2010













CHUYÊN ĐỀ I+II:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ















PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1. Khái niệm, nội dung, bản chất và các hình thức HNKTQT
a) Khái niệm:
HNKTQT (HNKTQT) là một xu thế vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế
giới trong điều kiện hiện nay, khi toàn cầu hóa, khu vực hóa và quốc tế hóa đang diễn ra

hết sức nhanh chóng dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ
Mặc dù còn có những cách định nghĩa khác nhau, nhưng hiện nay khái niệm tương
đối phổ biến được nhiều người chấp nhận về hội nhập như sau: “Hội nhập kinh tế là sự
gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn
cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những quy
định chung”. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, với sự ra đời của WTO, khái niệm
hội nhập kinh tế ngày nay được định nghĩa một cách rõ ràng hơn, cụ thể hơn: “HNKTQT
là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình kinh tế mở, tham gia vào các định chế
kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện tự do hóa và thuận lợi hóa thương mại và đầu
tư”.
b) Nội dung của HNKTQT
Trong quá trình hội nhập kinh tế, các quốc gia tập trung đàm phán để nhằm giải
quyết 6 nhóm vấn đề cơ bản sau đây:
- Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiện thuế suất bằng 0% đối với hàng
hoá xuất khẩu, nhập khẩu;
- Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ những hàng rào phi quan thuế (NTB) gây cản trở đối
với thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông (NTM)
1
cần được chuẩn mực hoá
theo các qui định chung của WTO hoặc các thông lệ quốc tế và khu vực khác;
- Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hoá việc cung cấp
và kinh doanh các hình thức dịch vụ. Theo phân loại của WTO, hiện nay có 155 phân
ngành thuộc 11 ngành dịch vụ được đưa vào đàm phán, từ dịch vụ tư vấn giáo dục, tin
học cho đến các dịch vụ ngân hàng, tài chính, viễn thông, giao thông vận tải ;
1
Những biện pháp phi thuế phổ thông hiện nay được hiểu là các biện pháp quản lý thương mại
nằm trong khuôn khổ điều tiết của WTO như giấy phép, tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh kiểm
dịch, kiểm tra trước khi xếp hàng xuống tàu, định giá tính thuế hải quan



- Giảm thiểu các hạn chế đối với hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại để tạo
điều kiện đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại;
- Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những qui tắc và luật chơi chung
của quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải
quan, quyền sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh Tại các diễn đàn quốc tế và khu vực
hiện nay, việc điều chỉnh và hài hoà các thủ tục hành chính liên quan đến giao dịch
thương mại được gọi là hoạt động thuận lợi hoá thương mại;
- Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhằm nâng cao
năng lực của các nước trong quá trình hội nhập.
Như vậy có thể thấy, vấn đề HNKTQT trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn
thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan
2
mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh
vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục tiêu mở cửa thị trường cho
hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương
mại.
c) Bản chất của HNKTQT
Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá là sản phẩm của quá trình cạnh tranh giành giật
thị trường gay gắt giữa các nước và các thực thể kinh tế quốc tế. Các tổ chức kinh tế khu
vực và quốc tế cũng như các thoả thuận thương mại song phương và khu vực ra đời là để
giải quyết vấn đề thị trường, với mục tiêu để thị trường khu vực và toàn cầu hoạt động có
trật tự và quy củ hơn, giảm thiểu những hành động làm “bóp méo” thương mại. Các tổ
chức và định chế kinh tế thương mại này đưa ra các chương trình hợp tác và hoạt động
riêng của mình, nhưng về cơ bản đều tuân theo những quy định, luật chơi và nguyên tắc
chung của WTO. Hội nhập kinh tế là việc tham gia vào các tổ chức các định chế này. Do
đó, bản chất của HNKTQT là việc giải quyết vấn đề thị trường.
Trong tiến trình toàn cầu hoá và HNKTQT này nay, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự
phát triển, tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế
chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Đây thực chất

là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh để phân chia thị trường. Nhưng thực ra, tham gia
tiến trình này, các quốc gia và vùng lãnh thổ cùng nhau thực hiện chính sách kinh tế mở
của WTO. Nói cách khác, đối với các quốc gia, HNKTQT thực chất là sự chuyển đổi cơ
2
Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) là tiền thân của WTO trong suốt trong
48 năm hoạt động, qua nhiều vòng đàm phán chỉ tập trung vào đàm phán giảm thuế.


cấu kinh tế phù hợp với tình hình quốc tế đang thay đổi. Sự chuyển đổi hay đổi mới này
là tự nguyện, nó xuất phát từ nhu cầu nội tại của mỗi nền kinh tế.
HNKTQT là việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, là xu thế không thể đảo
ngược. Tuy nhiên, HNKTQT không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện để tăng
trưởng kinh tế ổn định và bền vững nhằm gia tăng chất lượng cuộc sống cho nhân dân.
Nói cụ thể hơn, HNKTQT là sự đan xen, gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền
kinh tế quốc gia và nền kinh tế thế giới. Nó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh rất
phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, vì
một trật tự công bằng, chống lại sự áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế và các công
ty xuyên quốc gia;
HNKTQT là quá trình xóa bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại và
đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hóa kinh tế.
HNKTQT một mặt tạo điều kiện thuận lợi mới cho các doanh nghiệp trong sản xuất
kinh doanh, mặt khác buộc các doanh nghiệp phải có những đổi mới để nâng cao sức
cạnh tranh trên thương trường.
HNKTQT tạo thuận lợi cho công cuộc cải cách ở các quốc gia nhưng đồng thời
cũng là yêu cầu sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh
tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô.
HNKTQT chính là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của
từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao và hiện
đại của lực lượng sản xuất
HNKTQT chính là sự khơi thông các dòng chảy nguồn lực trong và ngoài nước, tạo

điều kiện mở rộng thị trường, chuyên giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý.
d) Các hình thức HNKTQT chủ yếu trên thế giới:
Hiện nay, các nền kinh tế trên thế giới đã và đang tham gia vào tiến trình
HNKTQT dưới các hình thức phổ biến sau:
(i) Tham gia Tổ chức thương mại thế giới (WTO):
Đây là tổ chức kinh tế thương mại lớn nhất thế giới. WTO hiện có 151 thành viên
và khoảng 30 nước đang tiến hành đàm phán gia nhập. WTO định ra luật lệ chung cho
thương mại quốc tế. Các thành viên WTO có nghĩa vụ tuân thủ tất cả các qui định của
WTO, trong đó nổi bật là các qui định về không phân biệt đối xử giữa các thành viên;

giảm dần bảo hộ bằng thuế quan; minh bạch hoá chính sách quản lý và chuẩn mực hoá
một số qui tắc ứng xử thương mại như chế độ cấp giấy phép xuất nhập khẩu, qui tắc áp
dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch, chính sách đầu tư, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
(ii) Khu vực thương mại tự do:
Tham gia khu vực thương mại tự do (gọi tắt là FTA- Free Trade Area), những
thành viên tham gia sẽ thực hiện giảm thiểu thuế quan cho nhau. Việc thành lập khu vực
thương mại tự do nhằm thúc đẩy thương mại giữa các nước thành viên. Những hàng rào
phi thuế quan cũng được giảm bớt hoặc loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên, khu vực thương
mại tự do không qui định mức thuế quan chung áp dụng cho những nước ngoài khối, thay
vào đó từng thành viên vẫn có thể duy trì chính sách thuế quan khác nhau đối với các
nước không phải thành viên. Các Khu vực thương mại tự do đã trở thành nhân tố quan
trọng của hệ thống thương mại quốc tế. Cho đến nay, hầu như tất cả các nước trên thế
giới là thành viên, hoặc đang đàm phán tham gia, của ít nhất một thoả thuận thương mại
khu vực và khoảng 50% tổng giao dịch thương mại toàn cầu được tiến hành thông qua
các thoả thuận thương mại khu vực
3
. Các khu vực thương mại tự do mà chúng ta hay
nhắc đến là: Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Khu vực thương mại tự do Bắc
Mỹ (NAFTA), Khu vực thương mại tự do Trung Mỹ, Hiệp hội thương mại tự do Mỹ La
tinh (LAFTA) v.v

(iii) Liên minh thuế quan:
Ngoài việc thực hiện tự do hoá thương mại thông qua cắt giảm thuế quan và các
biện pháp phi thuế quan như ở khu vực thương mại tự do, các thành viên của Liên minh
thuế quan còn cùng nhau xây dựng biểu thuế quan chung áp dụng cho các nước ngoài
liên minh. Ở đây quá trình nhất thể hoá về thuế quan bắt đầu được thực hiện. Khối cộng
đồng chung Châu Âu (EC) trước đây thuộc dạng này.
(iv) Thị trường chung:
Ngoài việc tự do hoá thương mại hàng hoá như ở khu vực thương mại tự do, các
yếu tố khác như vốn, nhân lực, dịch vụ v.v cũng được tự do lưu thông giữa các nước
thành viên trong thị trường chung. Thị trường chung đầu tiên trên thế giới là Thị trường
chung Châu Âu (thành lập từ 01/01/1993). Ngoài ra còn một số thị trường chung khác
như MERCOSUR ở Nam Mỹ, Thị trường chung Châu Phi, Thị trường chung Arập
(v) Liên minh kinh tế:
3
Báo cáo của AFTA-CER FTA Task force CER, 2000.


Cho đến nay, liên minh kinh tế được coi là hình thức cao nhất của hội nhập kinh tế.
Liên minh kinh tế được xây dựng trên cơ sở các nước thành viên thống nhất thực hiện các
chính sách thương mại, tiền tệ, tài chính và một số chính sách kinh tế-xã hội chung giữa
các thành viên với nhau và với các nước ngoài khối. Như vậy ở liên minh kinh tế, ngoài
việc các luồng vốn, hàng hoá, lao động và dịch vụ được tự do lưu thông như ở thị trường
chung, các nước còn tiến tới thống nhất các chính sách quản lý kinh tế xã hội, sử dụng
chung một đồng tiền. Hiện nay liên minh Châu Âu (EU) đang hoạt động theo hướng này.
(vi) Diễn đàn hợp tác kinh tế:
Đây là hình thức mới của HNKTQT ra đời vào cuối những năm 1980 trong bối cảnh
chủ nghĩa khu vực có xu hướng co cụm. Tiêu biểu cho hình thức hội nhập này là Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình dương (APEC) ra đời năm 1989 và Diễn đàn Hợp
tác Á-Âu (ASEM) ra đời năm 1996. Đặc trưng của các Diễn đàn này là tiến trình đối
thoại với những nguyên tắc linh hoạt và tự nguyện để thực hiện tự do hoá và/hoặc thuận

lợi hoá thương mại, đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh hơn tiến trình tự do hoá trên bình diện
toàn cầu.
(vii) Ký kết các hiệp định thương mại và đầu tư song phương:
Đây là hình thức hội nhập rất tích cực, nhiều khi nó đi nhanh hơn, sâu hơn các hình
thức hội nhập khác và còn có tác dụng bổ trợ, thúc đẩy các hình thức hội nhập khác. Các
hiệp định thương mại và đầu tư song phương được ký kết nhằm tăng cường mối quan hệ
hợp kinh tế thương mại giữa hai quốc gia trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Cho đến nay,
Việt Nam đã ký kết 87 Hiệp định thương mại song phương (cả ký mới và ký lại), 48 Hiệp
định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 42 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần. Việt Nam
cũng đã ký hơn 350 Hiệp định hợp tác phát triển với các nhà tài trợ và 37 Hiệp định hợp
tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.
2. Các nguyên tắc cơ bản của HNKTQT:
Các tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế và khu vực nói chung đều hoạt động theo năm
nguyên tắc sau đây:
(1) Nguyên tắc không phân biệt đối xử: nhằm bảo đảm sự đối xử bình đẳng giữa các
nước thành viên với nhau cũng như trong thị trường mỗi nước. Nguyên tắc này được thể
hiện qua hai định chế là: dành cho nhau quy chế Đối xử tối huệ quốc (MFN), tức là tất cả
hàng hoá, dịch vụ và công ty của các nước đối tác đều được hưởng một chính sách
chung bình đẳng và dành cho nhau quy chế đối xử quốc gia (NT) tức là không phân biệt

đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và công ty của nước mình với hàng hoá, dịch vụ, công ty
của nước khác trên thị trường nội địa.
(2) Nguyên tắc tiếp cận thị trường: nhằm tạo ra một môi trường thương mại mà bất
cứ thành viên nào cũng được tiếp cận. Nguyên tắc này được thể hiện trên hai khía cạnh:
- Các nước thành viên mở cửa thị trường cho nhau thông qua việc cắt giảm từng
bước, tiến tới xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan tạo điều kiện cho thương mại
phát triển.
- Các chính sách, luật lệ thương mại phải được công bố công khai, kịp thời, minh
bạch để môi trường thương mại có tính dự đoán cao.
(3) Nguyên tắc cạnh tranh công bằng: yêu cầu các nước chỉ được sử dụng thuế quan

là công cụ duy nhất để bảo hộ thương mại; các biện pháp phi thuế (giấy phép, quota, hạn
chế số lượng nhập khẩu ) đều được coi là "làm méo mó thương mại" và không được
phép sử dụng. Các biểu thuế phải được giảm dần trong quá trình hội nhập tuỳ thuộc thời
gian được thoả thuận của mỗi tổ chức hợp tác kinh tế khu vực, liên khu vực hoặc liên
châu lục.
(4) Nguyên tắc áp dụng các hành động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết: Khi
một ngành sản xuất của một nước thành viên bị hàng nhập khẩu đe doạ thái quá hoặc bị
những biện pháp phân biệt đối xử gây phương hại thì nước đó có quyền khước từ một
nghĩa vụ nào đó hoặc có những hành động khẩn cấp, cần thiết, được các thành viên khác
thừa nhận, để bảo vệ sản xuất và thị trường trong nước.
(5) Nguyên tắc ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển: ưu đãi
này thể hiện ở việc kéo dài thời hạn thực hiện các cam kết so với các nước phát triển và
có thể ở mức độ cam kết thấp hơn, chẳng hạn trong dịch vụ có thể mở cửa ít lĩnh vực
hơn; các nước phát triển phải hạn chế sử dụng những hàng rào cản trở mới đối với hàng
hoá và dịch vụ, đặc biệt là các hàng hoá, dịch vụ có lợi thế hiện đang nhập khẩu từ các
nước đang và kém phát triển.




PHẦN II. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


1. Đường lối, chủ trương HNKTQT của Việt Nam
Toàn cầu hoá, HNKTQT và tự do hoá thương mại đang là xu thế nổi bật của kinh
tế thế giới đương đại. Thế giới đã và đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của cách
mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và sinh học, làm tăng nhanh
lực lượng sản xuất và tạo ra sự thay đổi sâu sắc cơ cấu sản xuất, phân phối, tiêu dùng,
thúc đẩy quá trình quốc tế hoá, xã hội hoá nền kinh tế, cũng như quá trình tham gia của
mỗi quốc gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Việt Nam chúng ta cũng không

nằm ngoài xu thế chung đó. Thực chất, Việt Nam đã HNKTQT từ khá lâu. Trước năm
1945, Việt Nam đã hội nhập khá sâu trong hệ thống kinh tế thuộc địa của Pháp. Thắng lợi
của Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp
ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc. Sau khi giành được chính quyền, Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã quan tâm đến việc xây dựng và phát triển kinh tế. Tư
tưởng mở cửa về kinh tế, hội nhập với kinh tế thế giới đã được thể hiện trong lời kêu gọi
Liên hợp quốc (tháng 12 năm 1946) của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chủ Tịch đã nêu rõ
chính sách đối ngoại của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trong đó có những điểm mà
trong bối cảnh hiện nay ta vẫn thấy rất đúng và thích hợp:
“Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
• Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ
thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
• Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc
buôn bán và quá cảnh quốc tế.
• Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh
đạo của Liên hợp quốc…”
4

Tuy nhiên, HNKTQT chỉ thực sự trở thành đường lối, chủ trương kể từ khi Đảng
và Nhà nước ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Để thực hiện tiến trình đổi mới và
đứng trước những đòi hỏi cấp bách của tình hình quốc tế và kinh tế trong nước, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII đã xác định "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại”,
với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”, đánh dấu bước khởi đầu tiến trình hội nhập
trong giai đoạn mới của nước ta. Trên cơ sở đường lối đó và sau khi phe xã hội chủ nghĩa tan
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2000, trang 470


rã, chúng ta đã kiên trì phấn đấu đẩy lùi chính sách bao vây cô lập nước ta, mở rộng quan hệ

kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều loại đối tác, dưới nhiều hình thức,
trên nhiều lĩnh vực (trao đổi hàng hoá, đầu tư sản xuất, mở rộng quan hệ tài chính - tín dụng,
hợp tác khoa học kỹ thuật). Sự hợp tác này được thực hiện theo cơ chế mới: cơ chế thị
trường. Nghị quyết Trung ương 3 (ngày 29/6/1992) về chính sách đối ngoại và kinh tế
đối ngoại nêu rõ chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó nhấn
mạnh “cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế, mở rộng
hợp tác với các tổ chức khu vực trước hết là ở Châu Á Thái Bình Dương”.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định xây dựng một nền kinh tế mới hội nhập
với khu vực và thế giới hướng mạnh về xuất khẩu đồng thời đại hội cũng nêu rõ nhiệm
vụ “Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng
cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa VIII
(29/12/1997) đã nêu nguyên tắc hội nhập quốc tế của ta là “trên cơ sở phát huy nội lực,
thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài”, “tích cực và
chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”. Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp
tục khẳng định chủ trương “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài và chủ động HNKTQT để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Chủ trương
đường lối về HNKTQT một lần nữa được nhấn mạnh tại Đại hội Đảng lần thứ X: “Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực HNKTQT, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam
là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến
trình hợp tác quốc tế và khu vực”
Với quyết tâm đẩy nhanh tiến trình HNKTQT, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết
07/NQ-TW ngày 27/11/2001 về HNKTQT và Chương trình hành động của Chính phủ
triển khai Nghị quyết. "Nghị quyết này có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta; liên quan tới tất cả các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế; là định hướng cho quá trình HNKTQT của nước ta trong thời kỳ
mới".
5
Nghị quyết đã chỉ rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo của quá trình hội nhập và đề ra 9

nhiệm vụ liên quan toàn diện tới: công tác tư tưởng, tuyên truyền, xây dựng chiến lược
tổng thể với lộ trình cụ thể, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo lập đồng bộ cơ chế quản lý
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân
5
Trích Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về HNKTQT. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.



lực, kết hợp hoạt động chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, gắn chủ trương hội nhập
với nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phòng, tích cực đàm phán gia nhập WTO và kiện
toàn tổ chức.
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007 (tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X) về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh
và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết này đã nêu rõ các cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam, đề ra quan điểm chỉ đạo và 10 chủ trương, chính sách lớn.
Để triển khai Nghị quyết này, ngày 27/2/2007 Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
16/2007/NQ-CP Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007 về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát
triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới.
Chương trình hành động này xác định nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước ở
Trung ương và địa phương, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua
thách thức, đưa nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh và bền vững.
II. Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã tham gia và bắt nhịp
rất nhanh vào tiến trình HNKTQT. Trước đòi hỏi thực tiễn về việc phải có một cơ quan
giúp Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ điều phối chung công tác HNKTQT, Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg, ngày 10/2/1998 thành lập Uỷ ban Quốc gia
về hợp tác kinh tế quốc tế nhằm thống nhất sự chỉ đạo của Chính phủ đối với các bộ,

ngành và địa phương về công tác HNKTQT. Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ ra
Quyết định số 118/1998/QĐ-TTg ngày 08/7/1998, Quyết định 119/1998/QĐ-TTg ngày
09/7/1998 và Quyết định 116/1998/QĐ-TTg ngày 08/7/1998 quy định chức năng nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của Uỷ ban, Văn phòng Uỷ ban và Đoàn đàm phán Chính phủ
về kinh tế thương mại quốc tế.
Trên cơ sở các quyết định này, Uỷ ban được thành lập do một Phó Thủ tướng
Chính phủ làm Chủ tịch Uỷ ban, Bộ trưởng Bộ Thương mại là Phó Chủ tịch và 13 thành
viên là lãnh đạo của 13 Bộ, ngành. Bộ máy giúp việc của Uỷ ban là Văn phòng Uỷ ban
đặt tại Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) và Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh
tế thương mại quốc tế. Về cơ chế, Quyết định số 31/1998/QĐ-TTg đã nêu rõ Uỷ ban có
nhiệm vụ và quyền hạn:

+ Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và điều phối hoạt động của các Bộ, ngành và
địa phương trong việc Việt Nam tham gia các hoạt động kinh tế, thương mại trong
ASEAN, ASEM, đàm phán gia nhập và hoạt động trong WTO, APEC…
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định các chủ trương và phương án
đàm phán chung…
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành thực hiện việc điều chỉnh. bổ
sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về kinh tế, thương mại…
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra các Bộ, ngành, các địa phương và
đơn vị triển khai thực hiện các cam kết và nghĩa vụ, cũng như bảo hộ các quyền và lợi ích
của Việt Nam trong các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu vực.
+ Kịp thời báo cáo với Thủ tướng Chính phủ quá trình đàm phán và việc chỉ đạo
các Bộ, ngành trong quá trình tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế và khu
vực.
Với chức năng, nhiệm vụ và cơ chế nêu trên, có thể nói trong thời kỳ này Uỷ ban
hoạt động rất tốt: đánh giá chung về kết quả những công việc mà Uỷ ban đã làm được
trong thời kỳ này, Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về
HNKTQT đã ghi nhận: “…Chính phủ đã thành lập Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế
Quốc tế và Uỷ ban đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ mở rộng

quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế”
6
.
Mặc dù hoạt động tương đối có hiệu quả như đánh giá của Bộ Chính trị, tuy nhiên
sau gần 4 năm hoạt động, khi đất nước chúng ta bước vào giai đoạn HNKTQT sâu rộng
hơn, đặc biệt là tiến trình đàm phán WTO đã bước vào giai đoạn căng thẳng nhất, để đáp
ứng yêu cầu triển khai công tác hợp tác kinh tế quốc tế và thúc đẩy tiến trình đàm phán
gia nhập WTO, Bộ Chính trị thấy cần phải kiện toàn lại bộ máy điều phối công tác
HNKTQT. Tại Nghị quyết 07/NQ-TW về HNKTQT, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh nhiệm
vụ thứ 9 về “Kiện toàn Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế đủ năng lực và thẩm
quyền giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, chỉ đạo các hoạt động về HNKTQT: Uỷ ban
gồm hai bộ phận: một bộ phận chuyên trách, một bộ phận kiêm nhiệm bao gồm đại diện
có thẩm quyền của các bộ, ban, ngành hữu quan”
7
. Để triển khai nhiệm vụ này, Thủ
6
Trích Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về HNKTQT, Phần thứ
nhất, trang 8, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
7
Trích Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về HNKTQT. Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia.


tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 06/6/2002 về việc kiện toàn
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế và Quyết định số 30/2003/QĐ-TTg ngày 21
tháng 2 năm 2003 về Quy chế làm việc của Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế thương
mại quốc tế; Chủ tịch Uỷ ban ban hành Quyết định số 20/QĐ-UBQG ngày 19/2/2003 về
Quy chế làm việc của Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế.
Trên cơ sở các quyết định này, Uỷ ban được kiện toàn vẫn do một Phó Thủ tướng
Chính phủ làm Chủ tịch Uỷ ban, Bộ trưởng Bộ Thương mại là Phó Chủ tịch và có điểm

khác là số lượng thành viên Uỷ ban đã tăng từ 13 lên 19 thành viên là lãnh đạo của 19
Bộ, ngành.
Sau khi gia nhập WTO, trước yêu cầu và nhiệm vụ của việc phải giúp Thủ tướng
Chính phủ phối hợp, chỉ đạo các Bộ, ngành trong việc triển khai cam kết gia nhập WTO
và các cam kết HNKTQT khác và tiếp tục triển khai công tác đàm phán sau khi gia nhập
WTO, đàm phán FTA…. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
174/2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007 về việc kiện toàn Uỷ ban; Quyết định 182/2007/QĐ-
TTg ngày 26 tháng 11 năm 2007 về việc kiện toàn Đoàn đàm phán Chính phủ và Quyết
định số 1454/QĐ-TTg ngày 08/10/2008 về việc ban hành Quy chế làm việc của Uỷ ban.
Trên cơ sở đó, Uỷ ban đã được kiện toàn lại lần thứ hai.
Theo Quyết định số 174/2007/QĐ-TTg ngày 19/11/2007, hiện Uỷ ban có các
nhiệm vụ chính sau:
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ phối hợp, chỉ đạo các Bộ, ngành trong việc xây dựng
phương án đàm phán kinh tế và môi trường quốc tế trong khuôn khổ WTO,
ASEAN, ASEM, APEC…
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, phối hợp các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trong các hoạt động hội nhập kinh tế với các nước, các
vùng lãnh thổ, các tổ chức đa phương.
+ Nghiên cứu, đề xuất các chính sách về HNKTQT để báo cáo Thủ tướng Chính
phủ.
+ Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện cam kết và
nghĩa vụ của Việt Nam trong các tổ chức thương mại đa phương
8
.
8
Vậy thì cam kết và nghĩa vụ song phương, trong các FTA và thoả thuận hội nhập khu vực khác
giao cho ai?


+ Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác vận động, đàm phán về việc công

nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường
9
.
Cơ cấu tổ chức của UBQG hiện nay:
• Chủ tịch UBQG là một Phó Thủ tướng Chính phủ
• Phó Chủ tịch UBQG là Bộ trưởng Bộ Công thương
• Tổng Thư ký UBQG kiêm Trưởng Đoàn Đàm phán Chính phủ về Kinh tế -
Thương mại Quốc tế là một Thứ trưởng Bộ Công thương
• Các Ủy viên là lãnh đạo cấp Thứ trưởng, Phó Chánh Văn phòng hoặc Phó Chủ
nhiệm Văn phòng các Bộ, Ngành
Bộ máy giúp việc của UBQG là Văn phòng UBQG-HTKTQT.
Các Bộ, Ngành thành viên UBQG-HTKTQT gồm:
• Văn phòng Chính phủ
• Bộ Công thương
• Bộ Ngoại giao
• Bộ Kế hoạch và Đầu tư
• Bộ Tài chính
• Bộ Tư pháp
• Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
• Bộ Khoa học và Công nghệ
• Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
• Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
• Văn phòng Trung ương Đảng
• Văn phòng Quốc hội
III. Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế thương mại quốc tế
Theo quyết định số 182/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
26 tháng 11 năm 2007, Đoàn đàm phán Chính phủ về kinh tế - thương mại quốc tế (gọi
tắt là Đoàn đàm phán Chính phủ) là cơ quan giúp Thủ tướng Chính phủ tiến hành đàm
phán quốc tế về kinh tế và thương mại. Đoàn đàm phán Chính phủ là cơ quan phát ngôn
9

Thực chất việc công nhận là nền kinh tế thị trường chỉ là một việc nhỏ trong các công việc
HNKTQT và nó chỉ có tác dụng trong các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp… và cũng chỉ có ý nghĩa
khi được các đối tác chính, quan trọng như Hoa Kỳ, EU công nhận.


chính thức về tình hình thực hiện các cam kết về kinh tế và thương mại quốc tế của Việt
Nam.
Đoàn đàm phán Chính phủ có nhiệm vụ và quyền hạn sau:
1. Bảo vệ và tăng cường lợi ích kinh tế và thương mại quốc tế của Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam trên trường quốc tế.
2. Chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan xây dựng chiến lược và phương
án đàm phán trong khuôn khổ Tổ chức thương mại thế giới (WTO), ASEAN, APEC,
ASEM, các hiệp định, thoả thuận song phương và đa phương liên quan đến mở cửa thị
trường.
3. Đàm phán và vận động các nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường,
theo sự phân công và chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công thương.
4. Xây dựng phương án đàm phán để Bộ trưởng Bộ Công thương trình Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt.
5. Tổ chức, thực hiện các cuộc đàm phán ở các cấp độ, phạm vi khác nhau quy định
tại các khoản 2, 3 Điều 2 của Quyết định này, trên cơ sở phương án đàm phán đã được
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
6. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để tiến hành đàm phán và triển khai kết quả
đàm phán sau khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
7. Lấy ý kiến của các ngành, các doanh nghiệp liên quan đến nội dung đàm phán để
xây dựng phương án đàm phán.
8. Theo dõi, đôn đốc việc thực thi các cam kết về kinh tế và thương mại quốc tế của
Việt Nam; cung cấp thông tin và giải thích cho các Bộ, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp
quan tâm về các cam kết chính thức của Việt Nam.
Thành phần Đoàn đàm phán Chính phủ gồm:
- Trưởng đoàn là Thứ trưởng Bộ Công thương, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm

theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công thương.
- Các Phó Trưởng đoàn là cán bộ cấp Vụ của một số Bộ, cơ quan liên quan trực
tiếp đến một số lĩnh vực, nội dung đàm phán chủ yếu, do Bộ trưởng Bộ Công thương bổ
nhiệm trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng các Bộ có liên quan, Trưởng Đoàn đàm phán
Chính phủ và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý.

- Các thành viên của Đoàn đàm phán Chính phủ là cán bộ cấp Vụ của các Bộ, cơ
quan có liên quan, đại diện cho Bộ, ngành của mình tham gia Đoàn đàm phán Chính phủ,
do các Bộ, cơ quan chủ quản cử và được Bộ trưởng Bộ Công thương chấp thuận
IV. Các Ban HNKTQT của các Bộ, ngành, địa phương.
Theo công văn số 2146/BNV-TCBC của Bộ Nội Vụ ban hành ngày 10 tháng 9
năm 2003, Ban HNKTQT là bộ phận đầu mối phụ trách về HNKTQT tại các Bộ, ngành,
địa phương.
Ban HNKTQT ở các Bộ, ngành có các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau:
- Chỉ đạo và phối hợp hoạt động của bộ, ngành mình trong việc tham gia các hoạt
động kinh tế thương mại quốc tế, xây dựng kế hoạch hành động, chương trình và phương
án đàm phán cho các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế (WTO, ASEAN, APEC…) và
triển khai các nội dung trong Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ thuộc lĩnh vực bộ,
ngành phụ trách.
- Đề xuất với lãnh đạo bộ, ngành chỉ đạo việc điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ
thống chính sách, biện pháp quản lý kinh tế - thương mại của ngành mình, phù hợp với
chủ trương của Chính phủ và các cam kết quốc tế của Việt Nam.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn các chủ trương đường lối của Đảng
và nhà nước, các nội dung và chính sách của Chính phủ về HNKTQT trong phạm vi của
bộ, ngành, các kế hoạch và chương trình thực hiện cam kết HNKTQT của Bộ, ngành cho
các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, cũng như các đối tượng liên quan tới các vấn đề
nói trên trong xã hội.
- Tư vấn, tham mưu và báo cáo cho lãnh đạo các bộ, ngành về tình hình kinh tế
quốc tế và khu vực, những vấn đề nảy sinh và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
việc tham gia HNKTQT của bộ, ngành.

- Theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước trong lĩnh vực HNKTQT và việc thực hiện các cam kết của Việt Nam tại
các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế.
Ban HNKTQT ở các địa phương có các nhiệm vụ và quyền hạn chủ yếu sau:
- Chỉ đạo và phối hợp hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trong việc tham gia các hoạt động HNKTQT.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn các chủ trương đường lối của Đảng
và Nhà nước, các nội dung và chính sách của Chính phủ, các chính sách của UBND tỉnh,
thành phố về thực hiện cam kết HNKTQT trên địa bàn tỉnh, thành phố cho các doanh
nghiệp và các tầng lớp nhân dân trên địa bàn.
- Tư vấn, tham mưu và báo cáo Chủ tịch UBND về tình hình kinh tế quốc tế, khu
vực và của toàn quốc, những vấn đề nảy sinh và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
của việc triển khai nhiệm vụ HNKTQT trên địa bàn của tỉnh, thành phố.
- Theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước trong lĩnh vực HNKTQT và việc thực hiện các kế hoạch triển khai cam kết
HNKTQT trên địa bàn tỉnh, thành phố.
Theo thống kê đến tháng 12 năm 2010, cả nước có 15 Bộ, ngành và 50 tỉnh, thành
phố đã thành lập Ban HNKTQT (HNKTQT). Ban HNKTQT ở Bộ, Ngành do một đồng
chí lãnh đạo Bộ, Ngành là Trưởng ban, còn Ban HNKTQT ở địa phương do một đồng chí
Phó Chủ tịch UBND phụ trách. Bộ phận thường trực là cơ quan giúp việc và trực tiếp
điều hành công việc của Ban HNKTQT được giao cho các đơn vị khác nhau tuỳ theo Bộ,
ngành và Địa phương, cụ thể như sau:
- Đa số các Bộ, ngành giao cho Vụ Hợp tác quốc tế là cơ quan thường trực của Ban
HNKTQT;
- Ở địa phương cơ quan thường trực Ban HNKTQT được giao cho Sở Công Thương
phụ trách. Chỉ có một Địa phương giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư và một Địa phương
thành lập Trung tâm WTO;
- Một số Bộ, ngành và Địa phương tuy không chính thức giao cho đơn vị nào làm
đầu mối chung, nhưng tùy vào nội dung công việc cụ thể giao cho các đơn vị khác nhau

triển khai;
- Đa số Ban HNKTQT đã được kiện toàn và có quy chế hoạt động.











PHẦN III. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Với đường lối chủ trương đúng đắn và bộ máy quản lý Nhà nước về hội nhập kinh
tế quốc tế được thiết lập từ trung ương đến địa phương, công cuộc đổi mới và HNKTQT
của Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Từ
nhu cầu thực tế phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và tổ chức quốc
tế để phá thế bị bao vây, cô lập trong những năm đầu thập kỷ 90, với việc khôi phục quan
hệ bình thường bị gián đoạn từ những năm 1976 với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân
hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu ASEAN (ADB) và từ đó thường xuyên
nhận được sự hỗ trợ về mặt tài chính của các tổ chức này. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực
thương mại tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về
hành động, biến chủ trương đường lối đối ngoại của Đảng ta từ trước đến nay thành hành
động thực tế. Với việc gia nhập ASEAN, Việt Nam đã chấm dứt một thời kỳ dài khu vực
Đông Nam Á bị chia rẽ thành hai nhóm đối lập nhau và đồng thời đã tạo điều kiện để
tham gia và nâng cao hình ảnh của mình trong cộng đồng khu vực, mở rộng quan hệ hợp
tác kinh tế sang các nước này. Tiếp đó, Việt Nam tham gia sáng lập Diễn đàn hợp tác Á -
Âu (ASEM) năm 1996, được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình

Dương (APEC) tháng 11/1998.

Kể từ những bước đi ban đầu đó đến nay, chặng đường đổi mới và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam đã trải qua 25 năm và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
- Về quan hệ song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170
quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu hàng hoá tới trên 230 thị
trường của các nước và vùng lãnh thổ
10
, ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song
phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế
10
Theo các Báo cáo của các Bộ/ngành của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế


hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn hoá song phương với các nước và các tổ chức
quốc tế.
11

- Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực với các tổ
chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ tiền tệ thế giới, Ngân
hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đẩy mạnh và đưa lên
một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký
kết hiệp định hợp tác kinh tế đa phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do
ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng
lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp vào Diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước đi quan
trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới

(WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia nhập Tổ chức này. Với
việc gia nhập WTO, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được khẳng định và nâng
cao, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế nước ta trong quá trình
hội nhập ngày càng sâu và toàn diện hơn với nền kinh tế thế giới. Việc gia nhập WTO
cũng tạo ra những cơ hội lớn để Việt Nam phát triển toàn diện hơn nhưng cũng đặt ra
những thách thức rất gay gắt đòi hỏi sự nỗ lực của đất nước để vượt qua.
Nhận thức và đánh giá rõ về vấn đề này, ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO,
Chính phủ đã ra Nghị quyết 16/2007/NQ-CP ngày 27 tháng 2 năm 2007 (Nghị quyết 16)
ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO. Trong ba
năm qua, chương trình hành động hậu gia nhập WTO đã được triển khai sâu rộng tại các
Bộ, ngành, địa phương trên toàn quốc và đạt được những kết quả cụ thể, đáng ghi nhận.

11
Theo các Báo cáo của các Bộ/ngành của Uỷ ban quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế










CHUYÊN ĐỀ III




BẢN CHẤT, NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT
RA CỦA CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VIỆT NAM ĐANG
THAM GIA VÀ KÝ KẾT











MỤC LỤC

I.
Hội nhập khu vực: Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN) 4

1. Quá trình hình thành và phát triển 4
2. Vị thế của Việt Nam và yêu cầu đặt ra trong tương lai 5
II. Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Thái Bình Dương (APEC) và Hợp tác Á – Âu (ASEM) 6

1. Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC) 6
a. Quá trình hình thành và phát triển 6
b. Mục tiêu và nguyên tắc hoạt động 7
c. Vị thế của Việt Nam và yêu cầu đặt ra 8

2. Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEAM) 9
a. Hoàn cảnh ra đời 9
b. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động 10
c. Vai trò của Việt Nam và yêu cầu đặt ra 10
III. Tham gia các FTA và các kênh hội nhập song phương khác 11
1. Đàm phán và tham gia các FTA 11
a. FTA là gì 12
b. Xu hướng FTA trên thế giới 12
c. Sự tham gia của Việt Nam và yêu cầu đặt ra 13
2. Các kênh song phương khác 15
IV. Hội nhập đa phương: Gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO 15
1. Khái quát về tổ chức thương mại thế giới (WTO) 15
a. Lịch sử hình thành 15
b. Mục tiêu, chức năng và nguyên tắc cơ bản của WTO 16
c. Cơ cấu tổ chức của WTO 18
2. Đàm phán gia nhập WTO , lợi ích và nghĩa vụ: 18
a. Phương thức đàm phán 18
b. Tác động của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam 19
c. Cơ hội và yêu cầu đặt ra với doanh nghiệp 20






CHUYÊN ĐỀ III

BẢN CHẤT, NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU ĐẶT RA
CỦA CÁC HÌNH THỨC HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
VIỆT NAM ĐANG THAM GIA VÀ KÝ KẾT


Đã hơn 20 năm kể từ khi Đảng ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới với dấu
mốc khởi đầu là Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986. Việt Nam từ một quốc gia
với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, khép mình với thế giới, quay lưng với
xu thế kinh tế toàn cầu, đã vươn mình đứng lên một cách mạnh mẽ, với những
bước tiến vững chắc trong quá trình đổi mới nền kinh tế sang cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hội nhập một cách chủ động và sâu
rộng vào nền kinh tế quốc tế, bất chấp tất cả những khó khăn, trở ngại xuất phát cả
từ trong và ngoài nước. Đến nay, Việt Nam chúng ta đã có thể nhìn thấy được giá
trị của 2 từ “đổi mới”, thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của hội nhập kinh tế
quốc tế: Tăng trưởng GDP toàn quốc đã tăng gấp 4 lần (trung bình 7,5%/năm giai
đoạn 1986-2006), đứng thứ hai thế giới về tốc độ tăng trưởng; Giá trị xuất khẩu đã
tăng tới 40 lần (32 tỷ USD năm 2005); Việt Nam từ một quốc gia chỉ giới hạn giao
thương với các nước xã hội chủ nghĩa, đã mở rộng quan hệ kinh tế với 221/255 thị
trường quốc tế; Giá trị kim ngạch thương mại chiếm tới 130% GDP toàn quốc; cơ
cấu xuất khẩu chuyển dịch đáng kể từ sản phẩm thô sang các sản phẩm chế biến…

Nhận thức được sâu sắc vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT), Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
theo tinh thần phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc
lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ mội trường”.
Quán triệt tinh thần đó, Việt Nam đã từng bước sâu rộng hóa tiến trình này, trên
tất cả các kênh hội nhập kinh tế quốc tế. Trên bình diện khu vực, ta đã chủ động
tham gia vào Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1995 và ngày
càng có nhiều đóng góp cho quá trình xây dựng và phát triển của Hiệp hội, đưa
ASEAN trở thành một khu vực kinh tế mạnh, có thể đối trọng với các nền kinh tế
khác của khu vực Châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Ở
phương diện song phương và quốc tế, ta đã ký kết Hiệp định thương mại song
phương Viêt Nam – Hoa Kỳ (BTA) năm 2001, là tiền đề tiến tới việc gia nhập tổ

chức thương mại thế giới WTO năm 2007…Bên cạnh đó, Việt Nam cũng chủ động
tham gia vào các diễn đàn kinh tế quốc tế như APEC, ASEM cùng với việc tham
gia thiết lập các khu vực thương mại tự do (FTA) với 15 nước trong khuôn khổ 6

FTA khu vực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AANZFTA, AIFTA) với những
phạm vi lĩnh vực và mức độ sâu rộng tự do hóa khác nhau. Nhờ đó, vị thế của Việt
Nam không ngừng được củng cố và nâng cao trong bối cảnh kinh tế quốc tế đa
phương và khu vực. Rất nhiều nhà đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đã lựa chọn
Việt Nam như là một trong những môi trường kinh doanh, là điểm đến lý tưởng.
Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam cũng ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và
chất lượng, từng bước vươn ra hội nhập và cạnh tranh trên các thị trường lớn quốc
tế như Hoa Kỳ, EU …
Tuy nhiên, bản chất, nội dung và yêu cầu của từng hình thức hội nhập kinh tế
quốc tế cũng có những sự khác biệt, đòi hỏi các cán bộ quản lý và doanh nghiệp có
những hiểu biết, nhận thức cơ bản, nhằm thích nghi và tận dụng được những lợi
thế, đồng thời có chiến lược thích hợp để ứng phó với những thách thức mà mỗi
quá trình đặt ra.

I. Hội nhập khu vực: Gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN)
1. Quá trình hình thành và phát triển
Đông Nam Á là một khu vực có lịch sử lâu dài và trong quá trình phát triển đã
đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại. Các quốc gia trong
khu vực là những đất nước có sự tương đồng cao trên nhiều lĩnh vực văn hóa – xã
hội cũng như trình độ phát triển kinh tế. Chính vì vậy, nhu cầu hợp tác, liên kết các
quốc gia trong khu vực luôn được đặt ra ở các thời điểm lịch sử, đặc biệt trong bối
cảnh hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa và đa cực hóa thế giới đang diễn ra nhanh
chóng, nhu cầu về sự liên kết giữa các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á càng
trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Ngày 8/8/1967, tại Bankok (Thủ đô Thái Lan), các Bộ trưởng Ngoại giao, đại

diện cho Chính phủ của 5 quốc gia Đông Nam Á là Indonesia, Malaysia,
Philippines, Singapo và Thái Lan đã họp mặt và đi đến ký kết một văn kiện quan
trọng, Tuyên bố Bankok, tạo dựng nền tảng cho sự ra đời của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á. Mục tiêu chung của ASEAN, đã được khẳng định trong Tuyên
bố Bangkok, là hợp tác để phát triển toàn diện trên mọi lĩnh vực có mối quan tâm
và quyền lợi chung của tất cả các nước trong khu vực: “Để thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực
chung trên tinh thần công bằng và phối hợp nhằm tăng cường nền tảng cho một
cộng đồng hòa bình và thịnh vượng của các quóc gia Đông Nam Á”
1
. Trải qua thời
gian, ASEAN đã dần trở thành mái nhà chung của tất cả các nước Đông Nam Á,
với sự gia nhập của Brunei (1984), Việt Nam (1995), Lào và Myanma (1997),
Campuchia (1999). Với một diện tích rộng tới 4.464.456 km
2
và dân số
1
Tuyên bố Bankok, Mục 1, trang 1.


576.557.000 người
2
, ASEAN đã thực sự trở thành một khu vực thị trường rộng
lớn, vị thế của ASEAN ngày càng đóng vai trò quan trọng trên trường quốc tế và
khu vực, trở thành một đối trọng với các quốc gia lớn ở Châu Á như Nhật Bản,
Trung Quốc và Ấn Độ.
Các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN mang tính toàn diện, sâu sắc
trên mọi lĩnh vực chính trị, ngoại giao, an ninh, văn hóa – xã hội, khoa học – kỹ
thuật và phát triển kinh tế của 10 quốc gia thành viên, tạo ra một đặc thù liên kết
khu vực hoàn toàn khác biệt đối với các tổ chức kinh tế thế giới khác mà Việt Nam

tham gia (ASEM, APEC, WTO) cũng như các liên kết quốc tế khác trên thế giới.
Tính đặc thù liên kết khu vực của ASEAN thể hiện ở cơ cấu tổ chức cũng như nội
dung các hoạt động trong khuôn khổ ASEAN.
2. Vị thế của Việt Nam và yêu cầu đặt ra trong tương lai
Trên bình diện hợp tác, chính trị và ngoại giao, Việt Nam là một thực thể quan
trọng, có vai trò ngày càng tăng trong cộng đồng ASEAN. Trong ba trụ cột chính
của Cộng đồng ASEAN, thì ý tưởng thành lập Cộng đồng Văn hóa - Xã hội là sáng
kiến của Việt Nam.
Ngay sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN (năm 1995), ASEAN đã có những
chuyển biến lớn cả về chất và lượng. Việc Việt Nam tham gia tổ chức này đã kéo
theo Lào, Cam-pu-chia và Mi-an-ma, giúp ASEAN trở thành một hiệp hội hùng
mạnh với 10 thành viên. Sự tham gia của Việt Nam cũng làm thay đổi bản chất lẫn
phương hướng phát triển của ASEAN, khiến tổ chức này trở thành một diễn đàn
hữu nghị và hợp tác thực sự. Các nỗ lực của Việt Nam đã góp phần biến ASEAN
thành một nhân tố quan trọng đối với hòa bình, ổn định, hợp tác, và phát triển ở
khu vực và thế giới. Việt Nam cũng đã giúp biến Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác
(TAC) thành một bộ luật hành vi ứng xử, không chỉ phục vụ cho các quan hệ trong
nội bộ ASEAN mà còn với cả các thành viên ngoài hiệp hội này.
Hiến chương ASEAN (có hiệu lực từ ngày 15-12-2008) đã đánh dấu bước chuyển
mình của ASEAN, từ một tổ chức khu vực có mức độ hợp tác lỏng lẻo thành một
tổ chức liên chính phủ, hoạt động dựa trên các quy tắc, nguyên tắc pháp lý và cơ
cấu tổ chức bộ máy chặt chẽ; là cơ sở đóng góp hữu hiệu vào quá trình xây dựng
Cộng đồng của ASEAN, tăng cường đoàn kết, thúc đẩy hợp tác giữa các nước
trong khu vực. Theo Hiến chương ASEAN, mục tiêu ưu tiên trước mắt của Hiệp
hội là xây dựng một Cộng đồng ASEAN đoàn kết, vững chắc, dựa trên các luật lệ
quy tắc chung, làm động lực cho gia tăng liên kết khu vực, nâng cao vai trò của
ASEAN trong các tiến trình khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Trên bình diện kinh tế - thương mại và đầu tư, Việt Nam cũng đang từng bước
tiến tới tự do hóa thương mại khu vực, khi thực hiện các chương trình cắt giảm
thuế trong khuôn khổ CEPT, phối hợp với các nước ASEAN triển khai chương

2
Số liệu thống kê năm 2006 (nguồn: www.aseansec.org)


trình công tác nhằm xác định, phân loại và tiến tới bỏ các hàng rào phi thuế quan.
Công việc này được Việt Nam thực hiện tương đối nhanh, trước năm 2000, ta áp
dụng khá nhiều biện pháp phi thuế để quản lý xuất nhập khẩu nông sản như: đầu
mối và hạn ngạch xuất khẩu đối với gạo; Giấy phếp nhập khẩu đối với gạo, cà
phê Đến năm 2006, về cơ bản Việt Nam đã hoàn thành việc xóa bỏ các hạn chế
định lượng đối với hàng hóa trao đổi trong khuôn khổ Hiệp định CEPT và tiến tới
xóa bỏ các hàng rào phi thuế khác. Việt Nam cũng rất tích cực đẩy mạnh hợp tác
với các nước thành viên trong các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ, hải quan cũng như các
lĩnh vực hợp tác khác. Với việc thống nhất thành lập cộng đồng kinh tế chung
(AEC), Việt Nam và các đối tác trong khu vực đang bước tắt từ hình thành liên
minh thuế quan sang thành lập thị trường chung. Cộng đồng Kinh tế ASEAN nhằm
hướng tới xây dựng thị trường duy nhất, cơ sở sản xuất thống nhất của ASEAN,
trong đó hàng hóa, dịch vụ, nhân lực và vốn lưu thông tự do. ASEAN đã đưa ra
một kế hoạch tổng thể bao gồm nhiều biện pháp hợp tác để xây dựng AEC, trong
đó có hướng tới xây dựng thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung; tạo dựng
khu vực kinh tế cạnh tranh; bảo đảm phát triển kinh tế cân đối và hội nhập thành
công với kinh tế toàn cầu.
Trên bình diện văn hóa, Việt Nam và các đối tác đã thống nhất thành lập Cộng
đồng Văn hóa - Xã hội (ASCC), chiếm một vị trí đặc biệt trong tiến trình xây dựng
cộng đồng của ASEAN. Kế hoạch Tổng thể về lĩnh vực này hướng tới xây dựng
một cộng đồng ASEAN lấy nhân dân làm trung tâm, xây dựng một ASEAN đùm
bọc, tương thân tương ái, vượt qua những khó khăn và thách thức của quá trình
toàn cầu hóa. Mục tiêu quan trọng nhất của ASCC là thúc đẩy tiến bộ xã hội và xây
dựng bản sắc chung ASEAN. Tuy nhiên, kế hoạch tổng thể ASCC chủ yếu tập
trung vào các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức và hiểu biết về sự đa dạng
về văn hóa, lịch sử, thể chế của các quốc gia ASEAN. Trong khi đó, bản sắc

chung ASEAN vẫn chưa được xây dựng thành khái niệm rõ ràng. Vì vậy, mục tiêu
"hòa nhập trong đa dạng" của ASCC thì mặt "đa dạng" vẫn rõ nét hơn mặt "hòa
nhập".
Để Cộng đồng ASEAN hoàn thành mục tiêu đề ra đòi hỏi sự chung tay đóng góp
sức của cả Hiệp hội trong một quá trình dài lâu. Việt Nam chúng ta trong tương lai
cần tiếp tục giữ vững sự chủ động trong hợp tác và hội nhập, nhằm phát huy tiềm
lực sẵn có trong khu vực, làm tiền đề tạo thế và lực vững chắc cho Việt Nam trên
con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
II. Tham gia các diễn đàn hợp tác kinh tế quốc tế: Diễn đàn Hợp tác kinh tế
Thái Bình Dương (APEC) và Hợp tác Á – Âu (ASEM)
1. Diễn đàn hợp tác kinh tế Thái Bình Dương (APEC)
a. Quá trình hình thành và phát triển

×