Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO SCAMPER TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ ĐIỀU HÀNH WINDOWS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.26 KB, 27 trang )

Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
LỜI NÓI ĐẦU
Chắc chúng ta đều nhớ câu nói nổi tiếng trong vở kịch Hamlet của Shakespeare
"To be or not to be, that's a question'' - Tồn tại hay không tồn tại? - Tôi tư duy
nghĩa là tôi tồn tại.
Trong cuộc sống, tư duy sẽ giúp chúng ta có thể làm được tất cả. Bạn có bao
giờ tin rằng, chúng ta có thể "nghĩ" ra sự giàu có hay không? Bạn sẽ có những
phát kiến đột phá cho khoa học ? Nghe có vẻ hoang đường nhưng đó là một
thực tế không thể chối cãi. Nếu không có sự suy nghĩ, tư duy của con người thì
đã không thể có một xã hội như hôm nay. Cuộc sống mỗi ngày đều có thể có
thêm sự mới lạ đó là nhờ vào sức sáng tạo trong tư duy của mỗi con người.
Thành công của người này hôm nay, đến người khác họ lại phải suy nghĩ để tìm
ra thành công khác. Dù là trong một công việc cũng không thể cứ lặp đi lặp lại,
không thể bắt chước người này, người khác mà có được thành công. Chúng ta
chỉ có thể học tập họ để mà vươn lên hơn thế. Nếu người khác thất bại, bạn có
thể tìm ra một hướng suy nghĩ khác để sau đó hành động để đạt đến thành công.
Nhưng nếu bạn thất bại, bạn cũng có thể làm như vậy để vượt qua nó. Hãy luôn
suy nghĩ, luôn động não thì sẽ luôn có cái mới để làm, để đi tới thành công.
Phương pháp SCAMPER là một trong những kỹ thuật để giúp chúng ta tư duy
sáng tạo hiệu quả nhất, hãng Microsoft cũng đã vận dụng phương pháp này để
phát triển sản phẩm HĐH Windows nói riêng và các sản phẩm nói chung của
mình.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
1
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
I. Giới thiệu chung về phương pháp SCAMPER
Sáng tạo là một điều gì đó mới mẻ táo bạo và khác thường. Sáng tạo là một
phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, không phải chỉ có những
người làm nghệ thuật mới phải thường xuyên sáng tạo mà những người ở
những ngành nghề khác nhau cũng va chạm với nó trong cuộc sống hàng ngày.
Nghĩ sáng tạo là nhìn một vấn đề, một câu hỏi…theo những cách khác với


thông thường. Tức là nhìn mọi thứ từ các góc độ, tầm nhìn khác nhau, “ nhìn”
theo những cách khác không bị hạn chế bởi thói quen, bởi phong tục, bởi tiêu
chuẩn. Sáng tạo đến từ đổi mới hàng ngày từ những nhu cầu cuộc sống của con
người ngày càng tốt hơn và cao hơn.
Một câu hỏi được đặt ra là liệu sự sáng tạo có một khuôn mẫu hay không? Câu
trả lời là có, có những nguyên tắc và quy luật cho sáng tạo. Để sử dụng và duy
trì khả năng nhận thức rõ sự vật này của trí não, bạn nên hiểu một vài nguyên
tắc suy nghĩ sáng tạo cơ bản. Những nguyên tắc này tạo nên một nền tảng về
thái độ hoặc tâm lý của tất cả các phương pháp khái quát lên được những ý
tưởng có tính sáng tạo cao hơn khi bạn áp dụng những nguyên tắc về cách suy
nghĩ sáng tạo này. Tuy nhiên, để có thể nghĩ ra một ý tưởng được coi là thực sự
sáng tạo là một điều không đơn giản và cũng không dễ dàng. Do đó, bạn càng
hiểu biết về cách thức tư duy sáng tạo bao nhiêu thì bạn sẽ suy nghĩ sáng tạo
hơn bấy nhiêu.
Não của chúng ta là một kho chứa những ý tưởng. Những gì ta biết chính là
những gì ta đã được học và đã trải nghiệm. Ý tưởng đều nằm trong đó cả. Tất
cả những gì ta phải làm chỉ là lấy chúng ta ra mà thôi. Tuy nhiên, chúng ta sẽ
không thể bàn đến tất cả những ý tưởng trong đầu ta mà không đề cập đến
những quan điểm và phương pháp trí tuệ thích hợp. Không có cách nào giúp ta
có thể gợi nhớ được mọi thứ. Hơn nữa, chúng ta sẽ không bao giờ nghĩ về một
ý tưởng nhất định nếu ta không phụ thuộc vào những nguồn kích thích sự sáng
tạo khác nhau. Bộ óc của chúng ta là những công cụ liên kết không giới hạn,
chúng có thể chứa được rất nhiều ý tưởng giống như chúng ta là những cơ sở
dữ liệu chứa những ý tưởng.
Ai trong chúng ta cũng có sự sáng tạo. Công việc càng khó thì não bạn hoạt
động càng tích cực tuy nhiên trước một vấn đề khó nếu bạn không tỉnh táo thì
bạn dễ dàng đi lạc đường. Theo nghiên cứu thì đến thiên tài cũng mới sử dụng
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
2
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm

có 15% hiệu suất não của mình. Cho nên, học nghĩ sáng tạo để não bạn đi xa
hơn là hoàn toàn có thể. Thật là may mắn vì chúng ta không phải gợi nhớ mọi
thứ trong đầu để có thể tư duy một cách sáng tạo. Tất cả những gì chúng ta phải
làm là kết hợp khả năng sáng tạo bẩm sinh trong chúng ta với những nguồn
kích thích sáng tạo và những nguyên tắc suy nghĩ sáng tạo. Kiến thức và những
kinh nghiệm của chúng ta sẽ giúp khái quát lên những nguồn kết hợp mà từ đó
sẽ tạo ra ý tưởng.
Hiện nay, có khá nhiều phương pháp sáng tạo khác nhau nhưng không có
phương pháp nào vượt trội trong mọi tình huống, trong mọi lĩnh vực. Tuy
nhiên, phương pháp sáng tạo SCAMPER tỏ ra có nhiều ưu điểm trong việc phát
triển hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hai trọng tâm sáng tạo trong
doanh nghiệp là sáng tạo trong phát triển đổi mới sản phẩm và sáng tạo trong
tiếp thị kinh doanh sản phẩm.
Phương pháp sáng tạo SCAMPER được giáo sư Michael
Mikalko phát triển, SCAMPER là ghép các chữ cái đầu của
nhóm từ sau: Substitute ( thay thế), Combine (kết hợp),
Adapt (thích nghi), Modify (hiệu chỉnh), Put (thêm vào),
Eliminate (loại bỏ) và Reverse (đảo ngược). Phương pháp
sáng tạo SCAMPER dễ lĩnh hội, dễ vận dụng nhưng khá
hữu hiệu nên ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rãi,
nhất là trong các doanh nghiệp.
II. Phân tích SCAMPER
1. Phép thay thế - Substitute
Nội dung: Thay thế thành tố hiện có của hệ thống bằng thành tố khác. Với một
sản phẩm, bạn hãy quan sát thành phần tạo nên chúng và thử suy nghĩ xem liệu
các thành phẩm này có thể được thay thế bằng nguyên vật liệu nào khác? Trong
một quá trình làm việc, liệu vấn đề nhân lực thay thế sẽ là ai? Có nên thay địa
điểm? Đối tượng?
Các câu hỏi có thể đặt ra: Thay đổi cái gì để nâng cao chất lượng? Chuyện gì
xảy ra nếu tôi thay cái này bằng cái khác? Làm cách nào để đổi địa điểm, thời

gian, nguyên vật liệu, vấn đề nhân lực ?
 Ví dụ:
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
3
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
 Chuột bi của máy tính được thay thế bằng chuột quang.
2. Phép kết hợp – Combine
Nội dung: Kết hợp thành tố của các hệ thống khác nhau để tạo ra hệ thống mới.
Bạn hãy quan sát xem có thể biến tấu thêm gì, kết hợp thêm được gì để tạo ra 1
sản phẩm mới, đề cao khả năng hợp lực của từng tính năng.
- Các câu hỏi có thể đặt ra: Nguyên vật liệu cần là gì? Các tính năng? Quy
trình? Nhân lực? Cái gì có thể kết hợp lại? Sẽ kết hợp khâu nào? Ở đâu?
 Ví dụ:
 Điện thoại có thể kết hợp máy nghe nhạc, đồng hồ báo thức.
3. Phép thích ứng – Adapt
Nội dung: Thích ứng hệ thống trong một bối cảnh khác. Nghĩ xem khi thay đổi,
các tính năng này có phù hợp không?
Các câu hỏi có thể đặt ra: chúng ta có thể bắt chước cái gì? Mô phỏng cái gì?
 Ví dụ:
 Điện thoại chống thấm hoạt động trong môi trường nước.
4. Phép điều chỉnh – Modify
Nội dung: Điều chỉnh qui mô thành tố của hệ thống. Tăng và giảm kích cỡ, thay
đổi hình dáng, thuộc tính,
 Ví dụ:
 Xe đạp đôi.
5. Phép thêm vào – Put
Nội dung: Thêm thành tố mới vào hệ thống. Có thể áp dụng cho cách dùng
khác? Mục đích khác? Lĩnh vực khác?
Các câu hỏi đặt ra: Tôi có thể lấn sân sang thị trường nào? Thị trường nào có
thể tiêu thụ hàng của tôi?

Đỗ Nhất Linh - CH1201040
4
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
 Ví dụ:
 Tivi, máy quạt được tích hợp bộ xử lý điều khiển tín hiệu từ xa
( Remote).
6. Phép loại bỏ - Eliminate
Nội dung: Loại bỏ thành tố khỏi hệ thống. Loại bỏ và đơn giản hoá các thành
phần, nghĩ xem chuyện gì xảy ra nếu bạn loại đi hàng loạt các quy trình, sản
phẩm, vấn đề và cơ hội(probortunity ), nghĩ xem bạn sẽ làm gì với tình huống
này?
Câu hỏi có thể đặt ra: chuyện gì xảy ra nếu tôi loại bỏ 1 số thành phần của sản
phẩm? Hướng giải quyết không theo cách thông thường?
 Ví dụ:
 Internet Cáp  loại bỏ dây : internet 3G, Wifi.
7. Phép đảo ngược – Reverse
Nội dung: Đảo ngược trật tự các thành tố của hệ thống. Bạn có thể lật ngựợc
vấn đề? Cách suy nghĩ này sẽ giúp bạn nhìn rõ mọi góc cạnh của vấn đề cũng
như như cơ hội thấy điểm mới cho vấn đề.
Câu hỏi có thể đặt ra: Chuyện gì xảy ra nếu tôi làm theo theo hướng khác? Nếu
tôi lật ngược trât tự cách làm cũng như cách sử dụng?
 Ví dụ:
 Áo không phân biệt phải và trái.
III. Cách vận dụng phương pháp SCAMPER để giải quyết vấn đề
SCAMPER là một trong các phương pháp sáng tạo dùng để tạo ra ý tưởng, tại
bất kỳ tình huống tư duy sáng tạo, một mình hoặc trong một nhóm, các giải
pháp mới được đề xướng khi suy nghĩ về vấn đề với nhiều khía cạnh khác
nhau. Vì vậy, bằng cách sử dụng một phần hay tất cả các suy nghĩ theo cách
trình bày dưới đây sẽ đem lại kết quả đáng ngạc nhiên và đôi khi rất hữu ích.
- Substitute: thành phần nào của chủ thể có thể được thay thế?

Đỗ Nhất Linh - CH1201040
5
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
- Combine: những thành phần nào trong chủ thể được kết hợp để tạo ra thành
phần mới?
- Adapt: thành phần nào có thể thích ứng được?
- Modify of magnify: thành phần nào cần được điều chỉnh lại cho phù hợp?
- Put to other uses: thành phần nào cần phải thêm vào?
- Eliminate or reduce: thành phần nào cần phải được loại bỏ?
- Reverse or rearrange: đảo ngược các thành phần để tạo ra chủ thể mới.
 Ví dụ: Bạn làm việc cho một công ty sản xuất ô tô ở phân khúc cá nhân.
Hãy thử tưởng tượng về một chiếc xe ô tô cho chính bản thân mình. Bạn
mong muốn chiếc ô tô ấy sẽ như thế nào? Hãy nghĩ về nó.
Các câu hỏi cần được đặt ra:
- Điều gì cần được thay thế trong bản thiết kế?
- Điều gì có thể được kết hợp trong bản thiết kế?
- Điều gì có thể thích ứng với ý tưởng bản thiết kế?
- Điều gì có thể sửa đổi lại để phù hợp với bản thiết kế hiện tại hoặc với đối thủ
cạnh tranh?
- Điều gì có thể thêm vào để phù hợp với bản thiết kế?
- Điều gì có thể loại bỏ từ bản thiết kế cơ sở?
- Áp dụng ngược lại so với bản thiết kế cơ sở?
IV. Quá trình phát triển của hệ điều hành Windows
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
6
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Quả thực mà nói, hệ điều hành Windows đã có một lịch sử phát triển khá dài,
phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này đã được phát hành cách đây khoảng 25
năm và quãng thời gian mà Windows chiếm được ưu thế đối với các máy tính
cá nhân cũng vào khoảng trên 15 năm. Rõ ràng, qua rất nhiều thay đổi về kỹ

thuật trong 25 năm qua, phiên bản ngày nay của Windows đã được phát triển
hơn rất nhiều so với phiên bản Windows 1.0.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá sơ đẳng. Sơ đẳng hơn
cả hệ điều hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm phát sinh là ở chỗ rất khó
sử dụng. Vì thực tế khi đó nếu bạn không có chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn
hơn rất nhiều so với giao diện dòng lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn và cũng được phổ biến
rộng rãi hơn. Microsoft đã nâng cấp Windows trên một cơ sở nhất quán qua hai
thập kỷ qua. Phát hành một phiên bản Windows mới sau một vài năm; đôi khi
phiên bản mới chỉ là một nâng cấp nhỏ nhưng đôi khi lại là quá trình đại tu toàn
bộ.
Cho ví dụ, Windows 95 (phát hành năm 1995), phiên bản được viết lại toàn bộ
từ Windows 3.X trước đó nhưng trong khi đó phiên bản kế tiếp, Windows 98,
lại là một nâng cấp và phiên bản Windows 98 thứ hai (năm 1999) thực sự
không khác gì một bản vá lỗi nhỏ. Windows Vista, phiên bản trước đó, là một
sự đại tu triệt để đối với hệ điều hành này thì Win7 cũng có vẻ giống như
Windows 98 – một nâng cấp bổ sung thứ thiệt.
Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy xem xét chi tiết hơn về mỗi
một phiên bản liên tiếp của Windows – bắt đầu với hình thức sơ khai nhất của
nó, hệ điều hành được biết đến với tên DOS.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
7
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
1. DOS
Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu của Microsoft, đây là
hệ điều hành được phát hành năm 1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill
Gates và Paul Allen phát triển để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với giao
diện hoàn toàn bằng văn bản và các lệnh người dùng giản đơn.
Hệ điều hành đầu tiên của Microsoft - PC-DOS 1.0
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên hệ với công ty Microsoft

để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM vào thời điểm ban đầu này.
Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ
Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy
tính mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating system.
DOS là một tên chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói với
các máy tính cá nhân IBM, DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán dưới
dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS được gọi là MS-DOS. Tuy nhiên cả hai
phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính của
họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này không thân thiện một chút nào; nó yêu
cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
8
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
hầu hết các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư
mục,… Ưu điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn
đề quan trọng khi hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
2. Windows 1.0
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng
phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện
đồ họa người dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan
điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows
vào năm 1983, và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường vào tháng
11 năm 1985.
Hình 2: Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager, và không có gì ngoài một lớp
vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ
điều hành sử dụng các lệnh bằng văn bản và gắn chặt với bàn phím thì
Windows 1.0 đã hỗ trợ hoạt động kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ

trong giao diện hoàn toàn cứng nhắc và không mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows này
chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương trình đồ họa Windows Paint,
bộ soạn thảo văn bản Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ.
Tuy nhiên thời đó Windows 1.0 cũng có Control Panel, đây là thành phần được
sử dụng để cấu hình các tính năng khác cho môi trường, và MS-DOS Executive
- kẻ tiền nhiệm cho bộ quản lý file Windows Explorer ngày nay.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
9
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Không hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 không thành công như mong đợi. Do lúc
đó không có nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa người dùng cho các ứng
dụng văn bản cho các máy tính PC của IBM và đây cũng là phiên bản Windows
đầu tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các máy tính vào thời đại đó.
3. Windows 2.0
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên
bản được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ
sung thêm các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa
các cửa sổ để chuyển qua lại trong desktop bằng chuột.
Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và Excel
của Microsoft. Lúc này Word và Excel là các ứng dụng đồ họa cạnh tranh với
các đối thủ khi đó WordPerfect và Lotus 1-2-3; các ứng dụng của Microsoft cần
một giao diện đồ họa để có thể chạy hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp
chúng vào với Windows.
Lúc này không có nhiều ứng dụng tương thích với Windows. Chỉ có một ngoại
lệ đáng lưu ý đó là chương trình Aldus PageMaker.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
10
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm

4. Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một mốc
quan trọng trong thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản
thương mại thành công đầu tiên của hệ điều hành, Microsoft đã bán được
khoảng 10 triệu copy trong hai năm trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên
bản hệ điều hành đa nhiệm đích thực đầu tiên. Sau sự thành công với
Macintosh của Apple, thế giới máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều
hành đa nhiệm cùng với giao diện đồ họa người dùng.
Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện của
nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của
desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có các ảnh nền - wallpaper). Các chương
trình được khởi chạy thông qua chương trình Program Manager mới, và
chương trình File Manager mới đã thay thế cho chương trình MS-DOS
Executive cũ trong vấn đề quản lý file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của
Windows có trò chơi Solitaire trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows
3.0 có một chế độ Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows
nguyên bản có thể sử dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
11
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết cho Windows được phát
triển rất rộng rãi trong khi đó các ứng dụng không cho Windows (non-
Windows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã làm cho các ứng dụng Word và Excel
đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như WordPerfect, 1-2-3.
5. Windows 3.1
Windows 3.1, phát hành năm 1992, có thể coi là một nâng cấp cho phiên bản
3.0. Phiên bản này không chỉ có các bản vá lỗi cần thiết mà nó còn là phiên bản
đầu tiên mà Windows hiển thị các font TrueType – làm cho Windows trở thành
một nền tảng quan trọng cho các máy desktop. Một điểm mới nữa trong

Windows 3.1 là bộ bảo vệ màn hình (screensaver) và hoạt động kéo và thả.
Các font TrueType của Windows 3.1
6. Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup)
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các nhóm làm việc (viết tắt
là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên của Windows. Ban đầu được
phát triển như một add-on của Windows 3.0, tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm
các driver và các giao thức cần thiết (TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang
hàng. Đây chính là phiên bản WFW của Windows thích hợp với môi trường
công ty.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
12
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows
Với WFW, các phát hành của Windows được chia thành hai hướng: hướng
dành cho khách hàng, được thiết kế dành cho sử dụng trên các máy tính PC
riêng lẻ, hiện thân là Windows 3.1 và Windows 95 sắp ra đời, và một hướng là
dành cho khối doanh nghiệp, được thiết kế để sử dụng trên các máy tính có kết
nối mạng, hiện thân là WFW và Windows NT sắp ra đời.
7. Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ NT
là viết tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành
vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW
mà thay vì đó nó là một hệ điều hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các
tổ chức có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ
điều hành 16-bit).
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
13
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Windows NT – phiên bản Windows 32-bit đầu tiên dành cho sử dụng trong khối
doanh nghiệp

Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát triển hệ điều hành
OS/2 của Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa IBM và
Microsoft bị đổ vỡ, IBM vẫn tiếp tục với OS/2, trong khi đó Microsoft đã thay
đổi tên phiên bản của OS/2 thành Windows NT.
Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã có hai phiên bản:
Workstation và Server. NT Workstation được dành cho các PC riêng rẽ trên
mạng công ty, còn NT Server có nhiệm vụ máy chủ cho tất cả các PC được kết
nối với nhau.
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một
hệ điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên toàn thế
giới. Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai
luồng Windows thành một hệ điều hành chung vào năm 2001.
8. Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành mới
vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất
trong số các phát hành Windows.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
14
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành Windows
95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương tiện
thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các
cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành
này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây choáng? Windows 95 có diện mạo đẹp
hơn và khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi
của người dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại
phần lớn và đã cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền
tảng 32-bit giả mạo. (Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích

với các ứng dụng cũ).
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ
mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu
Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu
tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 đó là trình duyệt web Internet Explorer
của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên xuất hiện là trong Windows 95 Plus! Với tư
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
15
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
cách một add-on; phiên bản 2.0 có trong Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ
được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
9. Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay đổi
mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngoài của nó
đẹp hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó còn có nhiều cải thiện hữu
dụng bên trong. Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối
mạng và hệ thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá
nhưng không làm cho cả thế giới choáng ngợp như lần ra mắt của Windows 95.
Giao diện Windows 98
Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second Edition" của Windows 98
vào năm 1999. Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu
hết các bản vá lỗi.
10.Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000.
Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất
nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó. Trong phiên bản mới này, Microsoft đã
nâng cấp các tính năng Internet và multimedia của Windows 98, bổ sung thêm
ứng dụng Windows Movie Maker, giới thiệu tiện ích System Restore – tất cả
đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều đáng chú ý nhất trong Windows Me

Đỗ Nhất Linh - CH1201040
16
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị treo. Nguyên nhân này đã làm cho
nhiều khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua toàn bộ nâng cấp này.
11. Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng
Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh
nghiệp của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows 2000 là một sự
tiến hóa từ nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị trường doanh nghiệp.
Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh nghiệp
Không giống như NT có hai phiên bản (Workstation và Server), Windows 2000
có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server, Advanced Server,
Datacenter Server và Small Business Server. Tất cả các phiên bản đều kết hợp
chặt chẽ các tính năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp mắt và
tinh tế.
12.Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được
nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản
đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường
khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP có sự pha
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
17
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
trộng tốt nhất giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của
Windows NT/2000 và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có
thể cho rằng XP là kết hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000
core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước
của Windows.
Giao diện thân thiện hơn của Windows XP

Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số
phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt.
Các phiên bản khác nhau được phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP
Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media Center Edition,
XP Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong các nước
đang phát triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này,
nhưng Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với
các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ
tin cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện
Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn, tính năng Fast User Switching
cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những người dùng
khác.
13.Windows Vista
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
18
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính năng
của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số
được cải thiện và giao diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này đòi
hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế
khả năng nâng cấp từ nhiều máy tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành
phần 3D gần như trong suốt và đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó còn
nhiều thứ trong Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của
chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay
vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, tròn trịa
hơn và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn

hình. Bên cạnh đó còn có một Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ
chuyên dụng cho một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows XP.
Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều –
là User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt
động thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không
cho truy cập trái phép vào hệ thống), nhưng khi thực thi thì chương trình lại
làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất
hiện quá nhiều.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
19
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp
thiết bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ không có driver tương thích với
Vista (đây có thể coi là một vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy
nhiên có một số chương trình chạy trên XP không thể làm việc đúng cách trong
môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà
Microsoft đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức –
Windows 7 được phát hành.
14.Windows 7
Với sự thất bại của Windows Vista, Microsoft đã phải “chữa cháy” bằng
Windows 7, ra mắt vào năm 2009. Và quả nhiên, Microsoft đã thành công với
nỗ lực của mình, khi Windows 7 thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng và mong đợi
của người dùng. Về cơ bản, Windows 7 cũng chỉ được xây dựng và phát triển
từ Windows Vista, nhưng hệ điều hành này hoạt động hiệu quả và ổn định hơn
hẳn.
Taskbar mới trong Windows 7
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên, phát hành này đã thay
đổi những gì mà người dùng không thích trong Windows Vista. Phần cứng cũ

và phần mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí còn có cả tính năng
Windows XP Mode cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi
trường nguyên bản của Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện
nhiều hơn để giảm bớt sự gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
20
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Tiếp đến, Windows 7 còn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi
và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế
độ Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy
những gì bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép
bạn dễ dàng di chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình
xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho
phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa
thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump
List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút
taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và thumbnail của tất cả các tài liệu.
Có thể nói Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, được nhiều
người nhận định là những cách mang tính tích cực.
15.Windows 8
Bắt kịp xu hướng phát triển của công nghệ, Microsoft ra mắt Windows 8 vào
tháng 08/2012. Điểm đặc biệt của hệ điều hành này đó là được xây dựng hoàn
toàn mới, không dựa trên những nền tảng sẵn có và có cả phiên bản dành cho
máy tính bảng. Hàng loạt những tính năng hấp dẫn, mới mẻ đã được Microsoft
phát triển làm cho người dùng háo hức dùng thử phiên bản này. Sự thành công
của Windows 8 cần được thời gian kiểm chứng nhiều hơn nữa.
Giao diện của Windows 8
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
21

Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
V. Phân tích các phương pháp sáng tạo SCAMPER trong sự phát
triển của hệ điều hành Windows
1. Phép thay thế
Trong từng phiên bản mới ra đời, Windows đa phần được thay thế diện mạo
cũng như thêm nhiều tính năng hữu ích cho người sử dụng, tạo sự thân thiện
cũng như tương thích nhiều hơn.
Từ giao diện màn hình DOS cứng nhắc với những dòng lệnh đến giao diện
người dùng của Windows 95, 98, XP và những phiên bảng sau đó là những thay
đổi mang tính bước ngoặc.
Với sự thất bại của Windows Vista, Microsoft đã phải “chữa cháy” bằng
Windows 7, ra mắt vào năm 2009. Và quả nhiên, Microsoft đã thành công với
nỗ lực của mình, khi Windows 7 thực sự đáp ứng được sự kỳ vọng và mong đợi
của người dùng. Về cơ bản, Windows cũng chỉ được xây dựng và phát triển từ
Windows Vista, nhưng hệ điều hành này hoạt động hiệu quả và ổn định hơn
hẳn.
2. Phép kết hợp
- Windows 2.0 tích hợp microsoft word, excel.
- Windows 95 tích hợp Internet Explorer 1.0
- Windows ME bắt đầu tích hợp thêm một số chức năng rất hay :
Windows Movie Maker, System Restore…
3. Phép thích ứng
- Các phiên bản Windows ra đời mang đầy sự thích ứng:
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng
phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện
đồ họa người dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan
điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows
vào năm 1983, và Windows 1.0 cuối cùng được phát hành ra thị trường vào
tháng 11 năm 1985.
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện của

nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của
desktop. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trò chơi Solitaire
trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
22
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử
dụng bộ nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó. Windows 3.0 đã làm cho các
ứng dụng Word và Excel đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như
WordPerfect, 1-2-3.
Windows 3.1, phát hành năm 1992, là phiên bản đầu tiên mà Windows hiển thị
các font TrueType – làm cho Windows trở thành một nền tảng quan trọng cho
các máy desktop. Một điểm mới nữa trong Windows 3.1 là bộ bảo vệ màn hình
(screensaver) và hoạt động kéo và thả.
Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ
mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu
Start; các shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu
tiên xuất hiện trong phiên bản này.
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được
nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản
đầu tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường
khách hàng – và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP là một
phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so với các phiên bản trước đó Windows 95/98
hoặc Windows 2000. Giao diện Luna cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn,
tính năng Fast User Switching cho phép cùng một máy có thể được chia sẻ dễ
dàng với những người dùng khác.
4. Phép điều chỉnh
Với phiên bản đầu tiên ra đời có nhiều lỗi cần phải sửa, Windows đã không
ngừng phát hành các phiên bảng vá lỗi và nâng cấp.
Lấy windows 7 làm dẫn chứng, thay đổi lớn nhất là tạo điểm nhấn trên taskbar,

xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho
phép bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa
thích của bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump
List các tài liệu gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút
taskbar, bạn sẽ thấy một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài
liệu.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
23
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
5. Phép thêm vào
Windows qua các phiên bản đều thêm nhiều tính năng mới giúp tải thiện sản
phẩm, cũng như làm hài lòng người sử dụng, số lượng bán ra tăng nhanh chóng
mặt.
Phiên bảng phát hành nhiều nhất Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác
vụ này có các nút cho các cửa sổ mở. Nó cũng là phiên bản đầu tiên của
Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các shortcut trên desktop, kích
phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện trong phiên bản này.
6. Phép loại bỏ
Qua các phiên bảng vá lỗi và nâng cấp, Windows đã loại bỏ những yếu tố
không phù hợp với người dùng.
Ví dụ tiêu biểu là Windows Vista được phát hành năm 2007, phiên bản
Windows này đã phát triển các tính năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật
và độ tin cậy, chức năng truyền thông số được cải thiện và giao diện đồ họa
người dùng Aero 3D đẹp mắt.
Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều –
là User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt
động thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn không
cho truy cập trái phép vào hệ thống), nhưng khi thực thi thì chương trình lại
làm cho người dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ đòi hỏi sự cho phép xuất
hiện quá nhiều. Với sự thất bại của Windows Vista, Microsoft đã phải “chữa

cháy” bằng Windows 7, ra mắt vào năm 2009. Và quả nhiên, Microsoft đã
thành công với nỗ lực của mình, khi Windows 7 thực sự đáp ứng được sự kỳ
vọng và mong đợi của người dùng. Về cơ bản, Windows cũng chỉ được xây
dựng và phát triển từ Windows Vista, nhưng hệ điều hành này hoạt động hiệu
quả và ổn định hơn hẳn.
7. Phép đảo ngược
Vào thời điểm hệ điều hành sơ khai DOS đang thịnh hành, Microsoft tin rằng
các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng phải dễ dàng hơn
trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ họa người dùng
(GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS.
Với quan điểm đó, Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của
Windows vào năm 1983, và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường
vào tháng 11 năm 1985. Kéo theo liên tiếp những phiên bảng cao hơn đã chứng
minh tính đúng đắn của nhận định đi ngược xu thế lúc bấy giờ của Microsoft.
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
24
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Văn Kiếm
VI. Kết luận
Quá trình phát triển của Microsoft và hệ điều hành Windows là minh chứng
sống về việc vận dụng các nguyên lý sáng tạo hiệu quả.
Sự thành công rực rỡ của Microsoft trong mảng hệ điều hành máy tính nói
riêng và các sản phẩm dịch vụ của hãng nói chung đều mang dấu ấn của sự tư
duy sáng tạo.
Dựa vào phương pháp SCAMPER phân tích quá trình phát triển của hãng, ta
càng tin tưởng rằng phương pháp SCAMPER là công cụ cực kỳ mạnh có thể
giúp chúng ta có những lối tư duy sáng tạo mới lạ, giúp ích cho quá trình làm
việc của bản thân cũng như hội nhập tri thức trên thế giới.
Mỗi con người chúng ta cần phải có tư duy sáng tạo trong mọi hoạt động hàng
ngày. Hãy chọn SCAMPER vì nó được minh chứng nhiều ở độ tin cậy và thực
tế là nhiều công ty, nhiều cá nhân đã thành công rực rỡ khi áp dụng các phương

pháp này.
VII. Tài liệu tham khảo
1) Giáo trình của GS TSKH Hoàng Kiếm
2)
3)
4)
Đỗ Nhất Linh - CH1201040
25

×