Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phân tích thơ và truyện lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.07 KB, 17 trang )

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM THƠ VÀ TRUYỆN HIỆN ĐẠI LỚP 9
1)ĐỒNG CHÍ – CHÍNH HỮU – 1948 – TẬP “ ĐẦU SÚNG TRĂNG TREO”
Chính hữu vừa là một nhà thơ đông thời ông cũng là một chiến sĩ cách mạng dũng cảm trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Năm 1948, sau khi nhà thơ cùng đồng độ tham gia
chiến dịch Việt Bắc thu - đông năm 1947, ngăn chặn cuộc tấn công quy mô lớn của giặc lên chiến
khu Việt Bắc, Chính Hữu đã viết bài thơ “Đồng chí”. Tác phẩm là những cảm xúc chân thực của tác
giả qua những trải nghiệm thực tế, ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn. Bài thơ nàm
trong tập “Đầu súng trăng treo” là tập thơ đầu tay của tác giả.
“Đồng Chí” là một bài thơ tiêu biểu của nền thơ hiện đại Việt Nam viết về người lính và cuộc
chiến tranh phi nghĩa, ác liệt. Những câu thơ đầu của bài thơ là cơ sở hình thành nên tình đồng chí
gắn bó giữa những người lính cách mạng:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Hai câu thơ đầu tiên với các thành ngữ quen thuộc “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” cho
thấy những người lính đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó, họ chung cảnh đói khổ, bần hàn,
đều là những nhười nông dân chân lấm tay bùn. Từ đó, hé mở họ là những con người cùng cảnh ngộ,
tuy nhiên, hai đại từ anh và tôi xuất hiện riêng biệt trong hai câu thơ thể hiện sự xa lạ lần đầu gặp gỡ.
Ngôn ngữ giản dị như một lời kể chuyện tạo giọng điệu thơ dằm thắm, chân thành, vì vậy một nhà
nghiên cứu đã khẳng định:” Câu thơ có cái trong lành của trận mưa mùa hạ, cơn gió đầu thu và
phảng phất hương thơm của hoa ngâu, hoa mộc.”. Sang câu thơ thứ ba, hai đại từ này cung xuất hiện
kết hợp với từ “với” cho thấy họ dã dần quen nhau và thân thiết hơn. Các cụm từ “đôi người xa lạ”,
“chẳng hẹn quen nhau” hé mở sự gặp gỡ của những ngườ chung lí tưởng, đó là lí tưởng chiến đấu
cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Hình ảnh “ Súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã cụ
thề hóa sự gắn bó và hòa nhập của những người chiến sĩ cách mạng. Từ “sát” cho thấy giữa họ
dường như không còn khoảng cách, họ đã thực sự gắn bó thân thiết với nhau. Rồi những lúc họ cùng
vượt qua những khó khăn, thiếu thốn, chung chăn khi ngủ và những người lính đã trở thành đôi bạn


tri kỉ tự bao giờ. Những hình ảnh chân thực ấy dã mở ra câu thơ thứ bảy với những ý nghĩa sâu sắc.
Câu thơ chỉ với hai từ, sự thay đổi đột ngột này thề hiện cảm xúc dồn nén của nhà thơ, nó vùa khép
lại ý thơ của sáu câu thơ đầu, gọi tên cho một tình cảm thiêng liêng, bất diệt, vừa hé mở những điều
chứa đựng ở những câu thơ sau và trong cả bài thơ.
Ba câu thơ tiếp theo là sự cảm thông sâu xa, nỗi lòng của những người lính:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.
Ở câu thơ đầu của đoạn thơ trên, đại từ “anh” xuất hiện một mình, tuy vậy, người đọc vẫn có cảm
giác là chung cho cả hai người vì họ đã thục sự gắn bó keo sơn như một. Những hình ảnh “ruộng
nương”, “gian nhà” là những thứ thân thuộc của làng quê và ngườ nông dân Việt Nam, đó cũng là tất
cả nhũng gì họ dành dụm, chắt chiu được. Vậy mà, họ sẵn sàng bỏ lại tất cả và đi theo tiếng gọi của
Tổ quốc, họ là tiêu biểu cho hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. Từ “mặc kệ”
thể hiện sự dứt khoát và quyết tâm một lòng trung thành với cách mạng và họ luôn nêu cao tinh thần
chiến đấu “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Nghệ thuật hoán dụ “giếng nước gốc đa” diễn tả tình
cảm sâu nặng của hậu phương đối với người lính. Sâu xa hơn. Đó còn là nỗi nhớ niềm thương của
người ra trận, dù họ có ra đi bỏ lại quê hương, làng quê nhưng trong lòng họ thì cây đa, bến nước
luôn hiện hữu trong sâu thẳm tâm hồn người lính.
Những câu thơ tiếp theo là biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
Những cơn sốt rét rừng chỉ là một trong vô vàn những khó khăn, gian khổ trong cuộc đời người lính
Nhưng đây là một chi tiết rất tiêu biểu nên người đọc có thể hiểu và cảm thông với những gì người
lính phải trải qua. Hệ thống các chi tiết: áo rách vai, quần có mảnh vá, chân không có giầy đã chân
thực miêu tả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất của cuộc kháng chiến, qua đó nói lên hiện thực của
cuộc chiến tranh. Khi đọc mỗi ngườ đèu có cảm giác xao xuyến. xúc động và thấm thía sự hi sinh

của thế hệ cha anh để đem lại hòa bình, hạnh phúc cho chúng ta ngày hôm nay. Nụ cười tỏa sáng
giũa cái buốt giá, khắc nghiệt của thời tiết cho thấy tinh thần lạc quan vượt qua mọi khó khăn của
người lính mà cơ sở là sự cảm thông, chia sẻ giữa những chiến sĩ và lòng yêu nước nồng nàn của họ.
Câu thơ kết đoạn là hình ảnh đep và thêng liêng, tuy thiếu thốn đủ bề nhưng họ luôn có động lực
thúc đẩy họ dũng cảm chiến đấu đó là tình đông chí, đồng đội gắn bó, ấm áp, cội nguồn của sức
mạnh để những người lính chiến đáu và chiến thắng kẻ thù.
Những câu thơ cuối tác phẩm là biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Với thời gian là một đêm, khoảng thời gian cuối cùng của một ngày khi mọi người đang nghỉ ngơi
sau một ngày là việc sản xuất, gắn với sự tĩnh lặng và khuya khoắt. Đây lại là một đem phục kích
chờ giặc, nên thời gian còn ẩn chúa sự nguy hiểm của cuộc chiến đấu sắp tới. Không gian rừng
hoang mở ra với sự hoang sơ trống trải. Những người lính đứng cạnh nhau nổi bật. Câu thơ kết thúc
khổ thơ cũng là câu thơ khép lại bài thơ với ý nghĩa sâu sắc. Nó vừa là hình ảnh tả thực những người
lính đứng chờ giặc trong một đêm có trăng, vầng trăng sà thấp xuống như treo đầu mũi súng. Đồng
thời gợi nhiều liên tưởng, khẩu súng là biểu hiện cho cuộc chiến tranh khốc liệt, còn vầng trăng là
hiện thân cho vẻ đẹp kì vĩ, lãng mạn. Câu thơ trên cũng là biểu tượng của tình đồng chí, với ý nghĩa
cao đẹp: họ cầm súng chiến đấu vì cuọc sống hòa bình của đất nước, khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của
người lính.
Bài thơ “Đồng chí” là một thi phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ của Chính Hữu. Nó không
những là hình ảnh của người lính trong cuọc kháng chiến hào hùng, vẻ vang của dân tộc mà còn ca
ngợi bức chân dung anh bộ đội cụ Hồ, tình đồng chí thắm thiết và biểu tượng cao đẹp, bất tử của tình
đồng chí.
2) Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiền Duật – 1969 – Tập “ Vầng trăng -
quầng lửa”
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước. Thơ của ông giàu giá trị hiện thực và mang âm vang của một thời kì lịch sử hào hùng
của dân tộc. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ sáng tác năm 1969 khi cuộc
kháng chiến chống Mĩ đang vào giai đoạn ác liệt nhất. Bài thơ nằm trong tập “Vầng trăng – quầng

lửa”, tác giả đã mượn hình ảnh độc đáo là những chiếc xe không có kính để phản ánh hiện thực
chiến tranh và ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của những người lính lái xe Trường Sơn.
Tác giả giới thiệu về tiểu đội xe không kính và ca ngợi vẻ đẹp của những người lính qua khổ
thơ đầu tiên:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Câu thơ mở đầu xuất hiện hình tượng những chiếc xe không kính là một hình ảnh chân thực chỉ có ở
Việt Nam thời chiến tranh kết hợp với điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một câu thơ nhấn
mạnh sự ác liệt của chiến tranh và những chặng đường nguy hiểm mà chiếc xe phải vượt qua. Các
động từ mạnh như giật, rung, vỡ miêu tả cụ thể sự ác liệt của chiến tranh và những khó khăn, thử
thách từ đó hé mở vẻ đẹp của những người lính lái xe dũng cảm. Nhịp điệu thơ chậm rãi, nhẹ nhàng
như một lời kể chuyện khiến cho người đọc có cảm giác những chiếc xe hiện lên cụ thể và như đang
tiến lại gần. Tiếp nối hình ảnh độc đáo đó, tác giả đã ca ngợi ý chí kiên cường, không ngại khó khăn,
gian khổ, tất cả vì đồng bào miền Nam ruột thịt. Từ láy “ung dung” đứng ở đầu câu thơ khắc họa rõ
nét tư thế chủ động, bình tĩnh của những người lính khi đối diện với hiên thực chiến tranh, toát lên
sự tự tin, bình thản mặc dù xe không có kính. Điệp từ “nhìn” được lặp lại ba lần khắc họa tư thế hiên
ngang và làm nổi bật tầm vóc của những người lính lái xe dũng cảm giữa đất trời bao la.
Khổ thơ thứ hai là sự tiếp nối về ý chí anh dũng vượt qua khó khăn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Các điệp từ, điệp ngữ với ý nghĩa nhấn mạnh sự chủ động của những chiến sĩ lái xe trong hoàn cảnh
khó khăn, nhuy hiểm. Hình ảnh “sao trời”, “cánh chim” kết hợp với biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm
giác và so sánh “Như sa như ùa vào buồng lái” mở ra không gian bao la của đất nước và tinh thần
dũng cảm của những nhười lính lái xe. Họ không chỉ sẵn sàng đón nhận khó khăn mà còn cảm thấy
được gần gũi với đất trời, với thiên nhiên khoáng đạt không có sự ngăn cách nào. Đặc biệt hình ảnh
“con đường chạy thẳng vào tim” chính là con đường cách mạng, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại

xâm, lập lại hòa bình, độc lập cho đất nước.
Tâm hồn trẻ trung và tinh thần lạc quan của những người lính lái xe được thể hiện qua hai khổ
thơ sau:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi
Sử dụng ngôn ngữ giản dị, đậm chất khẩu ngữ để kể về những chặng đường khó khăn, nguy hiểm,
những người lính lái xe chứng tỏ họ đã quen với điều đó. Từ “ừ” thể hiện tâm hồn trẻ trung, coi
những khó khăn trở nên bình thường và nhẹ nhàng như một điều tất yếu. Các hình ảnh “bụi phun tóc
trắng như người già”, “mưa tuôn mưa xối như ngoài trời” thể hiện những thử thách, gian truân trong
cuộc đời lính lái xe. Nhưng qua các đông tác “phì phèo châm điếu thuốc”, “lái trăm cây số nữa” cho
thấy tinh thần lạc quan, yêu đời bất chấp khó khăn, gian khổ và con đường phía trước con nhiều
nguy hiểm, chông gai, họ vẫn vững vàng lái xe mặc mưa bom, bão đạn. Nụ cười thoải mái, tỏa sáng
đã xóa tan hết sự mệt mỏi hay thiếu thốn, họ luôn tràn trề tinh thần chiến đấu của anh bộ đội cụ Hồ.
Lặp cấu trúc ngữ pháp “không có…thì…chưa cần…” kết hợp với sự đan xen bằng trắc trong từng
câu thơ thì ở câu thơ cuối mỗi khổ thơ là thanh bằng gợi cảm giác ung dung nhẹ nhàng, niềm vui
được góp một phần vào công cuộc giải phóng đất nước của những chiến sĩ lái xe Trương Sơn.
Hai khổ thơ tiếp theo là sự gặp gỡ của tiểu đội xe không kính và những kỉ niệm trong cuộc đời
người lính lái xe:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm
Những chiếc xe không kính gặp nhau với hình ảnh “những chiếc xe từ trong bom rơi” nói lên cuộc
chiến tranh phi nghĩa, khốc liệt làm cho những chiếc xe không còn nguyên vẹn nữa. Nhưng chính vì
không có kính nên những người lính lái xe có thể dễ dàng bắt tay và trò chuyên với đồng đội của mình
mà chưa cần phải xuống khỏi xe. Rồi những kỉ niệm khó phai, cùng anh em dựng bếp, võng giữa
đường Trương Sơn thể hiện tâm hồn trẻ trung và niềm vui, họ đã trở thành một gia đình. Từ láy
“chông chênh” giàu giá trị tạo hình, gợi hình ảnh những chiếc võng trên đường hành quân và cảm
nhận của những người lính ngay cả lúc nghỉ ngơi vẫn mang dấu ấn của chiến tranh. Giúp người đọc
hình dung con đường khúc khuỷu, gập ghềnh mà những chiếc xe phải vượt qua Điệp ngữ “lại đi”
được lặp lai hai lần tạo nhịp điệu thơ sôi nổi mạnh mẽ giống như khúc quân hành của người lính. Hình
ảnh ẩn dụ “trời xanh” hé mở tâm hồn trẻ trung của những chiến sĩ lái xe và thể hiện niềm tin vào
tương lai đất nước được hòa bình, thống nhất.
Khổ thơ kết làm nổi bật vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” được lặp lại ba lần trong hai câu thơ tô đậm những khó khăn, thử thách mà
người lính phải đối diện. Nghệ thuật liệt kê không có kính, đèn, mui xe qua đó phản ánh chân thực
cuộc chiến tranh ác liệt. Nghệ thuật tương phản đối lập không có … với có xước cho thấy những khó
khăn chồng chất, qua đó ca ngợi phẩm chất dũng cảm, anh hùng của nhưng chiến sĩ lái xe. Cụm từ “Vì
miền Nam” khẳng định ý chí quyết tâm chiến đấu, hướng ra mặt trận với tình cảm thiêng liêng xuất
phát từ tình yêu đất nước thiết tha, đó là lí tưởng cao đẹp giúp người lính có thêm sức mạnh để vượt
qua khó khăn, gian khổ. Các từ “vẫn”, “chỉ cần” thể hiện phẩm chất anh hùng xúc cảm của họ. Hình
ảnh “trái tim” là nghệ thuật hoán dụ ca ngợi tâm hồn trẻ trung đầy tình yêu thương, những người lính
lái xe có thể vượt qua tất cả những thiếu thốn về vật chất, từ đó tác giả gửi gắm triết lí sâu sắc: sức
mạnh quy định chiến thắng không phải ở vũ khí hiện đại mà ở những con người mang trái tim yêu
nước nồng nàn và tinh thần dũng cảm lạc quan.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính như một bức tượng đài nghệ thuật về những người lính lái xe
Trường Sơn giữa khói lửa chiến tranh ác liệt, cho thấy sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ. Phạm Tiến Duật đã thành công khi phác họa những chiến sĩ lái xe với hình ảnh
những chiếc xe không kính, nó trở thành một tác phẩm xuất sắc trong nền thơ hiện đại Việt Nam.
3) Con cò – Chế Lan Viên – 1962 – Tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão”
Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc trong nền thơ hiện đại Việt Nam trước cách mạng tháng tám, là
một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Con cò” được ông sáng tác năm
1962 in trong tập “Hoa ngày thường – Chim báo bão”. Đây là tác phẩm thành công ở đè tài viết về
tình mẫu tử.
Bài thơ được xây dựng bằng hình ảnh con cò quen thuộc, gần gũi với tuổi thơ mỗi con người, qua
đó ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp. Phần thứ nhất của bài thơ là hình ảnh con cò gắn liền với
những kỉ niệm thời thơ ấu khi con còn nằm trong nôi:
Con còn bế trên tay
Con chưa biết con cò
Nhưng trong lời mẹ hát
Có cánh cò đang bay
Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng
Cò một mình cò phải kiếm lấy ăn
Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ
Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng
Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi chớ sợ
Cành có mềm mẹ đã sẵn tay nâng
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát

Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
Thời gian lúc này là khi em bé mới sinh, hình ảnh con cò được em bé cảm nhận qua lời ru của bà, của
mẹ. Những lời ru quen thuộc “Con cò bay la….Đồng Đăng” qua đó cho thấy tuy con chưa biết con cò
ngoài đời thục nhưng trong lời mẹ hát, cò là một người bạn không thể thiếu. Con cò gắn với hình ảnh
ngườ mẹ nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung chịu lam lũ, vất vả kiếm ăn nuôi con khôn
lớn. Trên đường đi kiếm ăn sẽ gặp nhiều gian khổ, khó khăn. Còn con thì được mẹ nâng niu, nuôi
dưỡng đến khi khôn lớn trưởng thành. Con được sống trong vòng tay che chở, đùm bọc của mẹ không
cần la về những nguy hiểm, thử thách. Mẹ hát cho con những nài hát ru đẻ con ngủ ngoan trong bầu
sữa của mẹ và rồi lớn lên khỏe mạnh. Với những lời ru bình dị và gần gũi với con người, hình tượng
con cò trở thành một kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ của mỗi chúng ta.
Khổ thơ thứ nhất khép lại với những gì thân thuộc nhất từ khi con còn bế trên tay. Sang khổ thơ
thứ hai, con cò không những thân thiết với tuổi thơ mà còn cả khi trưởng thành:
Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân
Lớn lên, lớn lên, lớn lên
Con làm gì?
Con làm thi sĩ
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu vân
Điệp ngữ “ngủ yên” được lặp lại ba lần trong một câu thơ tạo nhịp điệu thơ trữ tình giống như lời ru
ngọt ngào và bàn tay vỗ về êm ái của mẹ mong con có giấc ngủ ngon. Hình ảnh con cò được miêu tả
qua liên tưởng độc đáo “cò trắng đến làm quen”, “cò đứng ở quanh nôi”. Nhệ thuật nhân hóa làm cho
mọi hình ảnh trong lời ru hiên ra sống động. Cùng với liên tưởng “cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”
diễn tả mối quan hệ như hình với bóng của cò và con, hé mở niềm hạnh phúc ngọt ngào khi con được

sống trong tình yêu thương và lớn lên bằng lời ru của mẹ. Qua đó, tác giả làm nổi bật tình yêu thương
của mẹ dành cho con và ý nghĩa quan trọng của lời ru, nó góp phần bồi đắp tâm hồn mỗi con người.
Cụm từ “mai khôn lớn” cho thấy sự tiếp nối từ khi em bé con nằm trong nôi đến khi cắp sách đến
trường. Cách nói hoán đổi “con theo cò đi học…đôi chân” khiến cho hình ảnh con cò và cánh cò trắng
không thể tách rời. Thực chất đó là ẩn dụ cho người mẹ dõi theo mỗi bước con đi. Con dần lớn khôn
và từng bước thực hiện ước mơ của mình. Người mẹ luôn sát cánh, che chở khó khăn trên bước đường
đời với con. Như vậy hình ảnh con cò đã được hình tượng hóa và nâng lên thành biểu tượng cho tình
mẫu tử thiêng liêng.
Đến đoạn thơ thứ ba thì hình ảnh con cò lại được khai thác ở ý nghĩa tượng trưng cho tấm lòng
người mẹ lúc nào cũng theo sát bên con. Lời ru của mẹ sao mà thiết tha, xúc động:
Dù ở gần con
Dù ở xa con
Lên rừng xuống bể
Cò sẽ tìm con
Cò mãi yêu con
Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con
Lặp cấu trúc ngữ pháp “Dù ở” khẳng định cuộc sống luôn tiềm ẩn nhiều khó khăn, nguy hiểm. Trong
bất kì hoàn cảnh nào, cò cũng luôn gắn bó với con, là biểu tượng cho người mẹ với tình yêu thương
bao la luôn hướng về con. Nghệ thuật đối qua các cặp từ gần – xa, lên – xuống không chỉ tạo nhịp điệu
thoe cân đối hài hòa mà còn nhấn mạnh tình mẫu tử có sức mạnh kì diệu để con người vượt qua mọi
khó khăn, thử thách. Nghệ thuật nhân hóa “cò tìm con”, “cò yêu con” giúp nhà thơ gửi gắm triết lí về
tình mẫu tử. Tác giả đặt hình ảnh con cò theo chiều dài thời gian “đi hết đời” thể hiện sụ bất tử của
lòng mẹ. Từ đó ca ngợi ý nghĩa cao đẹp của lời ru và tình mẫu tử:
À ơi! Một con cò thôi
Con cò mẹ hát
Cũng là cuộc đời
Vỗ cánh quanh nôi
Ngủ đi! Ngủ đi
Cho cánh cò, cánh vạc

Cho cả sắc trời
Đến hát
Quanh nôi.
Điệp ngữ “ngủ đi” tạo âm hưởng ngân nga, vang vọng cho lời ru và gơi trong tâm thức của mỗi con
người những kỉ niệm thiêng liêng gắn liền với lời ru và tình mẹ. Hình ảnh con cò, con vạc được sử
dụng theo cách nói ẩn dụ thể hiện rằng bằng những lời ru ngọt ngào, mẹ không chỉ mang đến cho con
tình yêu thương mà còn giúp con nhận thức về cuộc sống.
Kb
4) Nói với con – Y Phương – 1980
Y Phương (1948) là một nhà thơ tiêu biểu cho các dân tộc miền núi .”Thơ Y Phương như một bức
tranh thổ cẩm đan dệt nhiều màu sắc khác nhau ,phong phú và đa dạng ,nhưng trong đó có một màu
sắc chủ đạo ,âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo .Nét độc đáo đó nằm ở cả nội
dung và hình thức .Với Y Phương ,thơ của dân tộc Tày nói riêng và thơ Việt Nam nói chung có thêm
một giọng điệu mới ,một phong cách mới “
Bài thơ được thể hiện qua lời tâm tình của người cha .Người cha đã bộc lộ lòng yêu thương con qua
ước mong con sống xứng đáng ,phát huy truyền thống của,gia đình , quê hương. Mượn lời người cha
nói với con về tình yêu thương của cha mẹ ,sự đùm bọc của quê hương với con ,nhà thơ đã gợi về
nguồn sinh dưỡng trong mỗi người chúng ta .Mở đầu bài thơ là khung cảnh gia đình ấm cúng ,đầy ắp
tiếng nói cười .Mười một câu thơ như tràn đầy những đầm ấm ,yên vui của tình cảm gia đình ,tình cảm
quê hương :
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ caì nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời .”
Một mái nhà có mẹ có cha và con hạnh phúc vì được sống hạnh phúc trong tình yêu thương .Cha mẹ
đã dìu dắt ,nâng đỡ con từ những bướcđi đầu tiên ,đã tìm thấy niềm vui từ con .Hơn thế nữa ,con còn
được sinh ra ,lớn lên trong tình yêu thương ,vẻ đẹp của “đồng mình “. “Người đồng mình” yêu lắm
con ơi !” Lao động tuy vất vả nhưng cuộc sống của “người đồng mình”tươi vui, mà rất ngọt ngào .
Dáng vẻ tuy thô sơ , công việc tuy nặng nhọc nhưng tâm hồn “người đồng mình “lãng mạn biết bao
nhiêu :Họ làm một cách nghệ thuật những công việc của mình.Con thật hạnh phúc vì con được sống
giữa những con người như vậy — những con người khéo tay ,yêu thiên nhiên ,yêu lao động, lạc quan
và nhân hậu. Thiên nhiên đồng mình cũng rất đẹp : Rừng núi quê hương thơ mộng đã dành cho con
những gì tinh tuý nhất (hoa ) ,đã nuôi dưỡng con về cả tâm hồn ,lối sống ,”tấm lòng “. Và từng ngày
,con đã lớn lên, có cha mẹ nâng đón và mong chờ ,có thiên nhiên thơ mộng, có cuộc sống lao động
gắn bó .Con đã trưởng thành trong nghĩa tình của quê hương như vậy đó . Nói với con những điều
đó ,cha mong cho con hiểu những tình cảm cội nguồn đã sinh dưỡng con ,để con yêu cuộc sống hơn .
Dặn dò con về quê hương ,về “đồng mình “, cha càng muốn con phải khắc cốt ghi xương nơi mình đã
sống ,đã trưởng thành . Cuộc sống của “người đồng mình ” vất vả ,gian nan “thương lắm con ơi “:
“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.”
Nhưng tự hào lắm con ơi ,người đồng mình đã,đang và sẽ luôn sống đẹp .Họ có sức sống mạnh mẽ
:vất vả nhưng khoáng đạt ,gắn bó với quê hương .Họ ” ko chê ,ko lo “gian khổ, mà vẫn sống tràn đầy
“như sông như suối ” .Họ mộc mạc,chân chất nhưng giàu ý chí ,niềm tin ,mong xây dựng quê hương
tốt đẹp hơn : “Người đồng mình thô sơ da thịt Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con Người đồng mình tự đục
đá kê cao quê hương Còn quê hương thì làm phong tục “. Sự đối lập giữa bên ngoài :”thô sơ da thịt”
nhưng bên trong ko hề nhỏ bé về tâm hồn ,người đồng mình có ý chí tự làm chủ cuộc sống của mình.
Qua “sự liên tưởng phong phú sáng tạo “tự đục đá kê cao quê hương “,người đồng mình là những con
người lao động cần cù ,có nghị lực ,niềm tin ,mà tầm vóc ,nỗi buồn ,chí hướng của họ là cái cao ,xa
chiều kích của trái đất .Họ giữ gìn bản sắc dân tộc mà vẫn làm rạng rỡ quê hương như vậy bởi họ yêu
quê hương sâu nặng và luôn lấy quê hương làm chỗ dựa tinh thần .Người cha muốn con yêu là yêu

những điều đó , yêu những đức tính cao đẹp của người đồng mình . Cả đoạn thơ như âm vang trong
những lời tự hào ,sự gắn bó và tình yêu tha thiết của người cha về quê hương .Nó như trở thành một
hành khúc mạnh mẽ ngợi ca quê hương .Và ,lời nhắc nhở của người cha với con chính là một nốt nhấn
kết lại bản hành khúc của quê hương :
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Ko bao giờ nhỏ bé được
Nghe con” .
Cho con thấy tình yêu thương ,niềm tin tưởng của cha ,người cha mong con biết sống sao cho tốt ,cho
xứng đáng với tình cảm của cha .Cho con hiểu cuộc sống của người đồng mình ,người cha muốn con
cảm thương với những khó khăn ,vất vả để khao khát đi xây dựng quê hương .Ca ngợi những đức tính
cao đẹp của người đồng mình ,cha đã truyền cho con vẻ đẹp sức mạnh của truyền thống quê hương
,mong con sống có tình nghĩa ,biết chấp nhận gian khó ,vươn lên bằng ý chí của mình ,vững vàng trên
đường đời. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với quê hương
và niềm tự tin khi bước vào đời .Nói với con mà chính là cha đã trao tặng cho con .Cha đã vun đắp
cho con những tình cảm tốt đẹp , cho con một hành trang quý và đã sẵn sàng tung cánh cho con bay đi
khắp mọi nơi .Tiếng thơ trong “Nói với con ” là tiếng lòng của Y Phương ,tiếng lòng về tình yêu và
niềm tự hào đối với quê hương ,dân tộc .
5) Mùa xuân nho nhỏ - Thanh Hải – 1980
Thanh Hải là nhà thơ tiêu biểu trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, các tác phẩm
của ông là tiếng nói chân thành thể hiện tâm tình, khát vọng của con người Việt Nam trong những thời
kì lịch sử cụ thể. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường
bệnh, đây cũng là thời kì cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Tác phẩm phác họa bức tranh của mùa xuân thiên nhiên, thể hiện những suy ngẫm chân thành
trước mùa xuân đất nước và gửi gắm khát vọng của tác giả muốn sống, cống hiến, tin tưởng vào tương
lai tươi sáng của đất nước.
Những câu thơ đầu, bức tranh mùa xuân của xứ Huế, của đất trời hiện ra với sự sống mãnh liệt:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
Dòng sông là một thi liệu trong thơ ca Việt Nam, gợi không gian của quê hương, đất nước. Trước hết
đó là một dòng sông xanh êm đềm như một tấm gương phản chiếu bầu trời, bên cạnh đó, trong sự cảm
nhận của nhà thơ thì dòng sông hiện thân cho sức sống của mùa xuân cho nên nó là một dòng chảy
mang sắc màu của sự sống. Hình ảnh dòng sông xanh toát lên vẻ đẹp thơ mộng. Tác giả sử dụng nghệ
thuật đảo ngữ đưa từ “mọc” lên đầu câu để nhấn mạnh sự xuất hiện của hình ảnh bông hoa, thực chất
đó là khoảnh khắc nhà thơ nhận ra vẻ đẹp kì diệu của mùa xuân. Màu tím biếc là sắc màu đằm thắm,
là màu sắc đặc trưng của xứ Huế, tạo nên một vẻ đẹp duyên dáng hài hòa của mùa xuân xứ Huế. Âm
thanh tiếng chim hót làm náo động cả không gian, nó tạo nên âm vang của mùa xuân trong lòng
người. Đặc biệt nó được đặt dưới hình thức của một câu hỏi tu từ thể hiện cảm nhận tinh thế về vẻ đẹp
của mùa xuân. “Ơi” giống như tiếng gọi với giọng điệu trữ tình ngọt ngào hé mở niềm vui dâng trào
khi phát hiện vẻ đẹp của mùa xuân. Với biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, âm thanh tiếng chim từ
vô hình đã trở nên hữu hình qua từ láy “long lanh”, âm thanh không chỉ có hình khối mà còn thể hiện
tình yêu thiên nhiên và cảm xúc của tác giả trước mùa xuân. Cử chỉ đầy trân trọng, nâng niu “Tôi đưa
tay tôi hứng” tác giả đã hé mở những rung cảm mãnh kiệt của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của mùa
xuân đó chính là biểu hiện của tình yêu thiên nhiên thiết tha.
Nếu như khổ thơ thứ nhất, nhà thơ đã có những cảm nhận tinh tế về mùa xuân của thiên nhiên
thì sang hai khổ thơ sau mùa xuân của đất nước, của cách mạng hiện ra thật đẹp và lớn lao:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc trải dài trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao
Điệp ngữ “mùa xuân” được lặp lại hai lần, đều đứng đầu câu thơ tô đậm hình ảnh mùa xuân, Các tính
từ “hối hả”, “xôn xao” điễn tả không khí, nhịp điệu của mùa xuân đất nước, niềm vui háo hức trong
lòng người. Hình ảnh lộc non mùa xuân là hình ảnh thiên nhiên đẹp đi vào thơ ca với ý nghĩa ẩn dụ
cho vẻ đẹp và sức sống mới của mùa xuân, mang đến vẻ đẹp trong trẻo, tràn đấy sức sống cho mùa

xuân đất nước, đồng thời thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Mùa xuân gắn liên
với hình ảnh người cầm súng và người ra đồng. Nếu như hình ảnh người cầm súng tiêu biểu cho người
chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc thì người ra đồng tiêu biểu cho người lao động. Gắn với hai
nhiêm vụ chiến đấu và sản xuất của đất nước, qua đó tác giả muốn khẳng định: nhân dân chính là
những người làm nên và giữ mãi mùa xuân đất nước. Lặp cấu trúc ngữ pháp tạo nhịp điệu khẩn trương
sôi động của cuộc sống mới trên đất nước ta. Từ đó tác giả suy ngẫm về mùa xuân đất nước:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước
Điệp từ đất nước được lặp lại hai lần nhấn mạnh hình ảnh đất nước chính là hình tượng trung tâm của
tác phẩm, đồng thời tạo nhịp điệu thơ trữ tình sâu lắng phù hợp với cảm hứng về mùa xuân đất nước.
Thời gian bốn ngàn năm gắn liền với chiều dài lịch sử đất nước, qua đó, ca ngợi truyền thống lịch sử
vẻ vang của dân tộc, vượt qua những giai đoạn thăng trầm để trường tồn và phát triển. Các tính từ “vất
vả”, “gian lao”thể hiện ý thức sâu sắc về đất nuóc nhỏ bé anh hùng. Biện pháp so sánh “Đất nước như
vì sao” làm cho hình ảnh đất nước thiêng liêng mà gần gũi, đất nước sẽ luôn vững vàng đi lên dù có
gặp bao thử thách như vì sao tỏa sáng giữa đêm tối.
Qua tác phẩm của mình, Thanh Hải đã gửi gắm ước nguyện chân thành, cao đẹp:
Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến
Điệp ngữ “Ta làm” được lặp lại hai lần nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt của nhà thơ. Nếu như mở đầu
tác phẩm, đại từ “tôi” mang ý nghĩa cá nhân thì đến đây được thay thế bằng đại từ “ta” mang nghĩa
rộng hơn, cho thấy ước nguyện của nhà thơ hòa chung với ước nguyện của mọi người, tạo nhịp điệu
thơ sôi nổi háo hức. Hình ảnh “con chim hót”, “nhành hoa”là những hình ảnh thiên nhiên đã xuất hiệ ở
phần mở đầu tác phẩm, đến đây nó tạo ra kiểu kết nối tự nhiên, chật chẽ của cảm xúc thơ. Tuy nhiên ở
khổ thơ này là hình ảnh ẩn dụ giúp tác giả gửi gắm ước nguyện sống có ích, sống đẻ cống hiến đem lại
niềm vui cho mọi người. Sự liên tưởng giữa nốt nhạc trầm và bản hòa ca là mối liên hệ giưa cái hưu
hạn nhỏ bé với cái lớn lao, giữa sự âm thầm và những giá trị bất tử. Tác giả muốn sống có ý nghĩa như

con chim dâng đời tiếng hót, đóa hoa tỏa hương cho đời thì mỗi ngườ sẽ giống như một nốt nhạc làm
nên bản hòa ca của đất nước. nhà thơ gửi gắm lí tưởng sống qua đoan thơ:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc
Hình ảnh mùa xuân nho nhỏ cũng là nhan đề của tác phẩm có ý ngĩa sâu sắc. Mùa xuân là mùa mở
đầu của một năm với sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp trong trẻo tràn đầy sức sống. Thông qua hình ảnh
này tác giả gửi gắn khát vọng sống có ý nghĩa với tất cả sức sống tuổi trẻ của mình. Biện pháp hoán
dụ “tuổi hai mươi” và “khi tóc bạc”. Trong đó tuổi hai mươi chỉ tuổi trẻ, tuổi thanh xuân, quãng đời
đẹp nhất của con người, con tóc bạc chỉ tuổi già. Ở đây, Thanh Hải thể hiện sự tiếp nối, cống hiến cả
cuộc đời cho đất nước. Lặp cấu trúc ngữ pháp “Dù là” mang sắc thái khẳng định, sẵn sàng vượt qua
mọi khó khăn để cống hiến cho sự nghiêp chung bằng tất cả trái tim.
Khổ thơ kết là khúc hát ngợi ca đất nước:
Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nước non ngàn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.
Hình ảnh mùa xuân là ẩn dụ cho mùa xuân lớn lao của đất nước và ước vọng sống đẹp, sống có ích.
Điệp ngữ “Nước non ngàn dặm” được lặp lại hai lần tô đậm hình ảnh đất nước bao la hùng vĩ, từ đó
gửi gắm niềm tin vào sự phát triển vững mạnh trường tồn của đất nước. Kết thúc bằng điệu ca Huế nổi
tiếng khẳng định truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc riêng.
Với tứ thơ độc đáo, hình ảnh giản dị, gần gũi. Bài thơ thể hiện niềm tin vào tương lai phát triẻn
của đát nước. Qua đó chúng ta cũng thấy được nỗi lòng và ước nguyện muốn được dâng hiến cho đời
của nhà thơ, đó cũng là khát vọng của những người Việt Nam yêu nước.
6) Bến quê – Nguyễn Minh Châu - 1985
“Bến quê” là tình cảm mà Nguyễn Minh Châu đã gởi gắm qua nhân vật Nhĩ, tình yêu. Nhĩ – một
người từng đi đến khắp nơi tận cùng của Trái đất nhưng đến cuối đời, căn bệnh hiểm nghèo buột chân
anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hoàn cảnh đặc biệt này, anh mới nhận

ra những nét gần gũi, bình dị của quê hương mình.
Vào buổi sáng đầu thu, nằm trên giường bệnh cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt anh đẹp biết bao.
Nhĩ đưa mắt nhìn từ gần ra xa, từ thấp lên cao qua ô cửa sổ nhà mình. Mấy bông hoa bằng lăng như
đậm hơn. Mặc dù Nhĩ đã đc đi tất cả mọi xó xỉnh trên trái đất nhưng lại chưa bao giờ đặt chân lên gò
đất bên kia sông. Thấp thoáng phía xa là con sông Hồng với những tia nắng chiếu xuống, nước sông
có màu vàng thau đẹp lạ thường.
Mọi thứ tưởng chừng rất đỗi quen thuộc lại trở nên hết sức lạ lẫm trong mắt Nhĩ- Cảnh vật đẹp quá
làm Nhĩ cứ ngắm hoài một cách say mê. Bỗng Nhĩ thấy “vòm trời như cao hơn”, “dòng sông như rộng
ra”. Cảnh vật vẫn hiện hữu bao lâu nay như thế đấy chứ? Đó chỉ là cái nhìn của một con người có dự
cảm sắp phải đi xa, đến một nơi rất xa, xa lắm….
Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình một điều: mình không còn sống được bao lâu nữa?
Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn sau những câu hỏi anh đã hỏi Liên- vợ mình: “Hôm nay đã là
ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. Hình như Liên đã hiểu những gì Nhĩ đang nghĩ nên chị không trả lời. Không
phải ngẫu nhiên mà những bông hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi
bồi bên kia sông lại vang đến tại Nhĩ hay Nhĩ hỏi Liên nhưng câu như thế nó dự báo về quãng đời còn
lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng.
Những hình ảnh mang tính biểu tượng được Nguyễn Minh Châu sử dụng khá thành công. Một con
người luôn đi đến những nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì không đau khổ nào
bằng. Nhưng chính những ngày này Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn rõ được hình ảnh của quê
hương. Đó là những bông hoa bằng lăng, là con sông, là bãi bồi, là vòm trời quê hương…
Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh chưa quan tâm hết mực nay
hiện ra trước mắt anh hình ảnh, một dáng dấp tần tảo, chịu đựng, giàu đức hy sinh. Mọi sinh hoạt của
Nhĩ đều nhờ vào sự chăm sóc của Liên. Đến lúc này anh mới thấy thương và yêu vợ mình hơn bao giờ
hết. Dù bao năm tháng đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề thay đổi cũng như quê hương vậy,
vẫn chan chứa nghĩa tình.
Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê hương, yêu thương những gì gần gũi, bình
dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông Hồng nhưng
anh biết điều này không thể. Anh đã nhờ con anh- Tuấn thực hiện ước nguyện này giúp anh. Nhưng
nghịch lý thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình mong muốn. Tuấn chưa hiểu được ý
muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh sa vào đám phá cờ thế trên đường để thoả mãn

nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình. Nhĩ không trách Tuấn bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ
chăng chỉ có những người từng trải như anh mới hiểu hết được sự đời, mới thấy được những gì mình
cần phải làm?
Lúc này, Nhĩ mới nhận ra một triết lý. Con người khó tránh khỏi cái “vòng vèo”, “chùng chình” trên
đường đời để hướng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý trong cuộc đời mỗi
người không ai có thể lường hết được. Và hai tình huống nghịch lý trong truyện này cũng là một minh
chứng để mỗi người biết cách sống tốt hơn, sống đẹp hơn.
Mong ước cuối cùng của Nhĩ không thể thực hiện được. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ một cách xa xăm,
đầy mê say. Anh mãi mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động cuối cùng của Nhĩ: “đu mình ra
ngoài cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang ra hiệu cho một ai đó” có vẻ kỳ quặc. Nhưng có
thể Nhĩ đang nôn nóng thúc giục con trai mình hãy nhanh chóng để lỡ chuyến đò; hay đó là một sự
đánh thức con người hãy sống khẩn trương, sống có ích, đừng sống vô bổ và tránh xa những cái “vòng
vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời. Nhưng rồi con đò cũng cập bến và Nhĩ cũng ra đi trong nổi niềm
tiếc nuối, ân hận.
“Bến quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi vào cõi vĩnh hằng nhưng trong
anh còn chứa bao tiếc nuối. Hoàn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh nhận ra được những giá trị
gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê hương mình. Con người ta ai cũng thế, bao lần
vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu là họ có vực dậy mà đi tiếp không.
Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo duổi những ước mơ xa vời nơi chân trời tươi đẹp nhưng anh lại
đánh mất hình ảnh của quê hương, của người thân. Đến lúc Nhĩ nhận ra mọi sự việc thì đã quá muộn
màng. Cuộc sống đối với Nhã chỉ toàn là vô vị chỉ khi cuối đời thì phần người chang chứa thi vị trong
anh mới thực sự rõ nét. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh được nằm dưới khoảng đất yêu
thương của quê mình, được đất mẹ che chở đến ngàn thu, đây cũng là một niềm hạnh phúc.
Truyện ngắn “Bến quê” khép lại để cho người đọc cảm thấy ngậm ngùi cho cuộc đời một con người.
Nhưng bài học triết lý sâu xa của truyện còn âm ỉ mãi. Trong cuộc sống có bao lần ta mắc phải cái
“vòng vèo”, “chùng chình” của đường đời, hãy sống sao cho thật có ích, phải biết trân trọng những giá
trị gần gũi, bình dị của quê hương bởi lẽ dù cho ta có đi đến nơi nào thì quê hương vẫn là điểm dừng
chân cuối cùng của cuộc đời mỗi con người.
7) Viếng lăng Bác – Viễn Phương – 1976 – Như mây mùa xuân








×