Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG PHÁP SÁNG TẠO SCAMPER TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ ĐIỀU HÀNH ANDROID

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 36 trang )

Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 1
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
LỜI NÓI ĐẦU
“Con người có thể sống thiếu không khí trong vài phút, thiếu nước trong hai
tuần, thiếu thực phẩm trong hai tháng và thiếu ý tưởng mới từ năm này sang năm khác.”
Kent Ruth
Arthur Schawlow, một người được trao giải Nobel trong lĩnh vực Vật Lý, đã từng
nói: “Lao động dựa theo tình cảm là một việc rất quan trọng. Các nhà khoa học thành
công thường không phải do họ là những người giỏi nhất mà vì họ là những người bị sự
tò mò thúc đẩy mạnh nhất. Họ muốn tìm ra câu trả lời”.
Những người bị thúc đẩy bởi các động lực bên trong thường sáng tạo hơn nhiều do
họ tham gia sâu hơn vào công việc. Hãy tưởng tượng một việc mà bạn được giao – ví dụ


như một vấn đề tiếp thị quan trọng cần giải quyết – nó như một mê cung mà người dùng
phải vượt qua.
Theo các nhà tâm lý học thì hoạt động sáng tạo được xem là dạng hoạt động cao nhất
của con người. Năng lực sáng tạo là cốt lõi của hoạt động sáng tạo, làm tiền đề bên trong
của hoạt động sáng tạo, nó được xác định từ chất lượng đặc biệt của các quá trình tâm lý
mà trước hết là quá trình trí nhớ, tư duy, xúc cảm, ý chí,…
Việc rèn luyện năng lực tư duy sáng tạo hiện nay thường gắn liền với một phương
pháp nhận thức mới là phương pháp giải quyết bài toán (problem solving method), với
quan niệm mới xem rằng nhiệm vụ của khoa học không phải (và cũng không thể) là tìm
kiếm chân lý, mà là tìm kiếm lời giải cho những bài toán mà con người liên tục gặp phải
trong cuộc sống. Yếu tố cốt lõi của phương pháp giải quyết bài toán là tư duy sáng tạo,
sáng tạo trong việc xác định bài toán, xác định các mục tiêu của bài toán, tạo sinh các ý

tưởng bằng các thao tác trí tuệ như tưởng tượng, phỏng đoán, so sánh với các ẩn dụ, đưa
ra các giả thuyết, phê phán và đánh giá các giả thuyết, rồi lựa chọn các lời giải, thực thi
từng phần hoặc toàn bộ một lời giải đã chọn, đánh giá các lời giải khả thi, sửa đồi để
hoàn thiện lời giải, …
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 2
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Phương pháp SCAMPER là một trong những kỹ thuật để giúp chúng ta tư duy
sáng tạo hiệu quả nhất, hãng Google cũng đã vận dụng phương pháp này để phát triển
sản phẩm Android nói riêng và các sản phẩm nói chung của mình.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 3
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Phần I. Phương pháp SCAMPER

Sáng tạo là một khái niệm tương đối mới. Không biết hai chữ “sáng tạo” trong
tiếng Việt xuất hiện từ lúc nào, nhưng chữ created xuất hiện trong Từ điển Oxford từ
khoảng năm 1393, và mãi đến năm 1875 thì creativity mới xuất hiện trong Từ điển. Lúc
đó chữ creativity dùng để chỉ sự tưởng tượng trong thơ. Vào cuối thập niên 1950s, nhà
tâm lí học J. P. Gilford (Đại học Southern California) định nghĩa sáng tạo với nghĩa hẹp
là những hoạt động sáng chế, thiết kế, và xếp đặt sự việc. Ngày nay, trong thế giới khoa
học, sáng tạo (creativity) được định nghĩa là những tri thức và kĩ năng mới, chưa từng
được biết đến trước đây, gây ngạc nhiên và có ích.
Sự sáng tạo có thể nói đã xuất hiện từ xa xưa, ngay khi con người biết suy nghĩ.
Sáng tạo là một biểu hiện tự nhiên thể hiện của con người và là một phần không thể
thiếu trong cuộc sống của chúng ta. Sáng tạo giúp con người và vạn vật đổi mới, đáp
ứng được nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống. Bất kỳ ngành nghề nào, lĩnh vực nào,

đều cần có sự sáng tạo để phát triển. Sáng tạo là ý tưởng, mà ý tưởng xuất phát từ não
bộ.
Như chúng ta đã được học, bộ não của con người được cấu tạo từ hàng tỉ tế bào
não gọi là nơ-ron thần kinh. Mỗi nơ-ron tuy có kích thước cực nhỏ nhưng lại có sức
mạnh xử lý thông tin tương đương với một máy vi tính. Bộ lưu trữ thông tin của một nơ-
ron cũng có sức chứa khổng lồ vì mỗi tế bào não bao hàm một bộ gen hoàn hảo đủ để tái
tạo thêm một nhân bản giống ý như chúng ta vậy. Tất cả những gì chúng ta học, trải
nghiệm, đều được lưu giữ trong não bộ. Mỗi đường dây liên kết các nơ-ron với nhau sẽ
giúp ta hình thành trí thông minh, tính logic hay khả năng nghệ thuật. Mỗi con người
hơn kém nhau ở sự liên kết các nơ-ron nhiều hay ít. Theo các nhà khoa học nghiên cứu,
thông thường, chúng ta chỉ mới sử dụng từ 1-3% công suất não bộ. Vậy thử nghĩ xem
nếu chúng ta cố gắng sử dụng số phần trăm còn lại của não bộ thì sao? Chúng ta hoàn

toàn có thể học được cách để giúp não tăng sự liên kết nơ-ron nhằm tạo ra những ý
tưởng hay nói đúng hơn là sự sáng tạo đột phá và có ích.
Như vậy, thực chất, sự sáng tạo luôn có trong mỗi người và sẵn sàng để sử dụng
tùy vào bạn. Sáng tạo khó, nhưng cũng không phải khó. Khó ở đây là không phải ai cũng
có thể sáng tạo, nhưng không khó ở chỗ sự sáng tạo có thể được tạo ra nhờ vào việc vận
dụng các phương pháp về cách suy nghĩ sáng tạo.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 4
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Não bộ giống như một cơ bắp vậy. Chúng ta phải biết cách tận dụng nó để nó
phát huy khả năng vô hạn, hay là không biết cách vận dụng để nó trở thành một cơ bắp
lỏng lẻo và vô ích?
Ngày nay, có khá nhiều phương pháp sáng tạo khác nhau. Tuy nhiên, phương

pháp sáng tạo SCAMPER tỏ ra có nhiều ưu điểm trong việc phát triển hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Hai trọng tâm sáng tạo trong doanh nghiệp là sáng tạo
trong phát triển đổi mới sản phẩm và sáng tạo trong tiếp thị kinh doanh sản phẩm.
Phương pháp sáng tạo SCAMPER được tạo bởi Bob Eberle trong đầu thập niên
70.
Và sau đó giáo sư Michael Mikalko phát triển,
SCAMPER là ghép các chữ cái đầu của nhóm từ sau:
Substitute ( thay thế), Combine (kết hợp),
Adapt (thích nghi), Modify (hiệu chỉnh),
Put (thêm vào), Eliminate (loại bỏ) và
Reverse (đảo ngược). Phương pháp sáng
tạo SCAMPER dễ lĩnh hội, dễ vận dụng nhưng khá hữu hiệu nên

ngày càng được sử dụng phổ biến rộng rãi, nhất là trong các doanh
nghiệp.
Bản đồ tư duy (ảnh: nguồn internet)
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 5
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
I. Phân tích SCAMPER
1. Phép thay thế - Substitute
*Nội dung: Thay thế thành tố hiện có của hệ thống bằng thành tố khác.
-Substitute (thay thế): Với 1 sản phẩm, bạn hãy quan sát thành phần tạo nên
chúng và thử suy nghĩ xem liệu các thành phẩm này có thể được thay thế bằng nguyên
vật liệu nào khác? Trong một quá trình làm việc, liệu vấn đề nhân lực thay thế sẽ là ai?
Có nên thay địa điểm? Đối tượng?

- Một số câu hỏi gợi mở phép thay thế:
- Có thể thay thế hay hoán đổi bộ phận nào trong hệ thống?
- Có thể thay thế nhân sự nào?
- Qui tắc nào có thể được thay đổi?
- Có thể dùng nguyên liệu, vật liệu nào khác?
- Có thể dùng qui trình/ thủ tục nào khác?
- Có thể thay tên khác?
- Có thể dùng ý tưởng này tại địa điểm khác?
* Ví dụ:
- Thay thế và chọn lọc đội ngũ bán hàng tốt hơn cho công ty bằng cách đưa ra các
thử thách mới (có khả năng đạt được) cho nhân viên và yêu cầu nhân viên phải
hoàn thành.

- Hạt nêm thay thế bột ngọt để đậm đà thức ăn hơn mà không bị độc hại.
- Ti ngậm cho em bé.
- Nôi tự đưa thay thế cho võng.
- Máy giặt, máy hút bụi…thay thế công sức con người.
2. Phép kết hợp – Combine
*Nội dung: Kết hợp thành tố của các hệ thống khác nhau để tạo ra hệ thống mới.
- Combine (kết hợp): Bạn hãy quan sát xem có thể biến tấu thêm gì, kết hợp thêm
được gì để tạo ra 1 sản phẩm mới, đề cao khả năng hợp lực của từng tính năng.
- Một số câu hỏi gợi mở phép kết hợp:
- Ý tưởng / thành phần nào có thể kết hợp được?
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 6
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm

- Tôi có thể kết hợp / tái kết hợp mục đích của các đối tượng
- Tôi có thể kết hợp hoặc hòa trộn yếu tố này với các yếu tố khác?
- Cái gì có thể kết hợp để gia tăng tính hữu dụng?
- Những vật liệu nào có thể kết hợp với nhau?
- Tôi có thể kết hợp những năng lực khác nhau để cải thiện vấn đề?
* Ví dụ:
- Học thuyết di truyền mà các nhà nghiên cứu gene hiện đại lấy làm nền
tảng bắt đầu khi một mục sư người Áo Grego Mendel kết hợp Toán học và
Sinh học để tạo ra một môn khoa học mới.
- Dao đa năng
- Bút chì có tẩy phía đuôi.
- Búa có đầu nhổ đinh

- Điện thoại di động tích hợp máy ảnh, camera, máy vi tính.
- Đường và cà phê (cùng một gói)
3. Phép thích ứng – Adapt
*Nội dung: Thích ứng hệ thống trong một bối cảnh khác.
- Adapt: Nghĩ xem khi thay đổi, các tính năng này có phù hợp không?
- Một số câu hỏi gợi mở phép thích ứng:
- Đối tượng ta đang xem xét giống với cái gì khác?
- Có cái gì tương tự với đối đối tượng ta đang xem xét nhưng trong một tình
huống khác?
- Ý tưởng nào khác có thể đề xuất?
- Cái gì tôi có thể copy, mượn hay đánh cắp?
- Tôi có thể tương tác với ai?

- Ý tưởng nào tôi có thể hợp nhất?
- Quá trình nào có thể được thích ứng?
- Ý tưởng nào ngoài lĩnh vực của tôi có thể hợp nhất?
*Ví dụ:
- Sạc pin bằng năng lượng mặt trời
- Quạt tay  Quạt máy  Máy lạnh.
- Mắt nhân tạo cho chim truyền tin
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 7
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
- Túi trà tiện lợi hơn vì không có bã khi uống.
- Bút, viết cho trẻ em được thiết kế nhiều hình thù đặc biệt (bút cho bé gái có
đính kèm lược hoặc gương, bút cho bé trai có đầu bút hình siêu nhân…)

- Máy tính dạng sổ tay.
4. Phép điều chỉnh – Modify
*Nội dung: Điều chỉnh qui mô thành tố của hệ thống.
- Modify (điều chỉnh): tăng và giảm kích cỡ, thay đổi hình dáng, thuộc
tính,
- Một vài câu hỏi gợi mở phép điều chỉnh:
- Yếu tố nào có thể điều chỉnh lớn hơn?
- Yếu tố nào có thể cường điệu hoặc cực đoan?
- Yếu tố nào có thể cao hơn, to hơn hay mạnh hơn?
- Tôi có thể gia tăng tần số của hệ thống?
- Yếu tố nào có thể lặp lại? Tôi có thể tạo ra nhiều bản sao?
- Tôi có thể bổ sung them những đặc trưng mới hoặc giá trị mới?

*Ví dụ:
- Tốc độ xử lý của hệ điều hành ngày càng tăng.
- Bộ nhớ trong lớn hơn cho máy tính, điện thoại ngày nay so với thời xưa.
- USB, thẻ nhớ đi kèm cho các thiết bị kỹ thuật số.
- Xe bus hai tầng.
- Máy ghi âm hình cây viết.
5. Phép thêm vào – Put
*Nội dung: Thêm thành tố mới vào hệ thống.
- Put: Có thể áp dụng cho cách dùng khác? Mục đích khác? Lĩnh vực khác?
- Một vài câu hỏi gợi mở:
- Đối tượng đang xem xét có thể dùng vào mục đích khác?
- Đối tượng đang xem xét có thể dùng bởi người khác với mục đích khác?

- Trẻ em hay người già sử dụng đối tượng đang xem xét như thế nào?
- Có cách nào khác sử dụng đối tượng đang xem xét không?
- Có thể sử dụng ý tưởng này trong lĩnh vực khác, thị trường khác?
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 8
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
*Ví dụ:
- Que đè lưỡi thiết kế thành khung hình, ngôi nhà gỗ dùng làm quà lưu niệm
handmade.
- Phần đầu chai nước suối cắt ra có thể dùng làm cái phễu.
- Bánh xe dùng làm phao cứu hộ.
6. Phép loại bỏ - Eliminate
*Nội dung: Loại bỏ thành tố khỏi hệ thống.

- Eliminate: loại bỏ và đơn giản hoá các thành phần, nghĩ xem chuyện gì xảy ra
nếu bạn loại đi hàng loạt các quy trình, sản phẩm, vấn đề và cơ hội, nghĩ xem
bạn sẽ làm gì với tình huống này?
- Một vài câu hỏi gợi mở phép hạn chế / loại bỏ:
- Tôi có thể đơn giản hóa đối tượng như thế nào?
- Bộ phận nào có thể loại bỏ mà không làm thay đổi tính năng hệ thống?
- Bộ phận nào không mang tính cốt lõi hay không cần thiết?
- Qui tắc nào có thể hạn chế hoặc loại bỏ?
- Tôi thực hiện với qui mô nhỏ hơn sẽ ra sao?
- Tính chất nào của hệ thống tôi có thể giảm thiểu hoặc loại bỏ?
- Tôi có thể chia tách hệ thống thành các bộ phận khác nhau?
- Tôi có thể làm cho đối tượng tinh gọn hơn?

*Ví dụ:
- Chiếc điện thoại được coi là "di động" đầu tiên trình làng với tên gọi Carry
Phone, rất cồng kềnh cho việc di chuyển vì nó nặng đến 4,5 kg, sau được rút gọn
dần dần và giờ là kích thước như chúng ta biết.
- Micro, bàn là, chuột, bàn phím không dây
- Tai nghe Bluetooth
- Xe đạp: lúc mới được sáng chế, xe đạp có bánh trước rất to, được nối với nhau
bởi một thanh gỗ. Càng về sau, chiếc xe đạp được thu nhỏ lại với kiểu dáng cực
kỳ thời trang.
7. Phép đảo ngược – Reverse
*Nội dung: Đảo ngược trật tự các thành tố của hệ thống.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 9

Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
- Reverse: Bạn có thể lật ngựợc vấn đề? Cách suy nghĩ này sẽ giúp bạn nhìn rõ
mọi góc cạnh của vấn đề cũng như như cơ hội thấy điểm mới cho vấn đề.
- Một vài câu hỏi gợi mở phép đảo ngược:
- Có phương án cấu trúc khác tốt hơn phương án hiện hành?
- Có thể hoán đổi bộ phận này với bộ phận khác trong hệ thống?
- Có thể bố trí theo lớp hay theo chuỗi?
- Có thể hoán đổi giữa tác nhân và hệ quả?
- Có thể thay đổi nhịp điệu hay lịch trình của kế hoạch?
- Có thể hoán đổi giữa yếu tố tích cực và yếu tố tiêu cực?
- Có thể tác động ngoại vi thay vì chính diện? Tác động bên trên thay vì
bên dưới? Tác động bên dưới thay vì bên trên?

- Xem xét vấn đề/bài toán theo chiều hướng ngược lại?
- Thực hiện ngược lại với dự định ban đầu?
*Ví dụ:
- Máy phát chu trình liên hợp
- Hình thành nền thương mại điện tử: mua hàng trên Internet, qua điện thoại hoặc
Tivi.
- Tái chế rác (cho nguyên vật liệu)
- Giấy dính ghi nhớ
II. Ví dụ minh họa
Trong lịch sử hình thành nên chiếc điện thoại, các nhà sản xuất đã không ngừng
vận dụng phương pháp SCAMPER để có thể cải tiến chiếc điện thoại ngày càng đa
dạng và tích hợp được nhiều chức năng. Ứng với mỗi phép trong phương pháp

SCAMPER, ta có những đổi mới mang tính tích cực cho chiếc điện thoại:
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 10
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
- Substitute – Thay thế bàn phím cứng thành bàn phím cảm ứng cho điện thoại.
- Combine – tích hợp điện thoại với máy nghe nhạc, máy chụp hình.
- Adapt – thêm sim cho điện thoại để hình thành chiếc điện thoại 2 sim 2 sóng.
- Modify – đa dạng hoá về hình dáng, kích thước và thiết kế của chiếc điện thoại: nắp gập,
nắp trượt, cảm ứng…
- Put - nếu trước kia, chiếc điện thoại chỉ có thể nghe-gọi là chính, thì điện thoại ngày nay
có thể dùng như một chiếc máy vi tính bao gồm: nghe nhạc, chơi game, xem phim,
lướt web…
- Eliminate – loại bỏ các chi tiết cồng kềnh, không đáng có để tối giản hóa chiếc điện

thoại như ăng-ten, bàn phím cứng…
- Reverse – điện thoại nắp xoay 360
o
Phương pháp SCAMPER giúp chúng ta có khả năng phát triển được các ý tưởng
khác nhau cũng như nhận biết ra các hướng đi mới cho vấn đề. Những ý tưởng và những
hướng đi khác nhau đó có thể trực tiếp giúp ta giải quyết vấn đề hoặc là bước khởi đầu
hoàn hảo cho những ý tưởng mới mang tính đột phá và giá trị.
III. Vận dụng phương pháp SCAMPER để giải quyết vấn đề
“Kể cả khi chúng ta không phải là một thiên tài, chúng ta vẫn có thể dùng cách
mà Aristotle và Einstein đã dùng để tăng sức mạnh của khối óc sáng tạo và đồng thời tạo
dựng một tương lai vững chắc”
Để sáng tạo thì quan trọng nhất là cần phương pháp và bài bản, và SCAMPER là

một trong các phương pháp sáng tạo dùng để tạo ra ý tưởng. Với một vấn đề cần phải
giải quyết, áp dụng các câu hỏi xoay quanh các yếu tố trong từng chữ cái SCAMPER sẽ
giúp ta đề ra các giải pháp mới ở nhiều khía cạnh khác nhau của một vấn đề.
- Substitute: thay thế một vài khâu để tạo ra khác biệt.
- Combine: kết hợp các yếu tố, các khâu trong quy trình.
- Adapt: nên thay thế cái gì (thay đổi toàn cục, môi trường).
- Modify: mở rộng quy mô, thay đổi hình dạng.
- Put: đặt và các mục tiêu khác.
- Eliminate: loại bỏ, đơn giải hóa, rút gọn.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 11
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
- Reverse (Re-arangement): Xem xét theo hướng ngược lại.

Vận dụng các phương pháp trên như thế nào?
Lấy ví dụ về kỹ năng của người bán hàng. Đội ngũ bán hàng trong công ty là một
nhân tố quan trọng giúp sản phẩm của công ty được lưu hành, phân phối và mang lại
doanh thu cũng như lợi nhuận cho công ty. Đội ngũ bán hàng không giỏi, góp phần làm
công ty vận hành không tốt ngay lập tức. Do đó, câu hỏi đặt ra là làm sao có thể đổi mới
cách thức tiếp cận khách hàng và bán hàng như thế nào để chốt được hợp đồng nhanh
gọn với giá trị đơn hàng cao, mang về nhiều lợi nhuận cho công ty, từ đó, gia tăng thu
nhập của bản thân người bán hàng.
Áp dụng phương pháp SCAMPER, ta vận dụng các câu hỏi xoay quanh các chữ
cái đầu trong phương pháp:
+ Hạn chế nào cần phải được thay thế trong phương thức tiếp cận (tiếp cận
ngẫu nhiên, không xin hẹn trước, chưa xác định được hay xác định chưa đúng đối tượng

khách hàng phù hợp với phân khúc thị trường của sản phẩm…), và phương thức bán
hàng (chưa khai thác hết nhu cầu khách hàng, chưa hiểu rõ ngân sách khách hàng đã vội
vàng tư vấn và chào giá…)
+ Có thể kết hợp các buổi hội thảo, các khóa học hay buổi họp báo có liên
quan đến lĩnh vực của sản phẩm cần bán để qua đó, vừa giới thiệu sản phẩm, vừa phân
định và chọn lọc khách hàng tiềm năng hay không?
+ Khi đã xác định được đối tượng khách hàng tiềm năng rồi, làm sao để tận
dụng được sức mạnh của người có quyền quyết định để chốt hợp đồng thuận lợi? Chẳng
hạn như bằng cách tìm hiểu các sở thích, thói quen của người đó, các vấn đề người đó
quan tâm để dễ dàng tiếp cận và tạo mối quan hệ tốt.
+ Những vấn đề gì có thể trau dồi thêm để làm phong phú hơn cách tiếp cận
và bán hàng cũng như cách chốt hợp đồng lớn một cách nhanh chóng? Cụ thể như tham

gia khóa học trực tuyến của các chuyên gia bán hàng trên thế giới như Brian Tracy, Zig
Ziglar…, đọc thêm nhiều sách để nâng cao kỹ năng bán hàng được đúc kết từ những
kinh nghiệm thực tế của các chuyên gia cùng ngành.
+ Thay đổi mục đích bán hàng bằng cách đặt mục đích của khách hàng cao
hơn mục đích của bản thân, việc chốt hợp đồng có thể sẽ nhanh hơn và tốt hơn hay
không?
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 12
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
“Bán hàng không phải là bán cái mình có, mà bán cái người khác cần”. Đôi
khi việc đặt giá trị và lợi ích của khách hàng lên hàng đầu sẽ giúp cho ta bán hàng được
dễ hơn, chốt được hợp đồng lớn hơn. Một số người bán hàng hay có thói quen mong sao
bán được hàng để có huê hồng, nhưng họ quên mất việc mang đến lợi ích cho khách

hàng. Câu hỏi trên được đặt ra có thể giúp người bán hàng nhận thức và thay đổi khả
năng trình bày sao cho thiên hướng về lợi ích khách hàng hơn.
+ Những việc làm/ hành động nào cần phải loại bỏ trong cuộc trao đổi với
người mua để người bán hàng tập trung vào việc chốt hợp đồng? Ví dụ như không “tám”
nhiều quá trong cuộc gặp gỡ mà quên mất việc chốt hợp đồng là quan trọng hơn cả,
không trình bày giải pháp hay chào giá cả khi chưa biết được mối quan tâm thật sự hoặc
các thắc mắc cốt lõi của khách hàng.
+ Tự đảo ngược lại các giá trị truyền thống sẽ giúp mang đến sự đột phá trong
nghề bán hàng. Chẳng hạn, không nhất thiết phải ký hợp đồng trong văn phòng. Đôi khi,
ký hợp đồng trong bữa tiệc hay một buổi ăn tối có thể sẽ thuận lợi hơn.
Tóm lại, sáng tạo là một năng lực vô cùng quan trọng trong công việc và
trong chính đời sống. Đó là khả năng tìm thấy điều mới mẻ từ khả năng quan sát và nhận

biết, nó sẽ giúp bạn phát triển thêm những hiểu biết của mình, làm phong phú những ý
tưởng mới, để nhạy bén và sâu sắc hơn trong việc tìm kiếm ý tưởng và giải quyết vấn đề.
Giáo sư – Tiến Sĩ Phan Dũng - tác giả của bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” đã
từng phát biểu: "Cuộc đời mỗi người là chuỗi sáng tạo hoàn toàn và đổi mới không
ngừng".
Thật đúng vậy! Cuộc đời mỗi người là một chuỗi các vấn đề cần giải quyết,
các quyết định cần được đưa ra. Do đó, chúng ta cần phải đưa ra các quyết định đúng,
mà để đưa ra các quyết định đúng đắn, chúng ta phải dựa vào các phương pháp tư duy
sáng tạo mà trong đó, phương pháp sáng tạo SCAMPER là tối ưu nhất.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 13
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Phần II. Quá trình phát triển của hệ điều hành Android

Android đã có những bước đi dài kể từ khi thiết bị đầu tiên dùng hệ điều hành này
xuất hiện, chiếcT-Mobile G1. Trong quãng thời gian ấy, chúng ta đã chứng kiến sự xuất
hiện của rất nhiều phiên bản Android, giúp nó dần biến đổi thành một nền tảng di động
mạnh mẽ như ngày hôm nay. Trong mỗi sản phẩm mới ra đời thì nó đều mang những
đặc tính mới đầy tính sáng tạo.
I. Phiên bản Android 1.0
Kỉ nguyên Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc điện
thoại T-Mobile G1 chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều những tính
năng cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím ảo, cảm ứng đa
điểm hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên bản đầu tiên này vô cùng
quan trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính năng có thể xem là đặc điểm nhận dạng
của Android ngày nay.

HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 14
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Thanh thông báo kéo từ trên xuống: Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android
đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh
tranh thời bấy giờ mặc dù nó không được tốt như Notification Bar trên các thế hệ
Android mới. Người dùng có thể nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai mới gọi
nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà phần mềm trên đang muốn người dùng biết. Tất cả thông báo
đều tập hợp trong một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu
tượng pin, biểu tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối
đa không gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người sử
dụng. Mãi cho đến ngày nay, Android 4.2 vẫn duy trì ý tưởng tuyệt vời này.
Màn hình chính và widget: Nếu bạn muốn so sánh Android, iOS và Windows

Phone, điểm khác biệt lớn nhất đó là một màn hình chính. Màn hình chính của Android
thật sự rất phong phú. Bạn có thể thay đổi hình nền (Windows Phone không làm được
điều này), đặt icon ra màn hình chính, sử dụng widget và hơn hết là thay luôn cả cái màn
hình chính nếu muốn. Độ tùy biến của màn hình chính trên Android có thể xem là cao
nhất trong các hệ điều hành di động hiện nay. Về phần widget, đây cũng là một điểm hay
của Android vì nó cho phép người dùng nhanh chóng truy cập đến một số tính năng nào
đó hoặc xem nhanh các thông tin cập nhật chi tiết một cách nhanh nhất. Widget cũng
đóng vai trò trang trí cho màn hình chính nữa. Symbian cũng có widget nhưng chưa so
được với Android về mức độ phong phú và chức năng (tất nhiên là phải về sau này, còn
lúc mới ra thì chưa có nhiều).
Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức
POP và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng

vấn đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính
năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android 1.0 ra mắt đã
khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm Gmail tốt
nhất trên thị trường vào thời điểm đó.
Về mặt giao diện, Google xây dựng giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của
một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Từ
Android 1.0 đến 2.2, bạn có thể thấy sự xuất hiện của một widget đồng hồ quen thuộc,
tuy đơn giản nhưng khá đẹp mắt, đó chính là dấu ấn của TAT. Một thời gian sau, TAT bị
RIM mua lại để tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng như BBX. Mối
quan hệ của TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 15
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm

II. Phiên bản Android 1.1
Tháng 2/2009, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì to lớn
bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã cho thấy
khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải về và cài đặt
bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời điểm đó, rất ít hệ
điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ đến một phần mềm
chuyên dùng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy Danger Hiptop (được biết
nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần giống over the air theo từng giai
đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty Android Inc. (sau đó Google mua
lại) cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
III. Phiên bản Android 1.5 Cupcake

Android 1.5 có lẽ có vai trò cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của
Android khi nó bổ sung cho hệ điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh
tranh với các nền tảng đối thủ khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi
tên theo các món đồ ăn với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Cupcake là
một loại bánh nhỏ, hơi giống bánh bông lan và có kem bên trên. Sau này ta có thêm
Donut, Eclair (bánh su kem nhưng dài, nhân chocolate), FroYo (ya-ua đá), Gingerbread
(bánh gừng), Honeycomb (một loại bánh có hình tổ ong), Ice Cream Sandwich (bánh
sandwich kem) và mới đây nhất là Jelly Bean (một loại kẹo dẻo viên nhỏ, hình hạt đậu).
Quay trở lại vấn đề chính. Về mặt giao diện, Android 1.5 không có nhiều điểm
thay đổi so với người tiền nhiệm của mình. Google chỉ điểm thêm vài điểm để làm giao
diện trông bóng bẩy, mượt mà hơn một chút, chẳng hạn như widget tìm kiếm có độ
trong suốt nhẹ, biểu tượng app drawer có một số hoa văn nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao

HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 16
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
diện không phải là một điểm nhấn của Android 1.5 mà người ta quan tâm nhiều hơn đến
các tính năng mới mà nó mang lại, chẳng hạn như:
Bàn phím ảo: Nhiều người sẽ ngạc nhiên vì tại sao Google không cho những bản
Android đầu tiên bàn phím mềm? Đâu phải là họ không có khả năng làm đâu? Thực
chất, mục tiêu ban đầu của Android là cạnh tranh với BlackBerry. Thời đó BlackBerry
đang rất nổi và được nhiều người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ, bởi chính bàn phím vật
lí của nó. Bởi vậy mà G1 có một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản
Cupcake này mới có một chiếc điện thoại Android thuần cảm ứng là HTC Magic được
giới thiệu (vào tháng 4/2009, xấp xỉ nửa năm sau khi G1 được công bố).
Cùng với đó, Google tích hợp vào Cupcake những "cái móc", dân lập trình gọi là

hook, để họ có thể tự do viết phần mềm bàn phím của riêng mình cho Android. Lại thêm
một điểm nữa khiến cho Android trở nên khác biệt với các hệ điều hành đối thủ khác.
Lúc Cupcake xuất hiện, bàn phím ảo mặc định rất chậm và không chính xác khi so sánh
với iOS, chính vì thế mà những hãng sản xuất phần cứng như HTC đã phát triển riêng
một biện pháp khắc phục, cũng may là có hook do Google mở ra.
Mở rộng khả năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng
tiềm năng của nó chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm
cho lập trình viên. từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm hiện
tại, kho widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của
bên thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy
biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa.
Cải tiến clipboard: Thật ra Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những

ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể
gõ chữ được) và sao chép các đường link mà thôi. Ví dụ Ta đang đọc mail hay đang
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 17
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
duyệt web thì không thể, chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì
Google cho phép sao chép nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn với
Gmail thì phải đến vài bản nâng cấp sau mới có được tính năng này.
Khả năng quay phim: Thật khó mà tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại
bán ra mà không hề có tính năng quay phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile
G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì
Android mới quay phim được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera mặc định
của Android không tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng

của riêng mình với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số
video.
Và còn rất nhiều đặc tính khác nữa bao gồm khả năng xóa hoặc di chuyển hàng
loạt email trong Gmail, cho phép tải ảnh, video lên YouTube, Picasa, truy cập danh bạ
trong Google Talk từ nhiều ứng dụng khác.
IV.Phiên bản Android 1.6 Donut
Phiên bản bánh Donut này, mặc dù chỉ thêm có 0.1 vào mã số của Android 1.5
nhưng nó cũng mang lại nhiều cải tiến đáng giá. Một vài điểm trong giao diện được cải
thiện, vài tính năng nhỏ được thêm vào, cuối cùng là hỗ trợ cho mạng CDMA. Động thái
này cho phép nhiều nhà mạng hơn có thể sử dụng với Android, giúp cho Android có
thêm một số lượng lớn người dùng ở Mỹ và ở cả Châu Á nữa. Nhưng có lẽ điểm thú vị
nhất của Donut đó là hỗ trợ các thành phần đồ họa độc lập với độ phân giải. Lần đầu

tiên, Android có thể chạy trên nhiều độ phân giải và tỉ lệ màn hình khác nhau, cho phép
những thiết bị có nhiều độ phân giải hơn là 320 x 480. Hiện nay, chúng ta có những
chiếc smartphone Android chạy ở độ phân giải QVGA, HVGA, WVGA, FWVGA,
qHD, và 720p. Vài chiếc máy tính bảng còn đạt mức 1920 x 1080 nữa.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 18
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Tính năng Quick Search Box, được biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với
cái tên Universal Search, cũng là một điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Bạn
có thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng, nhạc, tin nhắn,…, tất cả đều chỉ thao tác trong một
hộp tìm kiếm mà thôi. Trước Donut, khi nhấn nút Search trên máy Android thì bạn chỉ
có thể tìm kiếm thông qua google.com mà thôi. Google cũng cho phép những lập trình
viên tích hợp tính năng tìm kiếm mới này vào ứng dụng của mình để mở rộng thêm khả

năng của Quick Search Box.
Android 1.6 còn có gì mới? Đó là một Android Market với thiết kế mang tông
màu xanh trắng đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng
đầu. Những ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Giao diện camera
mới, tích hợp với trình xem ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh.
Nhưng cũng thường thì các nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình.
V. Phiên bản Android 2.0 Eclair
Đầu tháng 9 năm 2009, một năm sau khi G1 chào đời, Android 2.0 đã được ra
mắt. Thật sự không ngoa khi mô tả Android 2.0 bằng một chữ "lớn". Một cơ hội lớn cho
những nhà phát triển, một tiềm năng lớn cho Android về sau, những chiếc điện thoại
"lớn" được ra mắt và phân phối bởi các nhà mạng lớn. Eclair, tên gọi của Android 2.0,
lúc mới ra mắt chỉ được dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon,

một trong những chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỉ nguyên Android lớn mạnh như
ngày hôm nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó
xuất hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google
khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 19
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Vậy những gì làm cho Eclair quan trọng? Nó là bản nâng cấp và làm mới lớn nhất
mà Android từng có kể từ khi hệ điều hành này được giới thiệu, cả về ngoại hình lẫn
kiến trúc bên trong. Vào thời điểm Motorola Milestone ra mắt, độ phân giải cao và lạ
854 x 480 cùng nhiều yếu tố phần cứng khác đã làm cho sản phẩm này đứng đầu thế giới
Android về cấu hình, nhưng quan trọng hơn là Android 2.0 có những tính năng khiến
cho nó dễ bán hơn, chẳng hạn như:

Hỗ trợ nhiều tài khoản người dùng: lần đầu tiên, nhiều tài khoản Google có thể
được đăng nhập trên cùng một thiết bị chạy Android. Tài khoản Microsoft Exchange
cũng được hỗ trợ trong Eclair. Người dùng có thể duyệt qua danh bạ, email của từng tài
khoản. Google giờ đây cho phép những nhà phát triển bên thứ ba tích hợp dịch vụ của
họ vào trong mục Account này, đồng thời hỗ trợ tự động đồng bộ hóa.
Quick Contact: khi chạm vào một số liên lạc nào đó, có một menu nhỏ sẽ xuất
hiện để bạn tương tác theo nhiều cách: gửi email, gọi điện, nhắn tin và hơn thế nữa.
Miễn là nơi nào có biểu tượng contact xuất hiện là nơi đó có thể dùng Quick Contact.
Sau này có thêm Twitter, Facebook và nhiều dịch vụ đồng bộ khác cũng tích hợp tính
năng riêng của mình vào Quick Contact.
Cải tiến bàn phím ảo: Giống với chiếc G1, Droid/Milestone có một bàn phím
QWERTY đầy đủ dạng trượt ngang nhưng Google cho phép người dùng sử dụng thêm

bàn phím ảo mà hãng đã thiết kế lại. Mặc dù tính năng cảm ứng vẫn còn một điều xa vời
với Android vào lúc đó (trình duyệt, bản đồ và cả các phần mềm khác không hề dùng
được tính năng hai ngón tay để phóng to, thu nhỏ,…) nhưng Eclair lại sử dụng dữ liệu
multitouch từ bàn phím để xác định điểm chạm thứ hai trong lúc người dùng gõ nhanh.
Độ chính xác của bàn phím ảo trên Android 2.0 nhờ đó đã được cải tiến đáng kể.
Trình duyệt mới: Mặc dù chưa hỗ trợ cảm ứng đa điểm nhưng trình duyệt trên
Android 2.0 cũng có nhiều điểm nâng cấp đáng khen. Google đã hỗ trợ HTML5, bao
gồm luôn khả năng phát video ở chế độ toàn màn hình. Hộp địa chỉ kết hợp với thanh
tìm kiếm (giống với trình duyệt Chrome) cũng lần đầu xuất hiện trên Android. Để bù lại
cho tính năng cảm ứng đa điểm, trình duyệt mới hỗ trợ chạm hai lần để phóng to nội
dung trên màn hình, kèm theo đó là hai nút Zoom in, Zoom out.
Giao diện mới: các biểu tượng giờ đây đã đẹp hơn, sang trọng hơn, gọn gàng

hơn nhiều so với trước. Widget cũng được thiết kế mới để tương thích với độ phân giải
cao trên Droid. Giao diện menu cũng đẹp hơn nữa.
VI.Phiên bản Android 2.1 Eclair
Mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ yếu ra mắt để sửa lỗi và thêm
hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ thống nhưng nó đã hỗ trợ thêm vài
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 20
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển giọng nói thành văn bản và một màn hình
khóa mới.
Android 2.1 cũng có rất nhiều ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google.
Nhận thấy rằng các hãng phần cứng thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý
họ, Google đã chọn HTC để làm việc trực tiếp và tạo ra Nexus One, chiếc điện thoại đầu

tiên của hãng. Nexus One mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và
không hề bị chỉnh sửa gì cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có
phần cứng mạnh mẽ thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên
CPU Snapdragon 1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân
giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với Android 2.0.
Google và Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại tốt,
nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh. Và tất nhiên là Google chưa bao giờ
trực tiếp bán Droid cả.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 21
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
VII. Phiên bản Android 2.2 Froyo
Android 2.2 được ra mắt trong năm 2010 và mục tiêu của chương trình Nexus đã

xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được nâng cấp lên
Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện màn hình chính đã
được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình. Dãy nút kích hoạt nhanh
chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện. Những chấm nhỏ ở góc trái,
phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình đang xem đến màn hình nào.
Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt
kịp phần nào với giao diện của bên thứ ba như HTC Sense chẳng hạn.
FroYo còn có một trình xem ảnh mới với khả năng hiển thị hình ảnh 3D: nghiêng
máy thì dãy ảnh sẽ nghiêng theo, đồng thời nó mang trong mình nhiều hiệu ứng chuyển
động đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu mốc về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm phát
triển Android mà Gallery trên FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm phát Wifi cũng xuất
hiện, cách copy, paste mới tốt hơn. Nhiều tính năng bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy

nhiên, với người dùng thông thường thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ duyệt web với
Flash là điểm đáng quan tâm nhất. Hầu như người ta muốn lên FroYo là để tận hưởng
được cảm giác duyệt web với Flash đầy đủ trên thiết bị di động. Android 2.2 bổ sung
thêm tính năng di chuyển một phần ứng dụng từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết
kiệm dung lượng cho các điện thoại thời bấy giờ.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 22
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
VIII. Phiên bản Android 2.3 Gingerbread
Khoảng nửa năm sau khi FroYo xuất hiện, Google đã trở lại với bản Android 2.3.
Google giới thiệu nó với nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa
phương tiện và phương thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread,
hiện bộ SDK Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành.

Bên cạnh đó, chiếc Nexus S do Samsung sản xuất cũng xuất hiện với vai trò là người kế
nhiệm cho Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với người anh em Galaxy S.
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng
mà nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao
diện đen, trông ngầu và chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có
thêm tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của
Google để giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng mới
trên Android 2.3:
Hai thanh chặn khi chọn văn bản: Hồi Android 2.2, việc chọn văn bản khi đang
soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ. Nhờ có thanh chặn này mà người dùng
có thể chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất nhiều.
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 23

Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
Bàn phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có
sự thay đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí tự
cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa điểm
trên bàn phím mà việc việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người dùng nhấn cùng
lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự.
Công cụ quản lí pin và ứng dụng: vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền
thực thụ chứ không bị ngắt lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất nhiều, đặc biệt là
các phần mềm không được viết để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của
mình. Một công cụ mới đã ra mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng
việc quản lí ứng dụng đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào.
Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một phiên bản của hệ điều hành Android hỗ

trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước của thiết bị. Trên chiếc Nexus S có một máy
ảnh trước, nhưng lúc thiết bị này mới ra mắt thì chúng ta không làm được gì nhiều ngoài
việc chụp ảnh "tự sướng".
Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên hơn là
người dùng cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC không có nhiều
ứng dụng thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và dùng NFC để lấy
thông tin về địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint – Mỹ ra đời, Google giới
thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng NFC của mình. Đến bây giờ,
nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện ở nhiều nơi hơn. Thậm chí người
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 24
Môn: Phương pháp nghiên cứu khoa học GVHD: GS.TSKH Hoàng Kiếm
ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR trong tương lai và Android 2.3 đã góp

một phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này.
Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào thị trường game di động vốn đang
bị chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập trình viên quyền truy cập cấp thấp
nhất, tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó,
nhiều game/ứng dụng native ra đời với tốc độ hoạt động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh
phong phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
IX.Phiên bản Android 3.x Honeycomb
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm
đầu tiên dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện
thuần Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì. Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn
đặc biệt trên thị trường nhưng nó là nền tảng cho Android 4.0 sau này với các tính năng
như:

Sử dụng tông màu đen và xanh dương làm tông màu chủ đạo, hệ thống icon và
biểu tượng mới.
Homescreen và widget cũng được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình
cũng tiện dụng hơn nhờ có hình ảnh thu nhỏ của các homescreen trong mục widget nên
người dùng có thể chọn lựa theo ý muốn.
Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.x, người ta không
còn trang bị cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng biệt, cả nút
cứng lẫn nút cảm ứng, mà thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn hình của người
HVTH: Trần Duy Thanh – CH1201063 Trang 25

×